Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một vài biện pháp quản lý, chỉ đạo GD kĩ năng tự nhận thức cho học sinh trong trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.01 KB, 13 trang )

Phần 1. Thực trạng đề tài
Học sinh cấp tiểu học là lứa tuổi đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển
những giá trị nhân cách. Các em ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá. Do còn thiếu
hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống nên trẻ dễ bị phát triển lệch lạc
về nhân cách. Mặt khác, trong cuộc sống hiện nay, trẻ thường xuyên chịu tác động đan
xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, phải đương đầu với những khó khăn, thử
thách. Nhằm trang bị cho các em những khả năng để giải quyết các vấn đề từ hoàn
cảnh, từ môi trường xung quanh, nhà trường luôn coi trọng việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh, xem đây là nhu cầu cấp thiết, là nhịp cầu giúp học sinh biến tri thức
thành kỹ năng, thái độ, hành vi và thói quen tích cực phù hợp với thực tế đã góp phần
hình thành và phát triển nhân cách cho các em. Tuy nhiên, thực tế trong nhà trường
hiện nay còn khá nhiều học sinh chưa tự tin trong giao tiếp, ứng xử với những người
xung quanh, còn hạn chế về kỹ năng chia sẻ, trình bày, diễn đạt ý của mình trong
nhóm, chưa hiểu biết nhiều về cách giữ an toàn cho bản thân. Vì thế, trong năm học
2018 - 2019, với chức năng một Hiệu trưởng, để góp phần nâng cao hiệu quả của việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tôi chọn vấn đề: “Hiệu trưởng quản lý, chỉ đạo
giáo dục kỹ năng tự nhận thức cho học sinh tiểu học” làm đề tài nghiên cứu nhằm
giúp các em có những thể hiện tích cực về tính cách, cảm xúc, quan điểm, giá trị, động
cơ, biết phát huy điểm mạnh, khắc phục hạn chế để tổ chức tốt cuộc sống của mình.
Phần 2: Nội dung cần giải quyết
Khi nắm bắt thực trạng, tôi đã tiến hành tìm hiểu nguyên nhân, suy nghĩ các giải
pháp để thực hiện có hiệu quả việc giáo dục học sinh kỹ năng sống nói chung, kỹ năng
tự nhận thức nói riêng gắn với tình hình thực tế của đơn vị. Trong đề tài này, tôi tập
trung vào các nội dung sau:
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc
giáo dục kỹ năng kỹ năng tự nhận thức cho học sinh.
- Giáo dục kỹ năng tự nhận thức thông qua các tiết dạy chính khóa, các hoạt
động ngoại khóa nhằm khuyến khích các em khám phá bản thân một cách khách quan
để trẻ khẳng định mình, biết cách giao tiếp và tự tin trong giao tiếp với cha mẹ, thầy
cô, bạn bè, những người xung quanh, biết cách bảo vệ và giữ an toàn cho bản thân...
- Phối kết hợp nhà trường, gia đình và xã hội để rèn luyện kỹ năng tự nhận thức


cho học sinh.
Phần 3: Biện pháp giải quyết
I. Những vấn đề chung
1


* Công tác tổ chức:
- Căn cứ vào kế hoạch số 961/KH-PGDĐT ngày 25/8/2016 của Phòng Giáo dục
và Đào tạo Tân Trụ về việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học; căn cứ vào
tình hình thực tế, nhà trường tiến hành xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh và triển khai thực hiện ngay từ đầu năm học.
- Thành lập Ban chỉ đạo gồm: Hiệu trưởng, P.Hiệu trưởng (Chủ tịch công đoàn),
Tổng phụ trách, Bí thư chi đoàn, giáo viên chủ nhiệm các lớp. Hiệu trưởng là Trưởng
ban và tiến hành phân công nhiệm vụ của từng thành viên.
- Ban chỉ đạo ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trong toàn trường; tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện, đánh giá, biểu
dương và nhân rộng các điển hình tiên tiến; có biện pháp giáo dục kịp thời đối với
những học sinh chưa thực hiện tốt.
- Nhà trường thực hiện phối kết hợp 3 môi trường giáo dục, tổ chức các buổi
tuyên truyền, phổ biến công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh và được nhà trường duy trì
thường xuyên. Đây là một trong những tiêu chí để đánh giá thi đua đối với giáo viên
chủ nhiệm, Tổng phụ trách và từng giáo viên, đánh giá học sinh, thi đua giữa các lớp
trong năm học 2018 - 2019.
* Đối với Hiệu trưởng:
- Tiến hành phổ biến trong Hội đồng giáo viên, trong cuộc họp cha mẹ học sinh
ngay đầu năm học về mục đích, ý nghĩa và nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Phát động học sinh trong toàn trường thực hiện phong trào thi đua rèn luyện kỹ
năng sống nói chung và kỹ năng tự nhận thức nói riêng.
- Tăng cường công tác quản lý giáo dục các em, chỉ đạo thực hiện lồng ghép giáo

dục kỹ năng sống ở một số tiết học chính khóa và các hoạt động ngoại khóa.
* Đối với các tổ chức, đoàn thể và giáo viên:
- Chi bộ nhà trường, Ban chấp hành công đoàn, Đoàn thanh niên, Tổng phụ trách
cùng với Ban giám hiệu tuyên truyền, vận động đội ngũ thực hiện tốt công tác giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh.
- Giáo viên: tập trung nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của ngành, của nhà trường
về giáo dục kỹ năng sống trong trường tiểu học; tổ chức các hoạt động giáo dục học
sinh và có sự giúp đỡ kịp thời đối với những em còn hạn chế; thực hiện tốt lồng ghép
giáo dục kỹ năng sống ở một số tiết học có liên quan; tạo điều kiện cho học sinh được
2


trải nghiệm để giúp trẻ nâng cao năng lực ứng phó với những tình huống khó khăn
trong cuộc sống hàng ngày.
* Đối với học sinh:
- Tôi khuyến khích, động viên các em chăm rèn luyện để bản thân có kỹ năng
sống tốt hơn, mạnh dạn trình bày với thầy cô, cha mẹ về những vấn đề mà bản thân
cảm thấy khó khăn, lo lắng để người lớn có sự giúp đỡ kịp thời.
- Các em tìm hiểu, ghi nhớ và khắc sâu kiến thức về rèn kỹ năng sống nói chung,
kỹ năng tự nhận thức nói riêng qua các tiết học chính khóa, hoạt động ngoại khóa và
học tập kinh nghiệm qua thực tế cuộc sống. Tích cực thi đua rèn kỹ năng sống, biết giữ
an toàn cho bản thân.
II. Biện pháp cụ thể:
Kỹ năng tự nhận thức là một trong những kỹ năng sống cơ bản giúp trẻ nhận ra
năng lực, sở trường và cảm xúc của bản thân để kết nối chúng vào các lĩnh vực có liên
quan. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tôi đã tiến hành nghiên
cứu đề tài và thực hiện các giải pháp sau:
1. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền trong nhà trường.
- Vào đầu năm học, nhà trường tổ chức tuyên truyền đến tất cả phụ huynh về ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học sinh. Tôi lưu ý phụ huynh

chú trọng việc rèn kỹ năng tự nhận thức cho trẻ bởi các em còn nhiều hạn chế trong
việc thực hiện nội dung này.
- Tôi phân công Tổng phụ trách và giáo viên chủ nhiệm tổ chức tuyên truyền
giáo dục thông qua tiết sinh hoạt Đội, sinh hoạt sao nhi đồng, sinh hoạt dưới cờ đầu
tuần, chương trình phát thanh măng non.
- Các em được nghe báo tuyên truyền thông qua hoạt động vui chơi giúp trẻ rèn
kỹ năng tự nhận thức để các em khẳng định mình, biết cách giữ an toàn cho bản thân.
* Tóm lại: Tuyên truyền là giải pháp quan trọng đã tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong nhận thức, hành động của mọi người để cùng nhau chung tay chăm lo cho
công tác giáo dục và trang bị cho các em những khả năng ứng phó phù hợp với các
tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
2. Ban giám hiệu chỉ đạo việc giáo dục kỹ năng tự nhận thức trong nhà
trường.
a. Giúp trẻ khẳng định bản thân:

3


a.1. Giúp trẻ tự tin trong giao tiếp:
Qua thực tế, tôi nhận thấy đa số học sinh còn thiếu tự tin nhất là các em lớp Một.
Trẻ thường có biểu hiện: nhút nhát, ngại ngùng khi giao tiếp, không dám đưa ra ý kiến
của mình, sợ sệt khi tiếp xúc với môi trường mới. Vì thế, tôi yêu cầu giáo viên chủ
nhiệm nắm bắt tình hình học sinh của lớp, đối tượng học sinh để có biện pháp giáo dục
phù hợp.
Giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, trước tiên giáo viên nên gợi ý cho các em biết
cách giới thiệu sơ lược về bản thân và gia đình. Đây là việc làm tuy đơn giản nhưng rất
cần thiết đối với mỗi học sinh. Cụ thể: Khi giao tiếp với những người xung quanh hay
gặp được bạn mới trong một dịp nào đó, học sinh biết giới thiệu về bản thân: tên, tuổi,
học sinh lớp mấy? Trường nào? Nhà mình ở đâu? Sở thích của bản thân? Đối với
những học sinh nhanh nhạy, giáo viên khuyến khích các em giới thiệu nhiều hơn về

bản thân như: năng khiếu đặc biệt của mình, điều mà bản thân cần phải khắc phục...
Tùy theo đối tượng giao tiếp mà học sinh chọn cách giới thiệu cho phù hợp. Bước đầu
tạo được sự gần gũi, thân thiện với nhau như thế thì chắc chắn trẻ sẽ tự tin trong cuộc
trò chuyện vui vẻ với mọi người.
Một vấn đề hết sức quan trọng đó là tình thương, sự gần gũi, thông cảm, chia sẻ
của thầy cô và cha mẹ đối với con em mình. Trong cuộc trò chuyện với các em, tôi hỏi
một vài học sinh: “Vì sao con không thích trò chuyện với mẹ? Học sinh đáp ngay: “Mẹ
hay rầy la con, khi con nói hay làm gì mẹ không vừa lòng là bị rầy ngay”. Tôi động
viên các em: “Vì mẹ muốn con tốt hơn nên mới như thế”, rõ ràng là như vậy nhưng do
phụ huynh chưa có cách giáo dục phù hợp nên làm tổn thương trẻ. Những lời bộc bạch
của trẻ con rất đáng để cho tất cả người lớn phải suy ngẫm, nếu để trẻ không thích trò
chuyện hay quá sợ sệt thì chắc chắn công tác giáo dục sẽ không thành công. Chúng ta
phải tỏ ra thân thiện với học sinh trong mọi tình huống, không nên chê bai khi các em
còn hạn chế. Khi nhận xét trẻ, đầu tiên giáo viên cần phải tìm ưu điểm của trẻ để khen,
sau đó góp ý và động viên trẻ khắc phục với lời nói thật nhẹ nhàng, phù hợp có như
vậy học sinh sẽ dễ dàng tiếp nhận và noi theo. Thầy cô cũng động viên, khuyến khích
tất cả học sinh thực hiện như thế khi góp ý để giúp đỡ mọi người. Tất cả chúng ta phải
mở rộng tấm lòng yêu thương, bao dung để động viên, khuyến khích trẻ thể hiện bản
thân, tìm cách tốt nhất giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, tự khẳng định mình nhằm góp
phần phát huy sự sáng tạo, sự gắn kết trong học sinh.
a.2. Rèn luyện học sinh tính tự lập:
Phần lớn học sinh tiểu học tính tự lập còn hạn chế bởi kinh nghiệm sống chưa
nhiều. Các em luôn trông chờ những người xung quanh nên trong suy nghĩ và hành
4


động của trẻ thiếu sự quyết đoán, thiếu tự tin. Nhằm phát huy tính tự lập của trẻ, tôi chỉ
đạo Tổng phụ trách và giáo viên chủ nhiệm giao nhiệm vụ cho các em. Tùy năng lực
của từng học sinh, từng nhóm mà thầy, cô phân công cho phù hợp.
Cụ thể: Chào mừng ngày 20 tháng 11, Tổng phụ trách tổ chức cho học sinh khối

4, khối 5 thi làm báo tường với chủ đề “Tri ân thầy cô”. Tổng phụ trách nêu mục đích
của cuộc thi: Nhằm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của các em đối với thầy cô, phát huy
năng khiếu, sự sáng tạo, rèn tính tự lập cho học sinh. Tổng phụ trách lưu ý: Giáo viên
chỉ hướng dẫn học sinh, không được làm thay, khuyến khích các em tự làm, hạn chế
sưu tầm bài viết. Mỗi em làm một tấm thiệp nho nhỏ để chúc tết thầy cô. Sau 10 ngày
phát động cuộc thi, các lớp đã hoàn thành tờ báo tường. Mỗi lớp một tựa đề, một cách
trang trí khác nhau nhưng nội dung đều chứa đựng những tình cảm ấm áp, lòng kính
trọng và biết ơn đối với thầy cô. Tôi thật xúc động khi đọc một bài viết của một học
sinh lớp Năm có đoạn viết: “Ngày hai mươi tháng mười một sắp đến, chúng mình làm
gì để tỏ lòng biết ơn thầy cô. Các bạn hãy nhớ rằng điều mà thầy cô mong muốn lớn
nhất đó là nhìn thấy học sinh của mình chăm ngoan, học giỏi. Chúng mình hãy cố
gắng, nỗ lực thật nhiều trong học tập và rèn luyện phẩm chất các bạn nhé! Đó là phần
quà quí báu nhất mà chúng ta tặng cho thầy cô. Thầy cô kính yêu! Chúng em nguyện
sẽ luôn học hành chăm chỉ mãi mãi xứng đáng là trò giỏi, con ngoan.” và xúc động
hơn nữa là mỗi thầy cô giáo đều nhận được những tấm thiệp rất đẹp do các em tự làm
với những lời chúc thật dễ thương. Chính tình cảm ấy làm cho giáo viên càng thấy yêu
nghề hơn. Hoạt động trên đã góp phần phát huy tính tự lập của học sinh, qua đó làm
cho giáo viên và học sinh đều được ấm lòng bởi tình thương của Thầy – Trò đã dành
cho nhau. Bên cạnh đó, Tổng phụ trách và giáo viên chủ nhiệm đã tổ chức nhiều hoạt
động khác để các em thể hiện trước đám đông như: tổ chức hội thi kể chuyện, thi văn
nghệ, thi vẽ tranh,… Học sinh càng có nhiều cơ hội thể hiện bản thân thì các em càng
có niềm tin vào chính mình. Từ đó, trẻ sẽ mạnh dạn hơn trong việc giải quyết mọi vấn
đề và dễ dàng đem đến sự thành công.
* Tóm lại: Để rèn tính tự lập cho học sinh, giáo viên cần trang bị cho các em
vốn tri thức, một nghị lực để vượt qua những khó khăn, vươn lên trong cuộc sống, một
niềm tin vào sự thành công trong công việc để học sinh có thể nhanh chóng hòa nhập
với bạn bè, với môi trường xung quanh.
b. Biết cách giao tiếp, ứng xử:
Ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc giao tiếp, nếu giàu vốn từ thì trẻ
sẽ diễn đạt tốt. Vì thế, tôi yêu cầu giáo viên quan tâm đến việc giúp trẻ phát triển ngôn


5


ngữ, hướng dẫn học sinh cách sử dụng ngôn từ sao cho phù hợp với đối tượng giao
tiếp. Cụ thể:
- Khi giao tiếp với người lớn: Các em phải thể hiện sự lễ phép, kính trọng, biết
dùng từ ngữ: dạ, thưa và trả lời đầy đủ các ý mà người lớn trao đổi với mình, thông tin
nào chưa trả lời được thì hẹn trả lời sau. Ví dụ: Khi cô giáo hỏi: “Hôm nay, ai đưa con
đến trường?”. Học sinh phải biết trả lời: “Thưa cô! Hôm nay mẹ con đưa ạ!”.
- Khi giao tiếp với bạn bè và em nhỏ: không tự cao, tự đại, không nên chê bai
những điểm yếu của người khác hoặc nói ra những điều đắc ý làm cho bạn buồn lòng,
các em phải đến với nhau bằng tình thân ái, lời nói nhã nhặn và cùng nhau chia sẻ
niềm vui, những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống để mỗi em đều là những
người bạn tốt, những anh, chị mẫu mực.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chú trọng việc rèn luyện cho các em phong cách tự
tin trong giao tiếp, ứng xử. Trước hết, các em cần tạo vẻ bề ngoài tự tin qua cách mặc
trang phục sao cho phù hợp với lứa tuổi và môi trường giao tiếp, giữ cơ thể sạch sẽ, nét
mặt vui tươi, biết thể hiện văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, biết nói lời xin lỗi khi vô
tình làm phiền người khác. Khi học sinh có cách ứng xử chưa tốt, giáo viên không la
rầy mà phải tỏ thái độ ân cần, gần gũi và hướng dẫn trẻ về lời nói cũng như thái độ ứng
xử để các em khắc phục, sửa chữa. Đối với đội ngũ Ban chỉ huy liên đội, cán bộ lớp,
tôi yêu cầu Tổng phụ trách và giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn các em biết cách quản lý
các bạn bằng biện pháp gương mẫu, thân thiện, lời nói nhẹ nhàng, động viên bạn khắc
phục hạn chế, tuyệt đối không quát nạt bạn bè, có như vậy mới được bạn yêu thương,
tín nhiệm. Đối với các bạn còn nhiều hạn chế mà không có sự cải thiện, các em cần
thông tin cho thầy cô biết để kịp thời giúp đỡ các bạn ấy.
* Tóm lại: Việc rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho học sinh đòi hỏi giáo viên
phải kiên trì giúp các em tháo gỡ vướng mắc, vượt qua những khó khăn để trẻ có được
niềm tin vào bản thân, việc làm này phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và lâu

dài thì những kỹ năng được hình thành mới trở nên bền vững.
c. Biết cách giữ an toàn nơi công cộng:

6


Thông qua một số hoạt động học tập trên lớp, các hoạt động ngoài giờ lên lớp
giáo viên cung cấp cho các em những tình huống ứng xử nơi công cộng. Tôi nhắc nhở
thầy cô và cha mẹ nên cho trẻ ghi nhớ tên, địa chỉ nhà ở, tên trường em đang học, số
điện thoại của: trường, giáo viên chủ nhiệm, ba mẹ để khi cần thiết các em có thể liên
lạc hoặc cung cấp thông tin cho mọi người, cơ quan chức năng để tìm được về với ba
mẹ. Giáo viên và phụ huynh cần hướng dẫn giúp học sinh biết cách xử lý phù hợp và
nhanh nhạy trong những tình huống cụ thể. Ví dụ:
+ Em sẽ là gì nếu có người lạ mặt rủ em lên xe để chở về nhà ? (Em kiên quyết
không chịu lên xe cho người lạ chở)
+ Nếu cha, mẹ quên đón em vào giờ tan trường, em sẽ làm gì ? (Em nhờ thầy cô
hoặc người quen gọi điện cho cha, mẹ đón em)
+ Khi đi trung tâm mua sắm hay khu vui chơi, nếu lạc đường em sẽ làm gì?
(phải bình tĩnh, đứng tại chỗ, chờ một lúc lâu nếu không thấy ba mẹ thì tìm sự giúp đỡ
của người tin cậy như: nói với bà mẹ có con nhỏ, chú bảo vệ hoặc cô bán hàng để
thông báo lên loa)

Trong năm học 2018 - 2019, các em được tham gia sân chơi lưu động giáo dục
kỹ năng sống. Thông qua hoạt động này, báo cáo viên đã giúp tất cả học sinh nắm và
ghi nhớ qui tắc 6 cánh hoa để phòng tránh xâm hại tình dục, những kỹ năng tự vệ, đối
phó với kẻ xấu để thoát thân trong những tình huống nguy hiểm, ghi nhớ và thực hành
được một số kỹ năng giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh.
* Tóm lại: Khi giao tiếp với người lạ, các em cần có kỹ năng ứng xử phù hợp,
luôn đề phòng và có cách xử lý kịp thời khi gặp những tình huống bất ổn xảy ra để giữ
an toàn cho bản thân.

3. Chỉ đạo giảng dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống nói chung, kỹ năng tự
nhận thức nói riêng vào các môn học.
Trong chương trình giáo dục cấp Tiểu học hiện nay, việc tích hợp lồng ghép giáo
dục kỹ năng sống nói chung, kỹ năng tự nhận thức nói riêng được đưa vào mục tiêu
cụ thể ở một số môn học, bài học là bắt buộc, tập trung nhiều nhất ở môn Tiếng Việt,
Đạo đức, Tự nhiên và xã hội. Nhằm thực hiện hiệu quả nội dung này, ngay từ đầu năm
học, nhà trường tổ chức cho giáo viên tập huấn chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề về
việc thực hiện tích hợp lồng ghép giáo dục các kỹ năng cơ bản và triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, Ban giám hiệu chỉ đạo thực hiện tốt công tác soạn giảng, thao giảng, dự
giờ của giáo viên, cùng nhau bàn bạc đưa ra những phương pháp giảng dạy phù hợp để
7


đạt mục tiêu đề ra, tìm cách tháo gỡ những vấn đề còn vướng mắc trong giảng dạy và
lồng ghép giáo dục.
Tôi luôn nhắc nhở giáo viên chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, sử dụng tốt đồ dùng dạy
học, tạo được bầu không khí học tập thoải mái, vui vẻ, thân thiện. Trong giờ học, giáo
viên cần tạo cơ hội cho các em được nêu ý kiến, được trình bày trước nhóm bạn, trước
tập thể, nhất là những học sinh còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp hạn chế. Từ đó, trẻ sẽ
mạnh dạn, tự tin hơn trong việc khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới. Qua đó, các
em rút ra cho mình một bài học quý báu, một kỹ năng sống tốt.
Ví dụ: Môn Tự nhiên và xã hội (Lớp 1- Tiết 11). Bài: Gia đình. Giáo viên đã áp
dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy như: quan sát tranh trả lời câu hỏi, thảo luận
nhóm, thực hành vẽ tranh nói về gia đình em. Tham gia hoạt động học tập, học sinh kể
được với thầy cô và các bạn về ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em ruột; biết vẽ tranh giới
thiệu về gia đình mình và rút ra bài học: Mỗi người sinh ra đều có gia đình, gia đình là
tổ ấm của em, nơi các em được yêu thương, chăm sóc. Ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em
ruột là những người thân yêu nhất. Qua bài học, giáo viên đã hình thành cho học sinh
kỹ năng tự nhận thức. Các em xác định được vị trí của mình trong các mối quan hệ gia

đình, biết làm chủ bản thân, yêu quý gia đình, đảm nhận trách nhiệm một số công việc
trong gia đình. Thông qua hoạt động thảo luận nhóm và trình bày trước lớp, các em
được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử.
Tôi lưu ý giáo viên về việc giáo dục kỹ năng tự nhận thức cho học sinh phải gắn
với thực tế bằng những tình huống cụ thể, tránh nói lý thuyết suông. Bên cạnh đó, tôi
phân công cán bộ phụ trách thư viện - thiết bị thường xuyên bổ sung thiết bị đồ dùng
dạy học, tài liệu về giáo dục kỹ năng sống để giáo viên tham khảo, nghiên cứu, mở
rộng tầm hiểu biết và tích hợp giáo dục đạt hiệu quả.
* Tóm lại: Qua các tiết học có lồng ghép giáo dục bổ sung vốn kiến thức cho học
sinh và hướng đến thay đổi hành vi giúp các em thích ứng với những khó khăn và ý chí
vượt khó trong công việc, trong học tập, rèn luyện và giao tiếp, ứng xử hàng ngày để
trẻ thêm nhiều niềm vui trong cuộc sống.
4. Giáo dục kỹ năng tự nhận thức thông qua hoạt động ngoại khóa.
Ban giám hiệu phân công Tổng phụ trách, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên
chuyên tổ chức thực hiện giáo dục kỹ năng sống nói chung, kỹ năng tự nhận thức nói
riêng thông qua:
4.1. Công tác chủ nhiệm:

8


- Trước tiên, giáo viên chủ nhiệm cần nắm tình hình chung của lớp và của từng
học sinh về học tập, phẩm chất, điểm mạnh, điểm yếu, thói quen hành vi, hoàn cảnh
gia đình để xây dựng kế hoạch và thực hiện các giải pháp giáo dục phù hợp. Giáo viên
phải giúp học sinh hiểu tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng tự nhận thức để các em
hướng tới mục tiêu cần đạt.
- Xây dựng văn hóa ứng xử giữa “Thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, giáo
viên, nhân viên với phụ huynh” để nhắc nhở mọi thành viên thể hiện sự chuẩn mực
trong giao tiếp, ứng xử với nhau. Giáo viên chủ nhiệm phải đến với các em bằng cả
tấm lòng và tình thương của người mẹ thứ hai. Có như vậy, thầy cô sẽ dễ dàng tiếp cận

với học sinh để nắm bắt tình hình, động viên, khuyến khích, chia sẻ những khó khăn để
giúp trẻ tự tin hơn, mạnh dạn trình bày ý kiến của mình.
- Giáo viên chủ nhiệm kiểm tra, nhắc nhở hàng ngày đối với học sinh, phát huy
vai trò của cán bộ lớp trong việc nêu gương và giúp đỡ các bạn rèn kỹ năng tự nhận
thức, phát huy tinh thần tự quản của các em thông qua thực hiện “Truy bài đầu giờ”
hàng ngày, “Đôi bạn cùng đường”, “Đôi bạn cùng tiến”... Hoạt động này giúp giáo
viên nắm bắt được việc thể hiện kỹ năng tự nhận thức của từng học sinh khi ở ngoài
nhà trường. Các em theo dõi, nhắc nhở nhau và báo ngay với giáo viên chủ nhiệm để
giáo dục những trường hợp còn hạn chế. Giáo viên nắm bắt những hoàn cảnh không an
toàn có thể xảy ra và có biện pháp giúp trẻ phòng tránh kịp thời. Giáo viên tổ chức tốt
tiết sinh hoạt lớp sẽ phát huy tinh thần tự quản và kỹ năng tự nhận thức của trẻ qua
việc các em tự nhận xét về tập thể lớp, về bản thân để phát huy điểm mạnh, khắc phục
hạn chế và đưa ra kế hoạch của tuần tiếp theo.
- Giáo viên chủ nhiệm tổng kết và báo cáo Tổ trưởng tình hình thực hiện rèn
luyện của lớp 1 lần/ tháng. Tổ trưởng tổng kết, báo về Ban chỉ đạo giáo dục kỹ năng
sống của trường vào ngày 25 hàng tháng, báo cáo ngay khi cần thiết. Qua đó, Ban
giám hiệu nắm bắt tình hình để có sự giúp đỡ kịp thời và đề ra kế hoạch thực hiện
trong thời gian tới.
* Tóm lại: Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục
học sinh. Vì thế, mỗi thầy cô giáo phải tìm tòi những giải pháp thông qua việc giảng
dạy, giáo dục và tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa nhằm
giúp các em rèn kỹ năng tự nhận thức ngày một hoàn thiện hơn.
4.2. Hoạt động Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh:
Tôi luôn coi trọng việc phát huy vai trò tự quản của tổ chức Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh, hoạt động này đã góp phần quan trọng trong vấn đề rèn luyện kỹ
năng tự nhận thức cho học sinh thông qua việc làm cụ thể như sau:
9


- Liên đội đã đưa nội dung rèn luyện kỹ năng sống nói chung, kỹ năng tự nhận

thức nói riêng vào kế hoạch hoạt động Đội ngay từ đầu năm học, xem đây là một trong
những tiêu chí để đánh giá thi đua của từng chi đội, có tổng kết đánh giá và rút kinh
nghiệm hàng tuần vào tiết sinh hoạt dưới cờ. Việc tuyên truyền giáo dục được liên đội
thực hiện trong chương trình phát thanh măng non hàng tuần, qua các bài viết ngắn,
các câu chuyện kể do các em sưu tầm hoặc tự viết ra. Các chi đội thay phiên nhau thực
hiện nội dung này.
- Trong sinh hoạt Đội, sao nhi đồng, sinh hoạt câu lạc bộ, tổ chức chuyên đề
“Văn hóa ứng xử”, học sinh được thảo luận, trao đổi ý kiến, trình bày ý kiến của mình,
được tham gia các hoạt động tập thể, trò chơi, giao lưu với nhau. Qua đó, giáo viên rèn
luyện cho trẻ kỹ năng nói trước đám đông với phong cách lịch sự và lời nói thuyết
phục người nghe. Cụ thể: Thông qua việc tổ chức hội thi “Nét đẹp đội viên” (khối 4,
khối 5) và “Nhi đồng chăm ngoan” (khối 1, khối 2, khối 3) với phần tham dự của học
sinh toàn trường, trong đó có phần tự giới thiệu về bản thân mình và thi ứng xử. Hội
thi diễn ra sôi nổi, các em có cách ứng xử khá tốt. Qua hội thi, tất cả học sinh hiểu và
biết được nét đẹp của người học sinh không chỉ giữ gìn cơ thể sạch sẽ, trang phục gọn
gàng mà quan trọng hơn nữa là phải biết thể hiện văn hóa trong giao tiếp, ứng xử.
Trong quá trình tham gia các hoạt động cũng có khi xảy ra tình huống một vài
học sinh bất đồng với nhau. Do đó, Ban phụ trách và Ban chỉ huy liên đội cần có nghệ
thuật ứng xử phù hợp để giữ được bầu không khí vui vẻ, tạo được bầu không khí thân
thiện, có như vậy mới mang lại hiệu quả cao.
* Tóm lại: Thông qua hoạt động Đội và sao nhi đồng tạo được sự đoàn kết, gắn
bó giữa các em đã góp phần quan trọng vào việc hình thành kỹ năng tự nhận thức cho
học sinh.
5. Tăng cường sự phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo
dục kỹ năng tự nhận thức cho học sinh.
- Công tác giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, gia đình và xã hội.
Thông qua Hội nghị cán bộ công chức - viên chức, Đại hội phụ huynh học sinh vào
đầu năm học, Ban giám hiệu đã yêu cầu sự phối kết hợp của các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường nhất là phụ huynh học sinh nên sắp xếp công việc, dành thời
gian để chăm sóc con em, tham dự đầy đủ các cuộc họp do trường và giáo viên chủ

nhiệm tổ chức để nắm tình hình học tập, rèn luyện của các em để có sự thống nhất và
phối hợp với nhau trong việc giáo dục.
- Nhà trường và gia đình luôn gần gũi với trẻ, nắm bắt những điểm mạnh, điểm
yếu của các em để có sự uốn nắn, giáo dục kịp thời. Với những học sinh còn nhiều hạn
10


chế, thầy cô và cha mẹ phải nhẹ nhàng dùng tình cảm để giúp trẻ khắc phục, tránh làm
tổn thương các em.
- Tôi luôn coi trọng sự gương mẫu của giáo viên và phụ huynh, đó là biện pháp
giáo dục hiệu quả bởi sự mẫu mực của người lớn sẽ làm cho trẻ yêu quý, kính trọng và
noi theo. Mỗi chúng ta không nên lơ là hoặc bỏ qua những cơ hội thuận lợi để hướng
trẻ đến những hành vi và thói quen tốt, phù hợp với chuẩn mực đạo đức.
- Giáo viên và phụ huynh không nên cầu toàn mà phải chấp nhận những hạn chế
của học sinh, tránh để các em bị cảm giác mình là người thất bại. Trước những lời nói
với ngôn từ chưa hay hoặc những việc làm chưa hoàn thiện của các em, thầy cô và cha
mẹ nên có sự giúp đỡ một cách thân thiện. Ví dụ: Khi trẻ làm vỡ bình hoa hay làm bể
một cái chén, người lớn nên cùng trẻ nhặt những mảnh vỡ. Mẹ cũng nên khen trẻ biết
phụ giúp công việc gia đình, khuyên trẻ cẩn thận hơn và hướng cách cầm đồ vật an
toàn. Nếu người lớn thể hiện sự khó chịu hay la rầy thì chắc chắn các em sẽ không dám
rửa chén, không dám lau bình hoa nữa và trẻ sẽ không tự tin để làm những công việc
tương tự như thế.
* Tóm lại: Trẻ em là tương lai của đất nước, là đối tượng cần được bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục. Công tác này đòi hỏi sự chung tay, phối hợp của cả gia đình, nhà
trường và xã hội nhằm trang bị cho các em những kỹ năng sống tốt. Từ đó, trẻ sẽ có
được niềm vui và niềm tin vào sự thành công của bản thân.
Phần 4: Kết quả
Trong năm học 2018 - 2019, với việc áp dụng đề tài “Hiệu trưởng quản lý, chỉ
đạo giáo dục kỹ năng tự nhận thức cho học sinh tiểu học” đã tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong nhận thức và hành động của giáo viên, học sinh và phụ huynh trong việc thể

hiện tinh thần trách nhiệm của mình trong việc giáo dục và rèn kỹ năng sống.
Học sinh được trang bị vốn tri thức, kỹ năng, một nghị lực để vượt qua những
khó khăn, vươn lên trong cuộc sống, một niềm tin vào sự thành công trong công việc,
biết đưa ra mục tiêu để phấn đấu. Qua mỗi giai đoạn sơ kết công tác giáo dục kỹ năng
tự nhận thức, tôi đánh giá được sự tiến bộ của học sinh, trẻ không còn biểu hiện nhút
nhát, sợ sệt nữa mà giờ đây, các em biết nhìn nhận, đánh giá đúng bản thân mình, biết
nhìn nhận ưu điểm của bản thân để phát huy và hạn chế để khắc phục để bản thân ngày
càng hoàn thiện hơn, biết tôn trọng mọi người, thừa nhận và học hỏi những điểm
mạnh, điểm hay của người khác để phát triển tốt.
Đa số học sinh đã rèn được tín tự lập, các em biết làm những công việc tự phục
vụ bản thân, có ý thức vượt khó để hoàn thành công việc đã đảm nhận như: học sinh
11


lớp Bốn, lớp Năm trồng và chăm sóc bồn hoa, cây cảnh của lớp, các em lớp Một, lớp
Hai tưới hoa mỗi ngày. Các lớp phát huy tinh thần tự quản khá tốt, biết vệ sinh và giữ
gìn vệ sinh lớp học, tham gia vệ sinh sân trường. Các em phụ giúp một số công việc
gia đình với ý thức tự giác. Các em đã mạnh dạn hơn thể hiện bản thân mình, dám thể
hiện trước đám đông như: tham gia biểu diễn văn nghệ, kể chuyện trước lớp và trước
học sinh toàn trường, dám trình bày ý kiến của mình với bạn bè, thầy cô, cha mẹ.
Học sinh có kỹ năng giao tiếp, ứng xử phù hợp đã phát triển ở trẻ các kỹ năng:
tổ chức, hợp tác, lắng nghe, chia sẻ và biết diễn đạt ý của mình góp phần phát huy sự
sáng tạo, sự gắn kết trong học sinh và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với thầy cô, cha
mẹ, người thân, bạn bè và mọi người xung quanh. Các em biết động viên giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ. Các em đã được trang bị các kỹ năng đề phòng và cách xử lý kịp
thời khi gặp những tình huống bất ổn xảy ra để giữ an toàn cho bản thân.
Phần 5: Kết luận
1. Tóm lược giải pháp:
Với chức năng, nhiệm vụ của người làm công tác quản lý, tôi luôn quan tâm đến
chất lượng giáo dục, mỗi chúng ta không chỉ chú trọng “dạy chữ” mà còn phải quan

tâm đúng mức đến nhiệm vụ “dạy người”. Với đề tài trên tôi đã áp dụng các giải pháp:
- Ban giám hiệu tập trung nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của ngành và các tài
liệu có liên quan để có định hướng và chỉ đạo thực hiện giáo dục kỹ năng sống nói
chung, kỹ năng tự nhận thức nói riêng cho học sinh đảm bảo tính khoa học, phù hợp
với điều kiện thực tế của nhà trường.
- Tăng cường công tác tuyên truyền để toàn thể giáo viên, nhân viên trong
nhà trường, phụ huynh và học sinh nắm được mục đích, ý nghĩa, thấy được trách
nhiệm của mình và biết chọn các giải pháp thích hợp để công tác giáo dục đạt hiệu
quả tốt.
- Giáo viên cần cung cấp cho các em vốn tri thức thông qua việc lồng ghép giáo
dục trong những tiết học có liên quan và các hoạt động ngoại khóa. Phát huy vai trò
của giáo viên chủ nhiệm, của tổ chức Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, tạo
điều kiện cho học sinh tham gia nhiều hoạt động phong phú, đa dạng trong suốt năm
học và cả trong thời gian nghỉ hè. Qua đó, giúp trẻ khẳng định bản thân, rèn kỹ năng
giao tiếp, ứng xử trong các tình huống và thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với tập
thể.
- Việc rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải kiên trì
giúp các em tháo gỡ vướng mắc, vượt qua những khó khăn, giúp trẻ hiểu “Đứng dậy
12


sau thất bại thì sẽ thành công” để trẻ có được niềm tin vào bản thân, việc làm này phải
được thực hiện thường xuyên, liên tục và lâu dài thì những kỹ năng được hình thành
mới trở nên bền vững.
- Nhà trường phải có sự kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục, tránh để tình trạng
một phụ huynh đứng bên lề giáo dục, khuyến khích phụ huynh tham gia đầy đủ các
cuộc họp, tích cực đóng góp ý kiến cho công tác giáo dục. Ban giám hiệu thường
xuyên gặp gỡ, trao đổi với Ban Đại diện cha mẹ học sinh nhằm thống nhất trong phối
hợp hoạt động và cùng nhau tháo gỡ khó khăn. Mỗi chúng ta không nên lơ là hoặc bỏ
qua những cơ hội thuận lợi để hướng trẻ đến những hành vi và thói quen tốt phù hợp

với chuẩn mực đạo đức giúp trẻ có niềm tin vào sự thành công của bản thân.
- Cha mẹ và thầy cô luôn là tấm gương sáng cho các em noi theo và phải đến với
các em bằng tất cả tình thương, bằng cả tinh thần trách nhiệm của mình. Chúng ta
không nên chê bai, xúc phạm nhân cách hoặc dùng bạo lực học đường đối với học sinh
mà phải luôn gần gũi học sinh, với giọng nói nhẹ nhàng, nét mặt vui tươi, phải biết
khen ngợi và động viên, khuyến khích trẻ vượt qua khó khăn, khắc phục hạn chế, có
như vậy thì công tác giáo dục sẽ đạt kết quả tốt.
2. Phạm vi, đối tượng áp dụng đề tài:
Qua việc nghiên cứu đề tài: “Hiệu trưởng quản lý, chỉ đạo giáo dục kỹ năng tự
nhận thức cho học sinh tiểu học” và áp dụng tại Trường Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh
đã đạt hiệu quả cao. Tôi nhận thấy sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các
trường, các lớp bậc Tiểu học./.

13



×