Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Lăng Dục Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.49 KB, 2 trang )

LĂNG DỤC ĐỨC
(AN LĂNG)
Dân gian có câu: “Sướng như vua”, quả có như vậy, nhưng không chính xác hoàn toàn bởi vì có
những ông vua như vua Dục Đức là minh chứng xác đáng để phủ nhận thành ngữ trên. Lên ngôi trong
một bối cảnh chính trị-xã hội rối rắm, ông hoàng Ưng
Chân, con trai của Thoại Thái Vương Nguyễn Phúc
Hồng Y và là con nuôi của vua Tự Đức, đã sớm bị phế
bỏ khỏi ván cờ chính trị lúc bấy giờ. Sau khi vua Tự
Đức băng hà, triều thần đã đưa Ưng Chân lên ngai vàng
vào ngày 19-7-1883, y theo di chiếu truyền ngôi của
vua Tự Đức. Chưa kịp đặt niên hiệu, vị vua trẻ được
gọi tên dựa theo tư thất của mình là Dục Đức Đường.
Nhưng chỉ ba ngày sau, vua Dục Đức đã bị truất phế vì
tội dám lược bỏ một đoạn văn trong di chiếu truyền
ngôi của tiên đế và bị tống ngục. Ngày 24-10-1884, ông vua bất hạnh này đã chết đói trong nhà ngục,
thi hài được gói vào một chiếc chiếu giao cho hai tên lính và một viên quyền suất đội gánh đi chôn.
“Đám tang” của ông vua xấu số này được đưa về An Cựu để mai táng trong địa phận chùa Tường
Quang (chùa do một người thân bên vợ của vua Dục Đức lập ra năm 1871). Gần đến nơi thì thi hài
nhà vua bị rớt giữa đường do đứt dây, một người lính đã chạy vào chùa Tường Quang mời nhà sư trụ
trì ra giải quyết. Cuối cùng, mọi người nhất trí chọn mảnh đất “thiên táng” đó làm nơi yên nghỉ đời
đời của vua Dục Đức nên mai táng qua loa cho xong chuyện. Ba ngày sau, vợ con của nhà vua mới
được thông báo để làm lễ chịu tang.
Sáu năm sau, do một hoàn cảnh bất ngờ, con trai của Dục Đức là Bửu Lân lại được đưa lên làm vua.
Sau khi tức vị, Bửu Lân đặt niên hiệu là Thành Thái (1889-1907) và bắt đầu cho xây đắp lăng mộ của
vua cha ngay trên nấm mồ “Thiên táng” đó. Lăng được xây dựng vào đầu năm 1890, đặt tên là An
Lăng nhưng chưa có điện thờ. Mọi lễ nghi thờ cúng vua Dục Đức đều được tổ chức ở chùa Tường
Quang, cách đó 200m. Năm 1892, chùa được vua Thành Thái đổi tên là Kim Quang và được ban tấm
hoành phi đề 5 chữ “Sắc tứ Kim Quang tự”, được coi là của báu của vương triều Thành Thái và cả
vương triều Duy Tân sau này.
Vào năm Thành Thái thứ 11 (1899), nhà vua cho xây dựng điện Long Ân phía hữu lăng mộ, làm nơi
thờ cúng vua cha. Ngoài điện Long Ân, nhà vua còn cho xây cất các công trình phụ như Tả, Hữu Phối


Đường (trước); Tả, Hữu Tùng Viện (sau) dành cho bảy bà vợ thứ của vua cha ăn ở, lo việc thờ phụng
hương khói.
Sau khi bà Từ Minh, vợ chính của vua Dục Đức tạ thế, triều đình mai táng thi hài của bà bên phải mộ
vua Dục Đức theo thế “Càn, Khôn hiệp đức” như ở lăng Gia Long.
Làm vua được 18 năm (1889-1907), Thành Thái có những tư tưởng và hoạt động chống Pháp nên bị
truất ngôi. Con trai vua Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San được đưa lên ngai vàng, đặt niên hiệu Duy
Tân, trị vì được 8 năm (1907-1916) thì bị Pháp bắt vì tội “tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống Pháp
của Thái Phiên và Trần Cao Vân”. Chính phủ bảo hộ và Nam triều đã đày hai ông vua yêu nước
Thành Thái, Duy Tân sang đảo Réunion với án lưu đày biệt xứ. Năm 1953, vua Thành Thái được trở
về nước, sống ở Sài Gòn. Ông mất vào năm 1954 và được hoàng tộc rước thi hài về chôn trong khuôn
viên của lăng Dục Đức.

Sau khi vua Duy Tân chết bởi một tai nạn máy bay rất khó hiểu ở Trung Phi (1945), thi hài của ông
được chôn cất ở đó. Năm 1987, hài cốt nhà vua được cải táng từ Trung Phi đưa về chôn cạnh mộ vua
Thành Thái. Hiện giờ An Lăng là khu mộ chung của ba thế hệ làm vua: Dục Đức (cha), Thành Thái
(con) và Duy Tân (cháu).
So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn hơn.
Lăng gồm hai khu vực: điện Long Ân và lăng mộ vua cùng Hoàng hậu, đều lấy cồn Phước Quả ở
đàng trước làm tiền án, khe Mụ Niệm chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường và dùng ngọn núi
Tam Thai ở đằng sau làm hậu chẩm.
Khu vực lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m2, bên trong
không có Bi Đình và tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào
lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng.
Chính giữa Bửu Thành có một nhà Huỳnh Ốc dạng phương đình,
thay thế cho nhà bia. Bên trong nhà Huỳnh Ốc không có bi ký,
thay vào đó là một sập đá và kỷ đá dùng để bày hương án và hào
soạn mỗi khi cúng giỗ nhà vua. Hai bên tả, hữu là mộ vua Dục
Đức và Hoàng hậu Từ Minh. Đáng chú ý là tấm bình phong trước
mộ vua có chữ “song hỷ” đắp bằng sành sứ! “Hỷ” trong Hán tự
nghĩa là “vui mừng”. Quả là lạ khi có một biểu tượng về sự mừng vui trong một cái chết oái ăm đầy

khổ ải của ông vua bất hạnh này (!).
Điện Long Ân ở trung tâm khu vực tẩm là một công trình được xây cất theo khuôn mẫu của các ngôi
điện có ở Huế. Bên trong hiện có 3 án thờ thờ bài vị của các vua: Dục Đức và vợ (ở giữa), Thành Thái
(bên trái) và Duy Tân (bên phải).
Phía sau điện Long Ân ngày xưa là chốn hậu cung của các bà vợ vua, giờ đây được mở rộng và chỉnh
trang thêm. Đó cũng là nơi yên nghỉ của hai ông vua Thành Thái và Duy Tân- những người dám đổi
ngai vàng để giành độc lập, chủ quyền cho dân tộc để rồi chọn cái chết và chôn trong những nấm mồ
đơn sơ, giản dị như tấm lòng của hai ông. Trong khu vực này còn có mộ của các bà vợ vua Thành
Thái: mộ bà Hoàng Quý Phi Nguyễn Gia Thị Anh, bà Nguyễn Thị Định (mẹ vua Duy Tân) và bà
Khoan Phi Hồ Thị Phương; mộ công chúa Lương Linh (em vua Duy Tân), mộ bà Mai Thị Vàng (cải
táng) vợ vua Duy Tân và một số lăng mộ của các hoàng thân anh em với vua Duy Tân. Khu vực An
Lăng còn có 39 lăng mộ các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ (Nguyễn
Phúc Tộc).
Nếu du khách đến Huế để tham quan lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng,
Thiệu Trị... thì xin hãy đến lăng Dục Đức với tư cách thăm viếng. Xin hãy đốt một nén nhang,
nghiêng mình tưởng niệm anh linh của hai ông vua yêu nước Thành Thái và Duy Tân cũng như để “an
ủi” linh hồn của ông vua xấu số Dục Đức.
Hiện thực lịch sử thật đa dạng và lắm biến cố, sự hiện hữu của An Lăng là một biểu hiện cụ thể của
tính đa dạng đó. Đồng thời đây là một mắt xích trong chuỗi biến cố đã xảy ra ở Việt Nam vào thời kỳ
rối ren nhất của vương triều Nguyễn - thời kỳ mà dân gian đã ghi nhận bằng câu:
"Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết, Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường." Tạm dịch: "Một
sông hai nước lời khó nói, Bốn tháng, ba vua điềm chẳng lành."
Trần Đức Anh Sơn (Nguồn: Trung tâm bảo tồn Huế)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×