Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.45 KB, 21 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
4 – 5 TUỔI.

Quảng Bình, ngày 18 tháng 5 năm 2018
1


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
4 - 5 TUỔI

Họ và tên: Trương Thị Kim Huệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường mầm non Phú Thủy

2


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục kỹ năng sống trẻ lứa tuổi mầm non vô cùng quan trọng, bởi vì lứa
tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến thức
về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết


cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế
nào cho đúng. Ngay ở lứa tuổi mầm non trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế nào là
đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm…Giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân mình, tạo sự tự tin cho
trẻ giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh, không những thế còn giúp
cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối
hợp với các bạn chơi trong nhóm. Để giúp trẻ có kỹ năng sống không có nghĩa là phải
dạy trẻ những gì cao siêu vượt quá tầm hiểu biết của trẻ, mà chúng ta giúp trẻ trải
nghiệm những hoạt động hàng ngày của một xã hội thu nhỏ như: Làm việc, sinh hoạt,
vận động, giao tiếp trong cuộc sống, xoay quanh bản thân, gia đình, và môi trường xã
hội, những người lạ không quen biết. Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải mái
trong đời sống xã hội, biết cách đối phó với những tình huống bất thường phát sinh
hay không bị mất bình tĩnh trước những nguy cơ đột ngột,.. trẻ cần được học và rèn
luyện ngay từ nhỏ, từ những bản năng tự nhiên như việc học ăn, học nói, học đi,
đứng, ngủ nghỉ,.. đến việc học để có kiến thức và nhận thức về bản chất của cuộc
sống, tôn trọng môi trường sống, môi trường thiên nhiên xung quanh ta, và giao tiếp,
ứng xử trung thực, khôn ngoan, lịch sự với mọi người.
Giáo dục kỹ năng sống trên thực tế lớp của tôi trẻ chưa được mạnh dạn tự tin,
khả năng tự phục vụ kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ chưa đoàn kết, hợp tác
trong khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi có
hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn
đặt ra cho tôi. Từ thực tế trên tôi đã chọn đề tài:” Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ 4 -5 tuổi” để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm
* Điểm mới của đề tài.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ năng sống” đối với trẻ, tôi
thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý
nghĩa. Nhưng làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả?
Điều này quả không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.
3



Đề tài này nó có những điểm mới: Tôi dành sự quan tâm và hình thành ở trẻ
những kỹ năng sống như: Giáo dục kỹ năng sống sẽ bắt đầu từ “động tác”, những
hành vi lễ giáo của trẻ. Như trẻ biết tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà, biết
cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí mến những người thân, biết thưa gửi, vâng
dạ, không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật. Giúp trẻ có kinh
nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự
tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư
duy sáng tạo của trẻ.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh vực
nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên đang dạy
lớp
4 - 5 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế mạnh của trẻ trong phạm vi trường
mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường mầm non.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp.
Thuận lợi :
Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường được xây khang trang sạch sẽ nên
thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an
toàn cho trẻ.
Nhà trường cung cấp đầy đủ các trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi, nhất là hoạt động
“Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và hiệu quả”, đây chính là hoạt động
để giáo viên rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống cho
trẻ, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức
bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn
thương tích khác: rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng
ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Khó khăn:
Giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ

năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để
rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương
pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý
thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo
viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do
nhận thức về nghề chưa sâu sắc.
4


Cha mẹ trẻ luôn nóng vội trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết
đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại
chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý
đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ
dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
Từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện, tôi đã suy nghĩ,
nghiên cứu tài liệu để tạo điều kiện thuận lợi giúp cha mẹ dạy trẻ mầm non các kỹ
năng sống qua đề tài: “Kinh nghiệm dạy trẻ mầm non kỹ năng sống ”
* Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:
Số trẻ khảo
Khả năng
Đạt
sát
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
10/25
40%
Lễ phép
12/25
48%

Kỹ năng vệ sinh
14/25
56%
Kỹ năng thích khám phá học hỏi
13/25
52%
Kỹ năng tự kiểm soát bản thân
12/25
48%
Mạnh dạn tự tinh
13/25
52%
Kỹ năng hợp tác
7/25
28%
Phát âm rõ lời
14/25
56%
- Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có
biện pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và
yếu còn ở mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi đã
suy nghĩ trăn trở làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng
cao hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao.
2.2. Các giải pháp
2.2.1: Xác định nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo
dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều
các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy
tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn
kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.

- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu,
tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục
trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
5


- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao
đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn
bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn
khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng
nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau,
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới
việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh,
cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị
cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng
ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.
2.2.2: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ
năng sống.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 3-4 tuổi, khả năng tập
trung chú ý và ghi nhớ có chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên.
Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được cũng cố bằng cách luyện tập thường
xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường
xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên.
Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên
và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.
Ví dụ : Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện
cùng trẻ khoảng 10 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ năng

giao tiếp cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe, biết
dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà của bé hay
trao đổi cùng cô về chủ đề đang học. Cuối tuần cho trẻ nhận xét câu chuyện nào hay
nhất sẽ đựơc nhận phần thưởng của cô.( Phần thưởng có thể là một bông hoa , một
bức tranh vẽ một con vật hay một hạt giống cây nảy mầm….Các phần thưởng được
thay đổi theo từng chủ đề). Kết quả, trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò
chuyện đầu tuần. Trẻ đã có thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt
rất mạnh dạn tự tin khi kể “chuyện của mình” cho bạn nghe.
Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm
quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 10 phút để tổ chức cho trẻ luyện tập
thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:

6


Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản
thân như rửa tay, lấy nước uống, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một trò
chơi khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo
hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với
trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 10
đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc
xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần
đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có
khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng
túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần
chính xác hơn. với cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ
năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.
Chiều thứ 4, tôi tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có kèm những

câu chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con người, giữa con
người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử
phù hợp với xung quanh.
Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây
ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi ăn ghế
phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải xếp kẹp
đôi, tổ chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ thỏ con xếp
ngăn dưới… Nhờ được tham gia và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong
việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt.
Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc nhằm
phát triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần đầu,
tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như vậy? Cách sắp xếp
như thế nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc
chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt
động này, các kỹ năng hợp tác của trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc
nhở nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường
xuyên như vậy, các mối quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng
cố, bên cạnh đó đồ dùng đồ chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất
khoa học.
2.2.3: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy
trẻ:
7


+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú tâm là phát
triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về
cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp
trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giúp trẻ học
cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này.

Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong
những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được
học, sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của
trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu
mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán
trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của
mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế
giới xung quanh nó.
Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu
khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học.
Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở
nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố
cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.
Ví dụ: Giờ đón trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo vệ mình:
Nếu lạc đường con sẽ tìm đến ai để hỏi? con hỏi như thế nào?
Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào?
Hay có khách đến lớp các con phải làm gì?...
Ngoài ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay
sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật
dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ
nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn
sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn
dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
2.2. 4: Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống cơ bản.
Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh cho
rằng con mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như nghĩ rằng trẻ mẫu
giáo vẫn được sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ. Những trên thực tế,

8


không phải lúc nào cha mẹ cũng ở bên con khi có tình huống xấu. Cô giáo phối hợp
cùng phụ huynh khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ phận trên cơ
thể, giúp trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có người quan tâm thái quá đến
cơ thể của trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân. Song song với
việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi luôn ý thức
được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Việc dạy kỹ
năng sống cho trẻ không phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình.
Các kỹ năng sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và thành
kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi
trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các
kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao. Trên
thực tế nhiều phụ huynh chưa có kiến thức về kỹ năng sống, không biết kỹ năng sống
bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ những gì? Chính vì vậy
mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm quan trọng của kỹ
năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp
thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh được tiến
hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền, thông qua việc mời phụ
huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay thông qua buổi
họp phụ huynh. Cụ thể:
Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ sinh cá
nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng phụ
huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động..
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh. Đây là nơi trao đổi thông tin với
phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp. .
Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh.

Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham
gia vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Giáo viên mời cha mẹ tham gia vào các
buổi trao đổi, tọa đàm, tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh học sinh và dự một
số hoạt động học của trẻ ở lớp.
Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức
cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu
thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa
tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
9


Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp,
bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn
nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã,
không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất
cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và
ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
2.2.5 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Phát triển các kỹ
năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà
trường.
Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc
trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác
dụng thúc đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn
và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của
từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp.
Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ( Biết
lễ phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ
bản thân và chấp hành quy định của lớp.
Ví dụ: Tôi dạy trẻ biết cất mũ vào tủ, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi
quy định…..)

Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích
hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ vào nội dung của
từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.
Ví dụ: Qua việc trò chuyện quan sát Cầu trượt. Trẻ nhận biết được một số
nguyên nhân gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kỹ
năng tôi dạy trẻ đó là:
- Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin.
- Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên cầu trượt bé cần làm gì?( Vịn hai tay vào 2
thành của cầu trượt, rồi đẩy người cho trượt xuống. Nếu bạn nào trượt nhanh bị ngã
thì thì bạn chơi cùng nhanh chóng đở bạn dậy hoặc chạy đến gọi cô …)
- Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không trượt
quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên Cầu trượt, vịn chắc thanh cầu trượt…)
Ví dụ : Qua tiết học KPKH: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi dạy trẻ
kỹ năng sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý thức giữ gìn,
bảo vệ các bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời phải đứng thẳng,
mắt nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như muốn
nói phải giơ tay, chờ đến lượt cô mời mới được nói, không nói leo, tập chung chú ý
10


nghe cô…Chính vì thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng nghe,
tuân thủ theo sự hướng dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra.
-Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng khác nhau.
Ví dụ: Thông qua giờ hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ học bằng chơi,
chơi mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ
tiếp thu một cách dễ dàng nhất. Hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non đó là hoạt động
vui chơi, “Học mà chơi, chơi mà học”. Trong quá trình vui chơi trẻ được thể hiện
mình. Đồng thời vui chơi cũng giúp trẻ được ôn luyện, củng cố những kiến thức đã
được học của trẻ giúp trẻ ghi nhớ lâu nhất những gì trẻ tiếp thu được. Khi nội dung
chơi lành mạnh hình thành cho trẻ có thái độ tích cực đối với hiện thực, có tinh thần

trách nhiệm với người khác, có lòng thương người…Thông qua chơi hình thành
những hành vi xã hội, hình thành những phẩm chất đạo đức quý giá và đúng đắn.
Xuất phát từ đặc điểm trên của trẻ tôi nhận thấy trong quá trình hướng dẫn trẻ chơi,
thông qua trò chơi người giáo viên tác động lên mọi mặt của cá nhân trẻ và đặc biệt là
hành vi lễ giáo của trẻ. Do vậy không thể cho trẻ chơi tự do mà cô giáo hướng dẫn trẻ
chơi để kịp thời uốn nắn những hành vi chưa tốt của trẻ.
Ví dụ : Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ năng
giao tiếp ( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ năng
chăm sóc ( biết lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học
được cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi
chơi xong trẻ biết cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả các
góc chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở lớp
tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi
của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự phục
vụ qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và
hành vi văn hoá văn minh như:
- Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.
- Cách rót nước, chia thức ăn.
- Chuẩn bị bàn ghế cho bữa ăn (gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát…)
- Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống ( Trẻ biết
mời cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và
hành vi văn hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng
thời lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…)
11


Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng nơi quy

định, biết lau chùi chân trước khi lên sạp, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang
ngủ.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động
khác trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng việc tạo
tình huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố các kỹ
năng của mình.
Tóm lại, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính liên
tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói quen, thành
thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích hợp quá
nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây tâm lý nặng
nề cho trẻ khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh
giá các kỹ năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện pháp giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả.
Nội dung phong trào“ Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và hiệu
quả”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với
lứa tuổi của học sinh.
- Làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa
tuổi mầm non.
- Tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi
giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Đưa ca dao hò khoan Lệ
Thuỷ vào chương trình giáo dục trẻ.
- Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt
động ngoài trời, trẻ được xem các câu chuyện cổ tích, hỏi đáp về nội dung các câu
chuyện.
- Tổ chức các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với
lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa
dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong
việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ.

- Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ, tổ chức hoạt động phát triển tư duy để
phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
- Tổ chức văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng nội dung, hình thức biểu diễn
nhằm huy động sự tham gia của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân
trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ và qua đó
12


tuyên truyền về hiệu quả giáo dục mầm non Đồng thời hàng tuần vào sáng thứ hai tổ
chức cho toàn trường tập thể dục buổi sáng qua những các nền nhạc, qua đó giúp trẻ
phát triển kỹ năng vận động và giáo dục trẻ lòng yêu quê hương, đất nước.
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận
hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt
được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở
các kết quả sau:
- Kết quả trên trẻ:
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng
ngày trong cuộc sống của trẻ;
- 100% trẻ đều được cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò
mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 3-4 tuổi được
rèn luyện khả năng sẳn sàng học tập ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.
- 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở
gia đình.
Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống tôi đã thu được kết quả sau:
* Kết quả khảo sát cuối năm của lớp tôi như sau:

Số trẻ khảo sát cuối
TT
Khả năng
Đạt
năm
1
Mạnh dạn tự tinh
23/25
92%
2
Kỹ năng hợp tác
21/25
84%
3
Phát âm rõ lời
23/25
92%
4
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
22/25
88%
5
Lễ phép
23/25
92%
6
Kỹ năng vệ sinh
24/25
96%
7

Kỹ năng thích khám phá học hỏi
23/25
92%
8
Kỹ năng tự kiểm soát bản thân
22/25
88%
Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc
sống tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì
vậy có thể kết luận rằng với những biện pháp thông thường rập khuôn, máy móc như
thực trạng hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết vận
13


dụng sáng tạo linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc dạy
trẻ các kỹ năng sống sẽ được nâng lên rõ rệt.
- Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ,
thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái
quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con
ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm
…..
Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong
việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua
bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan;
Cha mẹ cảm thấy mản nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả
giáo dục của nhà trường, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ
giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.
- Về phía giáo viên và nhà trường
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,

Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị,
phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ.
Cô giáo thường xuyên trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ đặt ra
không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ
trong lớp.
Trong các năm qua, nhà trừơng đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, lễ hội dành
cho trẻ như: Lễ hội trăng rằm, hội thi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian…
III. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi thông qua mọi hoạt động trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non và ở gia đình trẻ. Vì vậy để giáo
dục trẻ 4-5 tuổi kỹ năng sống ngay từ nhỏ giúp trẻ hiểu biết về môi trường giáo dục và
môi trường xã hội, có ý thức, hành vi tốt và biết sống thân thiện, có trách nhiệm với
cộng đồng xã hội. Trẻ em như một tờ giấy trắng, ngây thơ, trong trắng nếu ta viết lên
đó những điều tốt thì trẻ sẽ tốt, nhưng khi ta viết lên đó những điều xấu thì tương lai
của các em sẽ không tốt đẹp. trẻ em góp phần không nhỏ trong việc tiếp nối, lĩnh hội
những tri thức mới là nền tảng của sự phát triển của đất nước sau này. Giáo dục trẻ
biết chào hỏi khi gặp người lớn, biết dạ thưa khi trả lời, biết nhận lỗi và nói lời xin lỗi,
cám ơn đúng tình huống. Giáo dục trẻ biết xếp hàng chờ tới lượt, không tranh giành
đồ chơi của bạn, biết chia sẽ, nhường nhịn và giúp đỡ bạn cùng chơi. Môi trường
14


trong nhà trường phải theo phương châm lấy trẻ làm trung tâm, tạo cho trẻ biết cách
giải quyết vấn đề. Môi trường hoạt động để giáo dục trẻ ở đó người lớn phải luôn mẫu
mực và làm gương cho trẻ noi theo. Tạo môi trường thân thiện với trẻ, gần gũi thương
yêu và luôn giúp đỡ trẻ thấy tự tin , thoải mái. Việc dạy cho trẻ biết lễ phép không chỉ
có tác dụng uốn nắn khuôn khổ cho trẻ từ nhỏ mà còn có tác dụng giúp cho trẻ ngoan
ngoãn và nghe lời cô giáo và bố mẹ nhiều hơn. Với vai trò là người làm công tác giáo
dục tôi nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ

năng sống cho trẻ. Qua việc áp dụng những biện pháp mới, tôi thấy trẻ linh động hơn,
nhanh nhẹn hơn, Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành. Bằng sự chủ động
linh hoạt vận dụng các nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động khác nhau
làm cho trẻ hứng thú, tập trung, giúp trẻ thể hiện được sự khéo léo, óc tưởng tượng,
sự giao lưu giữa bạn bè. Giáo viên sáng tạo hơn trong việc làm đồ dùng, đồ chơi cho
trẻ, biết tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Bản
thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm đem lại kết
quả tốt nhất cho trẻ.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Để nâng cao chất lượng dạy kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non nói
chung và trường mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một
số biện pháp nâng cao chất lượng dạy kỹ năng sống cho trẻ. Cụ thể như sau:
- Đối với giáo viên:
Thường xuyên bổ sung và thay đổi các hình thức trong dạy kỹ năng sống cho
trẻ một cách sáng tạo. Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ
chức một cách khoa học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động nhận thức
về kỷ năng sống cho trẻ.
- Đối với Ban giám hiệu nhà trường:
Ban Giám hiệu luôn tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề dạy trẻ kỹ năng sống để
giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy trẻ kỷ năng sống mà tôi đã rút ra được
trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách,
phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn
những thiếu sót nhất định, tôi rất mong được sự góp ý xây dựng của các bạn đồng
nghiệp, các cấp Lãnh đạo giúp tôi ngày càng có nhiều kinh nghiệm hay trong quá
trình giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

15



16


17


18


19


20


21



×