Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ học luyện từ và câu cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.29 KB, 12 trang )

Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Phần 1: Thực trạng đề tài
Trong cuộc sống, Tiếng Việt là vốn ngôn ngữ phát triển toàn diện nhất, có khả
năng đáp ứng mọi nhu cầu giao tiếp trong xã hội. Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông của
cả nước, có vai trò đặc biệt quan trọng trong cộng đồng người Việt Nam nói chung và
trong trường phổ thông nói riêng mà đặc biệt là trường Tiểu học. Bên cạnh đó, Luyện
từ và câu là một trong những phân môn quan trọng góp phần hình thành tri thức và kĩ
năng diễn đạt trong Tiếng Việt cho học sinh ở nhà trường Tiểu học. Nói đến dạy Luyện
từ và câu ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh mở
rộng vốn từ, hiểu nghĩa của từ một cách chính xác và luyện tập, sử dụng từ ngữ
trong nói - viết. Trong 3 nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ mở rộng vốn từ được coi
là trọng tâm.
Thuận lợi của lớp học khi học phân môn Luyện từ và câu: lớp học 2 buổi / ngày,
có cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang; được sự quan tâm của Ban Giám hiệu và phụ
huynh học sinh; có thư viện với nhiều đầu sách và lịch cho học sinh mượn sách rõ
ràng, có chỗ để học sinh có thể đọc sách vào giờ giải lao.
Khó khăn của lớp học khi học phân môn Luyện từ và câu: nhiều học sinh dùng
từ, đặt câu, thái độ học tập phân môn này chưa tốt; các em còn thụ động, chưa hăng
say phát biểu xây dựng bài; vốn sống sự hiểu biết và khả năng diễn đạt của học sinh
còn hạn chế; một số học sinh chưa ham thích học phân môn Luyện từ và câu; đa số các
em đều là con em gia đình lao động nên việc kèm cập các em học tập ở nhà của gia
đình còn hạn chế.
Qua thực tế giảng dạy lớp 5/1 và trao đổi trực tiếp với giáo viên chủ nhiệm năm
trước để nắm kỹ hơn về khả năng mở rộng vốn từ của học sinh, hiểu nghĩa của từ và
cách sử dụng từ ngữ trong nói - viết của học sinh. Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng
của học sinh ở những tiết Luyện từ và câu đầu năm học 2018 - 2019 như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Tổng số


Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
học sinh
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
33
15
45,5 %
13
39,4 %
5
15,1 %
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn Tiếng Việt và làm
giàu vốn từ cho học sinh, trong năm học này tôi quyết định chọn đề tài: “Biện pháp
nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5” đề tài nghiên cứu
nhằm giúp học sinh học tập tốt hơn.
Phần 2: Nội dung cần giải quyết

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 1



Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Từ thực tế, tôi nhận thấy để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho giờ học
Luyện từ và câu trên lớp “Nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, chất lượng hơn”. Tôi đã thực
hiện các nội dung sau:
- Hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức bài học nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy
được tính tích cực của học sinh.
- Hướng dẫn học sinh phân loại hệ thống nhóm từ, từ loại và phát triển từ.
- Coi trọng việc mở rộng vốn từ cho học sinh.
- Giúp học sinh học tốt từ ngữ, nắm nghĩa của từ và câu qua ngữ cảnh.
- Luôn tổ chức và tạo cơ hội cho học sinh thực hành kĩ năng giao tiếp.
- Tổ chức các hoạt động trò chơi lồng ghép giúp học sinh hệ thống kiến thức.
Phần 3: Biện pháp giải quyết
1. Những vấn đề chung:
+ Đối với bản thân:
- Tôi nắm vững mục tiêu và chương trình của phân môn Luyện từ và câu,
thường xuyên nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, tạp chí giáo dục và các tài
liệu khác có liên quan để tìm và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đạt hiệu
quả.
- Tham dự đầy đủ các buổi thao giảng chuyên đề do trường tổ chức, dự giờ đồng
nghiệp để học tập và chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy phân môn này.
- Nắm bắt đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học, có kế hoạch giảng dạy phù
hợp với từng đối tượng học sinh trong mỗi tiết học.
- Tôi luôn chú trọng việc soạn, giảng theo phương pháp đổi mới, chuẩn bị đồ
dùng dạy học thật hấp dẫn nhằm thu hút sự chú ý, gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Thường xuyên áp dụng các phương pháp đổi mới và sử dụng các phương pháp
trong giờ dạy sao cho hợp lí với từng bài, với từng đối tượng học sinh để các em không
bị nhàm chán.

- Mỗi giáo viên phải đến với với học sinh bằng cả tình thương, không xúc phạm
nhân cách học sinh, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng bạo lực học đường.
+ Đối với học sinh:
- Tôi xây dựng nề nếp học tập ngay từ buổi đầu với buổi học đầu tiên, yêu cầu
các em phải chuẩn bị đầy đủ sách, vở, đồ dùng học tập trước khi đến lớp.
- Khuyến khích, động viên các em mạnh dạn, tự tin, vượt qua khó khăn, phấn
đấu vươn lên trong học tập và giúp nhau cùng tiến bộ.
2. Biện pháp cụ thể:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 2


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Nhằm nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5, tôi đã
thực hiện các biện pháp sau:
 Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức bài học nhẹ nhàng, tự
nhiên, phát huy được tính tích cực của học sinh.
*Ví dụ: dạy bài Nghĩa của Từ: Nghĩa của từ là khái niệm về sự vật, hiện tượng
trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong ngôn ngữ, được ngôn ngữ hoá. Nói
cách khác “Nghĩa của từ là các sự vật, hoạt động, tính chất, số lượng mà từ biểu
thị”.
*Ví dụ:
+ Đất: Chất rắn, ở trên đó người và các loại động vật đi lại, sinh sống, cây cỏ
mọc.
+ Công nhân: Người lao động chân tay, làm việc ăn lương.
Nghĩa của từ được miêu tả, giải thích rất rõ ràng trong các sách từ điển.
Khi dạy về nghĩa của từ, chúng ta cần:
- Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với sự vật, hoạt động, tính chất mà nó biểu

thị.
*Ví dụ: Giải thích từ “Chôm chôm”, tôi cho học sinh nhìn thấy quả chôm chôm
(quả có gai mềm ở vỏ, khi chín vỏ có màu đỏ, cùi trắng, ngọt như quả vải).
Giải nghĩa từ “bế”, “ôm” tôi cho các em làm động tác để quan sát.
Ngoài ra, có thể dùng tranh ảnh, mô hình... cho quan sát, từ đó nêu nghĩa của từ
(bằng cách này học sinh có thể hiểu nghĩa của từ chỉ các sự vật, hiện tượng không trực
tiếp nhìn thấy hoặc diễn ra ở xung quanh).
Mặt khác, tôi còn tìm cách giải thích nghĩa của từ sát hợp với tâm sinh lý lứa
tuổi học sinh Tiểu học. Cụ thể lối miêu tả, trực quan khi giải nghĩa từ. Bên cạnh đó, tôi
còn chấp nhận và khuyến khích cách giải nghĩa từ theo lối “khôi phục các biểu tượng”,
hoặc giải nghĩa từ một cách “mộc mạc, gần gũi”... của học sinh.
* Ví dụ:
+ Tổ quốc: Đất nước mình.
+ Bảo biển: Bão ở vùng biển.
+ Bà ngoại: Người sinh ra mẹ.
 Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh phân loại hệ thống nhóm từ, từ loại và
phát triển từ:
Song song với dạy học phù hợp đối tượng học sinh thì việc chia nhóm và phân
loại hệ thống từ, phát triển từ cũng rất quan trọng. Giúp các em phát triển từ theo chủ
đề, chủ điểm dẫn đến học sinh không lẫn lộn và nhầm lẫn về từ, về nghĩa của nó vừa
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 3


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

hợp đối tượng học sinh. Từ đó, tôi giúp học sinh lựa chọn nội dung phù hợp vận dụng
khi thực hành luyện tập.
*Ví dụ: Mở rộng vốn từ : Truyền thống. (Bài tập 3 SGK TV5 tập 2 trang

82). Tìm trong đoạn văn sau những từ ngữ chỉ người và sự vật gợi nhớ lịch sử và
truyền thống :
Tôi đã có dịp đi nhiều miền đất nước, nhìn thấy tận mắt bao nhiêu dấu tích của
tổ tiên để lại, từ nắm tro bếp của thuở các vua Hùng dựng nước, mũi tên đồng cổ Loa,
con dao cắt rốn bằng đá của cậu bé làng Gióng nơi Vườn Cà bên sông Hồng, đến
thanh gươm giữ thành Hà Nội của Hoàng Diệu, cả đến chiếc hốt đại thần của Phan
Thanh Giản... Ý thức cội nguồn, chân lí lịch sử và lòng biết ơn tổ tiên truyền đạt qua
những di tích, di vật nhìn thấy được là một niềm hạnh phúc vô hạn nuôi dưỡng những
phẩm chất cao quý nơi mỗi con người. Tất cả những di tích này của truyền thống đều
xuất phất từ những sự kiện có ý nghĩa diễn ra trong quá khứ, vẫn tiếp tục nuôi dưỡng
đạo sống của những thế hệ mai sau.
Theo HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Ở bài tập này, để củng cố lại kiến thức phân loại từ, từ loại và phát triển từ đã
học . Tôi gọi học sinh nhắc lại “Phân loại từ: từ ngữ chỉ sự vật và từ ngữ chỉ người”.
+ Từ ngữ chỉ sự vật là từ chỉ tên của cây cối, con người (người, cha mẹ, cô
dâu, chú rể, học sinh…), hiện tượng, đồ vật, con vật, cảnh vật.
+ Từ ngữ chỉ người là từ chỉ tên của người được nhắc đến liên quan đến
sự việc.
Từ đó, các em sẽ phân biệt được 2 loại từ ngữ trên và làm tốt bài tập.
- Những từ ngữ chỉ người gợi nhớ đến lịch sử và truyền thống dân tộc:
Các vua Hùng, cậu bé làng Gióng, Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản…
- Những từ ngữ chỉ sự vật gợi nhớ đến lịch sử và truyền thống dân tộc:
Nắm tro bếp thưở các vua Hùng dựng nước, mũi tên đồng cổ Loa, con dao cắt rốn
bằng đá cùa cậu bé làng Gióng, Vườn Cà bên sông Hồng, thanh gươm giữ thành Hà
Nội của Hoàng Diệu, chiếc hốt đại thần của Phan Thanh Giản.
 Biện pháp 3: Coi trọng việc mở rộng vốn từ cho học sinh.
Đây là nhiệm vụ cơ bản của phân môn Luyện từ và câu. Khi có vốn từ phong
phú, học sinh rất thuận lợi trong giao tiếp và tư duy.
Ở lớp 5, loại bài tập mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ được sử dụng khá nhiều
dưới các dạng khác nhau: Tìm từ ngữ cùng chủ đề, tìm từ có tiếng cho trước, tìm từ

cùng nghĩa, gần nghĩa, tìm từ có cùng yếu tố cấu tạo.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 4


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Có thể mở rộng vốn từ bằng nhiều cách:
+ Cách ghép từ: Xuất phát từ từ gốc, bằng phương pháp ghép từ sẽ cho ra các
từ mới.
*Ví dụ: Bài tập 3 - Tiết 3 (Sgk 5) yêu cầu học sinh tìm một số từ có tiếng
“đồng” (theo nghĩa là cùng).
Để học sinh có được vốn từ khá phong phú, tôi đã cho học sinh thi đua tìm từ
điền vào bài thơ sau:
...................tiến bước trước sau nhịp nhàng (đồng hành)
...................tay nắm chặt tay (đồng chí)
...................sum họp bốn phương một nhà (đồng bào)
..................quần áo quả là đẹp thay (đồng phục)
...................hội tụ một nơi (đồng qui)
..................cộng khổ ngọt bùi sẻ chia (đồng cam)
..................cộng tác cùng nghề (đồng nghiệp)
..................thống nhất xin mời giờ tay (đồng ý)
*Ví dụ: tìm một số từ có tiếng “cổ” (xưa, cũ).
Giáo viên nói: Người ta coi đồ cổ là vật quí, nhưng nhiều thứ cổ khác lại quí hơn
nhiều. Em đọc bài thơ sau và hãy tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để thấm thía hơn
về giá trị của những thứ “cổ” ấy.
Đầu xuân vui tết ____(cổ truyền).
Hội làng: vật võ, đu tiên, chọi gà.
Ngôi chùa___làng ta (cổ kính).

Mùa hè gió mát là đà bóng cây
Quê mình đẹp nhất nơi đây
Cây đa ____hồ đầy nước trong (cổ thụ)
Câu chuyện ____ đêm đông (cổ tích).
Bà em đã kể đầy tình yêu thương
_____răn dạy bao lời (cổ nhân)
Chơi nhạc ____ hai ba chục người (cổ điển)
Lâu đài ____ vắng người (cổ kính)
Có cây ____ giữa trời mà reo (cổ thụ).
(TNTP số 5 tháng 1/2007)
a. Phương pháp liên tưởng: Từ 1 từ cho trước sẽ cho ra 1 từ mới cùng nghĩa,
gần nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn.
Loại bài tập này bao gồm một số dạng sau:
 Dạng 1: Điền từ vào chỗ trống:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 5


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Sạch sẽ là không ..................
............là không lộn xộn
.............là không luộm thuộm.
 Dạng 2: Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa được nêu trực tiếp.
Loại bài tập này giúp học sinh thu thập thêm những từ đồng nghĩa, trái nghĩa mà
trước nay bản thân chưa biết hoặc chưa nhận ra, đồng thời tạo cho học sinh một sự
nhạy cảm, để đến khi có nhu cầu giáo tiếp ngôn từ thì có thể dễ dàng huy động các từ
đồng nghĩa, trái nghĩa có như vậy vốn từ của học sinh mới ngày càng phong phú, mới
đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong hoạt động nói - viết của học sinh.

*Ví dụ: dạy bài Từ trái nghĩa (tiết 1- tuần 4). Tôi củng cố kiến thức bằng cách tổ
chức thi sử dụng từ trái nghĩa dưới dạng 2 loại bài tập sau:
 Loại

bài tập 1: Điền từ trái nghĩa vào chỗ trống trong từng câu thơ sau:

*Ví dụ:
Yếu trâu còn hơn …………… bò .( khoẻ)
Bé lại xé ra ............đáng buồn .(to)
Lành làm gáo, ……. làm muôi . (vỡ)
Ở ……. người cười, ở hẹp người chê. ( rộng)
(TNTP số 39A + 39B tháng 3/2002).
 Loại

bài tập 2: Đặt câu với cặp từ trái nghĩa.

*Ví dụ: Đặt câu với cặp từ béo - gầy.
Ở dạng bài tập điền từ, học sinh cần được dựa vào từ cho sẵn (từ in đậm trong
câu thơ), coi đó là từ “điểm tựa” để tìm từ có nghĩa trái ngược, tạo nên một cặp từ trái
nghĩa hoàn chỉnh. Còn ở dạng bài tập đặt câu, học sinh cần căn cứ vào đặc trưng về
nghĩa của cặp từ trái nghĩa đó để đặt câu có nội dung thích hợp.
Hình thức vừa dạy tổ chức trò chơi như vậy ngay trong không gian lớp học, tại
thời gian của lớp học làm cho học sinh đỡ căng thẳng, tạo được hứng thú và niềm tin
trong học tập. Các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của mình và giúp nhau
cùng tiến bộ. Các em không những yêu thích đến trường mà còn dần yêu thích môn
học này.
Có thể nói đây là một giải pháp rất quan trọng giúp người giáo viên nắm bắt và
đo được kết quả học tập của học sinh qua một quá trình dạy học.
b. Phương pháp láy: Tìm ra từ mới bằng cách lặp lại một bộ phận của từ, hoặc
láy lại từ đã cho.

*Ví dụ: Từ từ gốc “vàng” láy từ sẽ cho ra các từ:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 6


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Vàng vọt, vàng vàng.
Từ từ gốc “xinh” láy từ sẽ cho ra các từ:
Xinh xẻo, xinh xinh, xinh xắn.
 Biện pháp 4: Giúp học sinh học tốt từ ngữ, nắm nghĩa của từ và câu qua
ngữ cảnh.
Xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt con người hàng ngày thì hoạt động ngôn
ngữ tái hiện lại những sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh ta. Nên khi dạy phân
môn này giáo viên cần phải gắn với ngữ cảnh, những cái gần gũi với học sinh nhìn
thấy và tiếp cận.
Vì thế khi dạy giáo viên cần hướng dẫn học sinh vào mối quan hệ giữa ngữ cảnh
để học sinh tự khám phá nắm bắt kiến thức một cách chủ động và chắc chắn.
*Ví dụ: dạy bài Nghĩa của từ:
Để chuyển tải được khái niệm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ khi dạy bài:
Nghĩa của từ, tôi đã tìm cách đặt từ vào trong câu, nói rộng hơn là đặt từ trong ngữ
cảnh. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hoá, cụ thể hoá nghĩa của từ và để học sinh hiểu
vấn đề, chúng tôi cung cấp: trong các nghĩa khác nhau của từ nhiều nghĩa, nghĩa nào là
nghĩa trực tiếp, gần gũi, quen thuộc “dễ hiểu” thì đó là nghĩa gốc; còn nghĩa nào là
nghĩa gián tiếp, phải suy ra, hiểu rộng ra từ nghĩa gốc, không thật gần gũi quen thuộc
lắm, có phần “khó hiểu” thì đó là nghĩa chuyển.
Với cách dẫn dắt cụ thể như vậy, học sinh đã nhận biết được nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ rất nhạy bén.
Đây là loại bài dễ sa vào lối giảng giải lý thuyết khô khan, nặng nề, máy móc,

đơn điệu mà tôi cố gắng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tự
tìm ra tri thức bằng cách gợi dẫn thích hợp bằng những ví dụ hết sức cụ thể, rõ ràng.
Hay là khi dạy bài từ đồng nghĩa (tiết 1, tuần 1) chẳng hạn. Mặc dù sách giáo
viên có hướng dẫn nhưng để học sinh dễ nắm bắt kiến thức về từ đồng nghĩa, hiểu dễ
dàng thế nào là từ đồng nghĩa, tôi đã tiến hành như sau:
Đầu tiên tôi cho học sinh quan sát tranh một chiếc máy bay bay trên bầu trời. Để
tìm từ thay thế cho từ máy bay, bất ngờ chúng tôi lại đưa ra một chiếc tàu bay gấp
bằng giấy rồi mô hình một chiếc phi cơ... để các em nhận biết và so sánh nghĩa của từ
máy bay, tàu bay, phi cơ, các em dễ dàng hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa.
Ở bài tập 1 của tiết 2 tôi cho học sinh tìm từ đồng nghĩa chỉ màu sắc qua hình
thức tổ chức tìm từ trong đoạn thơ sau:
* Ví dụ: Tìm các từ chỉ màu trắng:
Đàn cò đậu trắng phau phau
Đôi mắt trắng dã nhìn nhau hận thù
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 7


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Mưa rào trắng xoá đất trời
Cổ tay em trắng nõn nà xinh xinh.
Mẹ may cho áo trắng tinh
Nhìn da trắng bệch bệnh tình bên trong .
Tấm lòng nhân hậu trắng trong
Hặt gạo trắng bóng bao công chuyên cần
Nước da bạn gái trắng ngần
Bãi cát trắng mịn dưới chân sóng trào
Đầu trọc trắng hếu người chê

Tường vôi trắng toát thôn quê đẹp giàu .
(TNTP số 119 tháng 10/2001)
Cách tổ chức như vậy nhằm củng cố kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu tích cực hoá
hoạt động học tập của các em, hình thành năng lực tư duy tốt mỗi học sinh đều được
bộc lộ mình và phát triển rèn luyện óc suy nghĩ tổng hợp, sự quan sát nhanh cùng với
sự thích thú của lứa tuổi hiếu động, giàu cảm xúc, hồn nhiên, luôn ưa thích cái mới lạ,
vui tươi, hấp dẫn.
Kết quả có nhiều học sinh tìm đúng từ và có vốn từ do mình tìm được, học sinh
có hứng thú tích cực hơn và nhớ lâu hơn. Có vốn hiểu biết cơ bản khi vận dụng học tập
cho phân môn cũng như các môn học khác tốt hơn.
 Biện pháp 5: Luôn tổ chức và tạo cơ hội cho học sinh thực hành kĩ năng
giao tiếp.
Đây là một hoạt động vừa học vừa chơi, kích thích được sự năng động và ham
tìm tòi ở từng học sinh trong một tập thể để xây dựng một kết quả học tập.
Trong giải pháp này tôi thường tạo ra các tình huống giao tiếp, tạo điều kiện và
cơ hội cho học sinh giao tiếp, tổ chức cho học sinh cùng tìm ra nội dung kiến thức theo
chủ điểm, theo chủ đề nội dung kiến thức nào đó.
*Ví dụ: Bài Ôn tập về dấu câu (Dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than) –
SGK Tiếng Việt 5 tập 2 trang 115. Tìm dấu câu thích hợp với mỗi chỗ trống:
Tùng bảo Vinh :
- Chơi cờ ca-rô đi...
- Để tớ thua à... Cậu cao thủ lắm...
- A... Tớ cho cậu xem cái này ... Hay lắm...
Vừa nói, Tùng vừa mở tủ lấy quyển ảnh lưu niệm gia đình đưa cho Vinh xem...
- Ảnh chụp cậu lúc lên mấy mà nom ngộ thế...
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 8



Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

- Cậu nhầm to rồi... Tớ đâu mà tớ... ông tớ đấy...
- Ông cậu...
- Ừ...Ông tớ ngày còn bé mà.... Ai cũng bảo tớ giống ông nhất nhà...
Theo HẢI HỒ
Để hướng dẫn học sinh làm bài tập này, tôi cho học sinh đọc theo vai hoặc đóng
vai. Các lời thoại hoặc lời dẫn chuyện phải làm sao thể hiện đúng mục đích nói của
câu. Sau khi được nghe giọng nói, ngữ điệu lời nói, các em sẽ xác định được loại dấu
câu cần đặt vào mỗi chỗ trống.
Khi vận dụng phương pháp thực hành giao tiếp vào dạy học dấu câu, chúng ta đã
tận dụng vốn hiểu biết về ngôn ngữ nói của học sinh vào dạy học để trẻ cảm thấy nhẹ
nhàng hơn trong việc tiếp nhận kiến thức và rèn luyện các kĩ năng học tập mới.
Kết quả cho thấy học sinh rất tích cực, hăng say phát biểu xây dựng bài và có
được kĩ năng trình bày, phát huy được vốn từ ngữ và biết vận dụng nó vào trong thực
hành giao tiếp một cách hiệu quả.
 Biện pháp 6: Tổ chức các hoạt động trò chơi lồng ghép giúp học sinh hệ
thống kiến thức.
Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi, cách
chơi, đồ dùng hỗ trợ…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của
SGK hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập, của tiết học .
Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh.
Một nội dung của bài học có thể tổ chức các trò chơi khác nhau.
*Ví dụ: Mở rộng vốn từ: Trật tự - an ninh (SGK Tiếng Việt 5 tập 2) – BT3:
Hãy xếp các từ ngữ sau đây vào nhóm thích hợp: công an, đồn biên phòng, tòa án xét
xử, bảo mật, cảnh giác, cơ quan an ninh, giữ bí mật, thẩm phán.
a) Chỉ người, cơ quan, tổ chức thực hiện công việc bảo vệ trật tự, an ninh
b) Chỉ hoạt động bảo vệ trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an
ninh.
Ta có thể tổ chức các trò chơi sau:

- Trò chơi đối đáp :
Giáo viên phân thành 2 nhóm. Từng thành viên hiểu từ nào thì hỏi thành viên
khác của nhóm bạn xem từ đó thuộc nhóm nào. Trả lời đúng thì được 1 điểm. Sau đó
đổi ngược lại thành viên nhóm bạn hỏi lại nhóm mình. Cuối cùng tổng hợp điểm của 2
nhóm. Nhóm nào được nhiều điểm thì nhóm đó thắng cuộc.
- Trò chơi Tìm nhà:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 9


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Giáo viên phát cho mỗi học sinh một thẻ từ. Từ đó có thể chỉ người, cơ quan, tổ
chức, thực hiện công việc bảo vệ trật tự, an ninh, một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động
bảo vệ trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an ninh. Học sinh cầm thẻ
thuộc nhóm từ nào thì đi về nhóm từ đó. Căn cứ vào kết quả sẽ biết được em nào hiểu
bài.
- Trò chơi chung sức:
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng nhóm
bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống nhất thì ghi kết
quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp. Giáo viên sẽ tính điểm các
nhóm theo hai tiêu chí: chính xác và nhanh.
Hình thức vừa dạy tổ chức trò chơi như vậy ngay trong không gian lớp học, tại
thời gian của lớp học làm cho học sinh đỡ căng thẳng, tạo được hứng thú và niềm tin
trong học tập. Các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của mình và giúp nhau
cùng tiến bộ. Các em không những yêu thích đến trường mà còn dần yêu thích môn
học này.
Có thể nói đây là một giải pháp rất quan trọng giúp người giáo viên nắm bắt và
đo được kết quả học tập của học sinh qua một quá trình dạy học.

Phần 4: Kết quả
Qua việc thực hiện các những biện pháp trên tôi nhận thấy:
- Giờ học Luyện từ và câu trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, hấp dẫn tạo cho học sinh
sự hứng thú học tập và ham thích học phân môn này.
- Các em tích cực, chủ động, tự tin trong học tập, tham gia tốt các hoạt động học
tập của lớp, mạnh dạn trình bày ý kiến hoặc nêu thắc mắc của mình, cùng các bạn chia
xẻ để nắm vững kiến thức của bài học.
- Học sinh được mở rộng vốn từ, có những hiểu biết sơ giản về từ và câu. Qua
đó, giáo viên đã rèn cho học sinh một số kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu
câu, hình thành cho trẻ thói quen dùng từ đúng, nói - viết thành câu.
- Qua khảo sát mỗi giai đoạn học tập tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh
ở phân môn Luyện từ và câu được nâng lên một cách rõ rệt: Em Nguyễn Phúc Sang ,
Đoàn Phạm Thúy Diễm …có tiến bộ rất nhiều so với đầu năm, các em đã có kĩ năng
dùng từ đặt câu, vận dụng vốn từ nói và viết thành câu hợp lí và thái độ học tập phân
này tốt hơn.
Đến giai đoạn giữa HKII năm học 2018 - 2019, qua bài kiểm tra kết quả đạt
được như sau:

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 10


Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

Hoàn thành tốt
Tổng số
học sinh
33


Số
lượng
21

Tỷ lệ
(%)
63,6%

Hoàn thành
Số
lượng
12

Tỷ lệ
(%)
36,4%

Chưa hoàn thành
Số
lượng
0

Tỷ lệ
(%)
0

Chất lượng học tập của học sinh trong các giờ học luyện từ và câu còn thể hiện
qua việc thể hiện ngôn ngữ giao tiếp với bạn bè, thầy cô và mọi người xung quanh
trong cuộc sống hàng ngày. Các em biết nói tròn câu, biết vận dụng ngôn từ vào văn
hóa giao tiếp. Trong phân môn Tập làm văn, các em biết cách đặt câu, biết lựa chọn từ

ngữ, hình ảnh phù hợp để đặt câu, diễn đạt lưu loát, đầy đủ ý làm cho câu văn, đoạn
văn và bài văn thêm sinh động.
Phần 5: Kết luận
1. Tóm lược giải pháp:
Trong năm học 2018 - 2019, với đề tài trên, tôi đã áp dụng các biện pháp giảng
dạy:
- Hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức bài học nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy
được tính tích cực của học sinh.
- Hướng dẫn các em phân loại hệ thống nhóm từ, từ loại và phát triển từ.
- Coi trọng việc mở rộng vốn từ cho học sinh.
- Giúp học sinh học tốt từ ngữ, nắm nghĩa của từ và câu qua ngữ cảnh.
- Tổ chức các hoạt động trò chơi lồng ghép giúp học sinh hệ thống kiến thức và
tự chữa lỗi.
- Tổ chức các hoạt động trò chơi lồng ghép học sinh hệ thống kiến thức.
Việc vận dụng hiệu quả những giải pháp nêu trên đã giúp tôi tổ chức thành công
các giờ học Luyện từ và câu, đạt được mục tiêu bài học, môn học. Bên cạnh đó, tôi rút
ra cho bài học quý báu cho bản thân:
- Giáo viên cần phải nghiên cứu bài thật kỹ trước khi dạy, nắm vững nội dung
cần dạy cho học sinh.
- Giáo viên cần lựa chọn những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với nội dung của bài dạy, chủ điểm của bài học để gây hứng thú, lôi cuốn cho học
sinh tham gia vào hoạt động học tập.
- Đồ dùng dạy học cần chuẩn bị đa dạng phong phú càng nhiều vật thật càng tốt,
sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học.
- Giáo viên chịu khó sưu tầm hoặc sáng tác các bài thơ, câu đố vui liên quan đến
bài học để làm phong phú và sinh động thêm bài học.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 11



Đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.”

- Giáo viên cần có những hình thức khen và động viên kịp thời đối với những
học sinh có tiến bộ, khuyến khích tất cả học sinh cố gắng phấn đấu vươn lên trong học
tập. Chú trọng bồi dưỡng học sinh năng khiếu và giúp đỡ kịp thời học sinh còn chậm.
- Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
2. Phạm vi, đối tượng áp dụng đề tài:
Qua việc nghiên cứu đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng giờ học Luyện
từ và câu cho học sinh lớp 5” và áp dụng vào công tác giảng dạy lớp 5/1 Trường Tiểu
học Huỳnh Văn Đảnh đã đạt hiệu quả cao. Tôi nhận thấy sáng kiến này có thể áp dụng
rộng rãi cho việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở các lớp (4&5) cấp Tiểu học./.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Quyền

Trang 12



×