Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Thực hiện pháp luật về đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.21 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THANH HẢI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LAI
CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THANH HẢI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LAI
CHÂU
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ HOÀI THU


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài Luận văn nghiên cứu của riêng
tôi về “Thực hiện pháp luật về đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc
thiểu số tỉnh Lai Châu” dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Lê Thị Hoài Thu – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, các luận
điểm, dẫn chứng, số liệu nêu trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy, trung thực.

Tác giả luận văn

Tống Thanh Hải


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
và các Thầy cô đã giúp đỡ tôi trang bị kiến thức, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới PGS.TS.
Lê Thị Hoài Thu, người đã chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện
việc nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí công chức Sở Lao động Thương
binh xã hội tỉnh Lai Châu, phòng lao động việc làm, trường Trung cấp nghề - Sở
Lao động Thương binh xã hội tỉnh và bộ phận nghiệp vụ có liên quan đã chia sẻ
thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên
cứu cũng như tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời chi ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên,
hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thiện luận văn.

Xin chân trọng cảm ơn./.


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ ............................................................ 5
1.1.

Khái niệm chung về đào tạo nghề .................................................................5

1.1.1. Khái niệm đào tạo nghề ....................................................................................5
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về đào tạo nghề ...............................................7
1.1.3. Phân loại đào tạo nghề....................................................................................10
1.1.4. Tầm quan trọng của đào tạo nghề ..................................................................12
1.2.

Sự cần thiết phải đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số .................15

1.3.

Pháp luật về đào tạo nghề ............................................................................18

1.3.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về đào tạo nghề .............................................18

1.3.2. Nguyên tắc pháp luật về đào tạo nghề............................................................20
1.3.3. Nội dung pháp luật về đào tạo nghề ...............................................................23
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LAI CHÂU ......... 26
2.1.

Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của tỉnh Lai Châu .............26

2.2.

Nội dung công tác đào tạo nghề cho lao động ngƣời dân tộc thiểu số .....29

2.3.

Thuận lợi, khó khăn của tỉnh ảnh hƣởng đến công tác đào tạo nghề
cho đồng bào dân tộc thiểu số .....................................................................32

2.4.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số
Lai Châu .........................................................................................................33


2.4.1. Xác định nhu cầu đào tạo nghề cho lao động người dân tộc thiểu số ............33
2.4.2. Xác định mục tiêu đào tạo nghề cho lao động người dân tộc thiểu số ...........35
2.4.3. Tổ chức thực hiện ...........................................................................................36
2.5.

Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về đào tạo nghề cho đồng

bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu .............................................................44

2.5.1. Về thành công .................................................................................................44
2.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân .....................................................................45
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................49
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LAI CHÂU ................51
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu .................51
3.1.1. Quan điểm đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu ...............51
3.1.2. Định hướng đào tạo nghề cho lao động người dân tộc thiểu số .....................52
3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề từ thực tiễn
tỉnh Lai Châu ................................................................................................53

3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề...........................................................................................53
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về chi phí dạy nghề và bồi thường chi
phí dạy nghề ....................................................................................................54
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiệt các quy định về trách nhiệm đào tạo lại cho người
lao động của doanh nghiệp .............................................................................54
3.3.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu ......................55

3.3.1. Giải pháp cho các chính sách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ............55
3.3.2. Tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm ...................................................55

3.3.3. Tăng cường điều tra khảo sát, dự báo nhu cầu và xác định mục tiêu học
nghề của lao động người dân tộc thiểu số ......................................................56


3.3.4. Nâng cao chất lượng quản lý và đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất ............57
3.3.5. Biên soạn, chỉnh sửa chương trình, giáo trình................................................57
3.3.6. Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra .........................................................58
3.3.7. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiếu số tỉnh Lai Châu .......................58
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................65
PHỤ LỤC .................................................................................................................68


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CĐN

Cao đẳng nghề

CSDN

Cơ sở dạy nghề

CSĐT


Cơ sở đào tạo

DN

Doanh nghiệp

ĐTN

Đào tạo nghề

DTTS

Dân tộc thiểu số

GV

Giáo viên

HV

Học viên

KTXH

Kinh tế xã hội

LĐTNXH

Lao động - Thương binh và Xã hội


TCN

Trung cấp nghề

THPT, THCS

Trung học phổ thông, Trung học cơ sở

TTDN

Trung tâm dạy nghề

TTĐT

Trung tâm đào tạo

TTLĐ

Thị trường lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những năm đầu đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành chính
sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nhất là lao động vùng DTTS với
nhiều hình thức hỗ trợ khác nhau và đã thu được nhiều kết quả khả quan, tỷ lệ hộ
nghèo giảm, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Tuy
nhiên, so với yêu cầu thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như cơ cấu
ngành đào tạo chưa phù hợp với thị trường lao động, chương trình đào tạo, chất

lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; nhiều người đã qua đào tạo
nghề vẫn gặp nhiều khó khăn để tìm được việc làm; nhiều người phải làm việc
không phù hợp với chuyên môn, ngành nghề được đào tạo; tỷ lệ thiếu việc làm còn
khá cao... Do đó, cần có những đánh giá về hiệu quả, tác động của chính sách dạy
nghề, giải quyết việc làm cho lao động vùng dân tộc, từ đó đề xuất những mô hình,
chính sách phù hợp, đảm bảo hiệu quả và tính bền vững.
Lai Châu là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, với tổng diện tích tự nhiên là
9.067,87 km2 dân số hơn 382.430 người, trong đố đồng bào dân tộc thiểu số chiếm
gần 87%. Lai Châu có tiềm năng, thế mạnh trong phát triển nông, lâm nghiệp và
thủy sản (cao su, chè chất lượng cao, cá hồi, cá tầm...), xuất nhập khẩu (khu kinh tế
cửa khẩu Ma Lù Thàng), du lịch (cao nguyên Sìn Hồ, Pu Sam Cáp; Sin Súi Hồ).
Tuy vậy Lai Châu vẫn là một tỉnh có trình độ phát triển thấp, thu nhập bình quân
đầu người thấp,... Cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch từ nhóm ngành nông
nghiệp sang nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ. Đến cuối năm 2015 số lao động
trong tỉnh đã qua đào tạo mới đạt 40,1%, trong đó đào tạo nghề chiếm 29,3%. Cơ
cấu đào tạo nghề chưa hợp lý, hiệu quả đào tạo nghề chưa cao (Báo cáo tổng kết
năm 2015 của Sở LĐ-TB&XH).
Xuất phất từ thực tiễn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước nói chung, của
tỉnh Lai Châu nói riêng, vấn đề đào tạo nghề cho lao động đồng bào dân tộc thiểu số
phù hợp với sự chuyển dịch đó càng trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây là đề tài
được thảo luận rất nhiều nhưng cho đến nay chưa có giải pháp nào thực sự hữu hiệu

1


để giải quyết. Chính vì lý do trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về đào tạo
nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu” để làm luận văn thạc sỹ.
Thông qua phân tích thực trạng đào nghề cho lao động người dân tộc thiểu số tỉnh
Lai Châu, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề nói
cung và đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng của tỉnh. Qua đó, gợi

mở nhất định đối với đào tạo nghề cho lao động đồng bào dân tộc thiểu số ở khu
vực miền núi phía Bắc.
2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài
Có thể nói, ở bất kỳ quốc gia nào, việc làm là một chỉ số vĩ mô quan trọng của
nền kinh tế đó. Đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề cho lao động đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng là chủ đề nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều cá nhân.
Cuốn “Của cải của các dân tộc” - của nhà kinh tế học Adam Smit quan tâm
đến vấn đề lao động như phân công lao động; nguyên tắc chi phối việc phân công
lao động, mức độ phân công lao động bị hạn chế bởi quy mô của thị trường; tiền
công lao động; tiền công và lợi nhuận trong cách sử dụng lao động và vốn... trong
nghiên cứu của mình khi đi tìm nguồn gốc tạo ra của cải của các dân tộc ông đã
nhấn mạnh vai trò của sự phân công lao động và cho rằng người ta chỉ trao đổi hàng
hoá khi nhận thức được là “chuyên môn hoá có lợi cho tất cả các bên". Ông cho
rằng, sự phân công lao động không những làm cho công việc của con người dễ chịu
hơn, họ làm được nhiều sản phẩm hơn mà nó còn tăng cường những quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau trong xã hội. Những vấn đề cơ bản trên là nền tảng lý luận về
chuyển dịch cơ cấu lao động, coi đó như là tất yếu nếu muốn sản xuất phát triển, tạo
thêm của cải cho các dân tộc. Đây là cơ sở quan trọng cho sự nghiên cứu về phân
công lao động và tác động của nó đến nền kinh tế, trong đó có vấn đề đặt ra đối với
các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Michael P.Todaro với tác phẩm “Kinh tế học cho thế giới thứ ba” đã giới
thiệu kết quả nghiên cứu về những nguyên tắc, vấn đề và chính sách phát triển... đã
đề cập khá nhiều về vấn đề nông nghiệp nông thôn, về lao động và ảnh hưởng của
nó đến phát triển kinh tế xã hội, những vấn đề về dân số, nghèo đói và tấn công vào

2


nghèo đói; vấn đề thất nghiệp những khía cạnh của một vấn đề toàn cầu; di cư từ
nông thôn ra thành thị: Lý thuyết và chính sách; nông nghiệp trì trệ và các cơ cấu

ruộng đất. Những vấn đề trên có thể tạo lập những cơ sở lý thuyết cơ bản cho vấn
đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn của nhiều nước, trong đó có nước ta.
Nói riêng về chủ đề đào tạo nghề cho lao động dân tộc thiểu số Lê Bảo
(2017), Báo Đại đoàn kết ngày 23/8/2017 đã khái quát
về thực trạng đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay;
nhiều bất cập đang xảy ra tràn lan là học nghề xong nhưng không sống được bằng
nghề. Công tác tạo việc làm và chuyển đổi nghề cho lao động dân tộc thiểu số còn
nhiều vấn đề cần bàn. Ngoài ra một số bài viết, luận văn có nội dung liên quan như:
Hoàng Văn Phai (2011) với “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta hiện
nay: Vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 3/2011. Tác giả Vũ Viết
Trường (2014) với “Lào cai thực hiện tốt đề án đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020”, tạp chí Thống kê và cuộc sống, số 6, tr. 25-28, đã chỉ rõ tầm
quan trọng của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn Lào Cai, phân tích
những thành tựu và nguyên nhân chưa đạt được mục tiêu kỳ vọng trong công tác
này ở Lào Cai từ năm 2010 đến 2014 và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo nghề.
Nguyễn Tiến Dũng với đề tài “Đào tạo nghề cho nông dân trong thời kỳ hội
nhập quốc tế” của Bộ Lao động, thương binh và xã hội đã cho thấy toàn cảnh công
tác đào tạo nghề cho nông dân trong bối cảnh mới - bối cảnh hội nhập sâu rộng
của Việt Nam. Đặc biệt, khi thị trường lao động Việt Nam liên thông với thị trường
khu vực ASEAN sau khi Cộng đồng kinh tế ASEAN thành lập cuối 2015, yêu cầu
về chất lượng lao động càng trở nên cấp bách theo tinh thần cạnh tranh [10].
Liên quan đến đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh
Lai Châu, một tỉnh 99% người học nghề là đồng bào dân tộc thiểu số có rất nhiều
thông tin mang tính báo cáo của đơn vị chủ quản, tin của Tỉnh về từng hoạt động
dạy nghề cho nông dân từng địa phương, nhưng chưa có nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này trên địa bàn Lai Châu.

3



3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu các qui định của pháp
luật về đào tạo nghề địa bàn tỉnh Lai Châu; đưa ra những đánh giá về thực trạng các
qui định đào tạo nghề ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là từ hoạt động thực tiễn trong công tác đào tạo nghề
trên địa bàn tỉnh Lai Châu để đánh giá, góp phần xây dựng những vấn đề lý luận
pháp lý đào tạo nghề, đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực hiệu
quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác đào tạo nghề cho đồng bào
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉn Lai Châu.
Luận văn có nhiệm vụ tìm hiểu những quan điểm, quan niệm, quy định của
pháp luật Việt Nam đào tạo nghề, soi vào thực tiễn hoạt động đào tạo nghề cho
đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Lai Châu; tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc;
đề xuất kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật đào tạo nghề và nâng cao hơn nữa
hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đào tạo nghề hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử Mác Xít; quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như
phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh đối chiếu vào khảo sát thực tiễn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục các tài liệu
tham khảo nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đào tạo nghề và pháp luật Việt Nam về
đào tạo nghề.
- Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về đào tạo nghề cho đồng bào dân
tộc thiểu số tỉnh Lai Châu.
- Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật về đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu.

4


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. Khái niệm chung về đào tạo nghề
1.1.1. Khái niệm đào tạo nghề
Theo giáo trình Quản trị nhân lực II của Nhà xuất bản Lao động – Xã hội:
“Đào tạo là hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động tiếp thu và rèn luyện
các kỹ năng cần thiết để thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của mình” [12, tr.183].
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam:
Đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho con người đó
lĩnh hội và nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị
cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận được sự phân công nhất
định góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn
minh loài người.
Theo từ điển bách khoa toàn thư:
Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững
những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Khái
niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào tạo đề cập
đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ
nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo
chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo...
Như vậy chúng ta có thể hiểu đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có

tổ chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
thái độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời
hành nghề một cách có năng xuất và hiệu quả.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên

5


môn. Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở
nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000. Nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại
không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái
biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc
thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện
rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi
năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện.
Vậy “nghề” là gì? Quan niệm về nghề ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau
nhất định. Ở quốc gia Nga, nghề được hiểu là một loại hoạt động lao động đòi hỏi
có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn. Ở Pháp, nghề là
một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của một người để từ đó tìm được
phương tiện sống. Ở Đức được định nghĩa là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một
lĩnh vực lao động nhất định đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ nào đó. Ở Việt
Nam, nghề là một tập hợp lao động do sự phân công lao động xã hội quy định mà
giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay
mất đi do trình độ của nền sản xuất và nhu cầu xã hội.
Như vậy, “nghề” là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến gắn chặt
với sự phân công lao động, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn minh nhân loại.
Theo 2 Điều 3, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, đào tạo nghề là hoạt động
dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá
học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp.

Theo Các Mác, công tác đào tạo nghề phải bao gồm các thành phần: Giáo
dục trí tuệ; Giáo dục thể lực trong các trường Thể dục thể thao hoặc bằng cách huấn
luyện quân sự và dạy kĩ thuật nhằm giúp học sinh nắm vững được những nguyên lý
cơ bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sản xuất các công cụ đơn
giản nhất [4, tr.198].
Tóm lại, đào tạo nghề là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề
hay kỹ năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương lai.

6


Đào tạo nghề bao gồm quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và
thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành
thục nhất định về nghề nghiệp và quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và
thực hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định.
Đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao
động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn; bao gồm: đào tạo nghề mới, đào
tạo nghề bổ sung, đào tạo lại nghề và đào tạo (bồi dưỡng) nâng cao tay nghề.
Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những người
đến tuổi lao động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao động
nhưng trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới nhằm đáp ứng tăng thêm lao
động đào tạo nghề cho Xã hội.
Đào tạo nghề bổ sung: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, để hoàn
thành nhiệm vụ được giao ở vị trí mới như quản đốc, trưởng phòng... ngoài nghề họ
đã biết, họ được đào tạo bổ sung nghề để làm tốt hơn công việc của mình.
Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có chuyên
môn nhưng do yêu cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc thay đổi
cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn. Một số công nhân được đào tạo lại cho
phù hợp với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới. Đào tạo lại thường được
hiểu là quá trình nhằm tạo cho người lao động có cơ hội để học tập một lĩnh vực

chuyên môn mới để thay đổi nghề.
Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hóa
kiến thức còn thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng
nghề nghiệp theo từng chuyên môn và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ
hay nâng lên bậc cao hơn.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về đào tạo nghề
Luật Giáo dục Việt Nam cho rằng đào tạo nghề nằm trong khái niệm giáo
dục nghề nghiệp và được coi dạy nghề là
Đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ
khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công

7


nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc
làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh (Điều 33).
Như vậy có thể thấy Luật Giáo dục chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức
cho người học mà không nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ sở dạy nghề.
Luật giáo dục nghề nghiệp cũng có quan điểm như Luật Giáo dục coi đào
tạo nghề là dạy nghề: “là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc
tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học hoặc để nâng cao trình độ nghề
nghiệp” [20, Điều 3].
Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất,
dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức,
lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm
tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự
tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước [26, Điều 4].

Như vậy Luật Giáo giục nghề nghiệp lại quan tâm tới các quy định về quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia vào hoạt động đào tạo nghề, đến tổ chức và
hoạt động của đào tạo nghề.
Ngoài ra còn có cách tiếp cận khác: “học nghề là quá trình trong đó diễn ra
các hoạt động học tập. Làm quen, rèn luyện của người học nhằm đạt được trình độ
nhất định về nghề nghiệp, nắm bắt kỹ năng thực hành một nghề nhất định, nâng cao
trình độ tay nghề...”.
Như vậy với cách tiếp cận khác nhau nhưng đào tạo nghề vẫn là tạo lập một
đội ngũ công nhân kỹ thuật, có khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến,
thiết bị kỹ thuật hiện đại, sau khóa học người học nghề được cung cấp kiến thức, kỹ
năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết, có khả năng cạnh tranh thị trường sức lao động
trong nước và quốc tế.
Từ những quan điểm trên về đào tạo nghề ta có thể thấy cùng là quá trình
đào tạo con người nhưng đào tạo nghề có những đặc điểm riêng, cụ thể như sau:

8


Bên cạnh các hình thức đào tạo khác như: đào tạo đại học, đào tạo trung học
chuyên nghiệp, đào tạo phổ thông thì đào tạo nghề là hình thức đào tạo cung cấp
chính nguồn nhân lực cho xã hội. Bất cứ hình thức đào tạo nào cũng nhằm mục đích
giúp người đào tạo có khả năng đảm đương được một hoặc một số công việc nhất
định, có những kỹ năng nghề nghiệp nhất định, tạo cho xã hội nguồn nhân lực có
chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đào tạo nghề gắn liền với quá trình sản xuất. Trong quá trình dạy học, người
học muốn nắm được nội dung nghề nghiệp thì phải trực tiếp nhìn thấy quá trình sản
xuất. Đào tạo nghề là đào tạo thực hành sản xuất. Mục tiêu quan trọng nhất của đào
tạo nghề là sau khi được đào tạo người học có thể trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất, vì vậy trong quá trình đào tạo kỹ năng thực hành nghề phải được đặc biệt
quan tâm. Điều này được thể hiện rất rõ trong nội dung, phương pháp và thời gian

đào tạo. Trong nội dung đào tạo có cả lý thuyết và thực hành nhưng thời gian thực
hành bao giờ cũng phải dài hơn trong quá trình đào tạo người học được tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất nên họ cũng có thể tạo ra sản phẩm hoặc góp phần
tạo ra sản phẩm nên họ được trả công tương xứng.
Đào tạo nghề muốn có kết quả cao phải có các điều kiện như: trang thiết bị
máy móc, nguyên vật liệu và thời gian để thực hành, có đội ngũ giáo viên lý thuyết
và thực hành vừa giỏi lý thuyết, vừa thành thạo trong thực hành và có nghiệp vụ sư
phạm tốt. Như vậy trong quá trình đào tạo nghề phải đặc biệt quan tâm tới các yếu
tố thực hành.
Đây là điều kiện quyết định để đào tạo nghề đạt hiệu quả cao đó là phải sử
dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, tổ chức học và sản xuất
theo khoa học. Khoa học ngày một phát triển như vũ bão nên phải liên tục đổi mới
công nghệ sản xuất và việc cập nhật các nghề đào tạo mới cung là vấn đề hết sức
quan trọng của việc đào tạo nghề. Đây là điểm khác biệt giữa đào tạo nghề và đào
tạo phổ thông.
Từ các đặc điểm trên ta có thể thấy những nét khác biệt của đào tạo nghề với
các hình thức đào tạo khác ở mục đích đào tạo, điều kiện đào tạo và tính chất của
quá trình đào tạo.

9


Như vậy đào tạo nghề là tạo lập một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề,
có chất lượng cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến,
có khả năng cạnh tranh với sức lao động quốc tế. Điều này góp phần đáng kể trong
việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Phải thực sự coi dạy nghề là
nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển nguồn nhân lực, đồng thời coi dạy nghề cũng là
bồi dưỡng nhân tài. Phát triển dạy nghề phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
1.1.3. Phân loại đào tạo nghề

Theo định hướng nội dung đào tạo, có hai hình thức: Đào tạo định hướng
công việc và đào tạo định hướng doanh nghiệp.
Đào tạo định hướng công việc. Đây là hình thức đào tạo về kỹ năng thực
hiện một loại công việc nhất định, nhân viên có thể sử dụng kỹ năng này để làm
việc trong những doanh nghiệp khác nhau.
Đào tạo định hướng doanh nghiệp. Đây là hình thức đào tạo về các kỹ năng,
cách thức, phương pháp làm việc điển hình trong doanh nghiệp. Khi nhân viên chuyển
sang doanh nghiệp khác, kỹ năng đào tạo đó thường không áp dụng được nữa.
Theo mục đích của nội dung đào tạo, có các hình thức: Đào tạo, hướng dẫn
công việc cho nhân viên; đào tạo, huấn luyện kỹ năng; đào tạo kỹ thuật an toàn lao
động; đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật; đào tạo và phát triển các
năng lực quản trị, v.v....
Đào tạo, hướng dẫn (hoặc định hướng) công việc cho nhân viên nhằm cung
cấp các thông tin, kiến thức mới và các chỉ dẫn cho nhân viên mới tuyển về công
việc và doanh nghiệp, giúp cho nhân viên mới mau chóng thích nghi với điều kiện,
cách thức làm việc trong doanh nghiệp mới.
Đào tạo, huấn luyện kỹ năng nhằm giúp cho nhân viên có trình độ lành nghề
và các kỹ năng phù hợp để thực hiện công việc theo yêu cầu.
Đào tạo kỹ thuật an toàn lao động hướng dẫn nhân viên cách thức thực hiện
công việc an toàn, nhằm ngăn ngừa các trường hợp tai nạn lao động. Đối với một số
công việc nguy hiểm, có nhiều rủi ro như công việc của thợ hàn, thợ lặn, thợ xây,

10


thợ điện, v.v... hoặc tại một số doanh nghiệp thường có nhiều rủi ro như trong
ngành xây dựng, khai thác quặng, luyện kim, v.v... đào tạo kỹ thuật an toàn lao
động là yêu cầu bắt buộc và nhân viên nhất thiết phải tham dự các khoá đào tạo an
toàn lao động và ký tên vào sổ an toàn lao động trước khi làm việc.
Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật thường được tổ chức

định kỳ nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật được cập nhật với các
kiến thức, kỹ năng mới.
Đào tạo và phát triển các năng lực quản trị nhằm giúp cho các quản trị gia
được tiếp xúc, làm quen với các phương pháp làm việc mới, nâng cao kỹ năng thực
hành và các kinh nghiệm tổ chức quản lý và khuyến khích người lao động trong
doanh nghiệp.
Theo cách thức tổ chức, có các hình thức: Đào tạo chính quy, đào tạo tại
chức, lớp cạnh xí nghiệp, kèm cặp tại chỗ.
Trong đào tạo chính quy, học viên được thoát ly khỏi các công việc hàng
ngày tại doanh nghiệp, do đó, thời gian đào tạo ngắn và chất lượng đào tạo thường
cao hơn so với các hình thức đào tạo khác. Tuy nhiên số lượng người có thể tham
gia các khoá đào tạo như thế rất hạn chế.
Đào tạo tại chức áp dụng đối với số cán bộ, nhân viên vừa đi làm vừa tham
gia các khoá đào tạo. Thời gian đào tạo có thể thực hiện ngoài giờ làm việc kiểu các
lớp buổi tối hoặc có thể thực hiện trong một phần thời gian làm việc, ví dụ, mỗi
tuần học một số buổi hoặc mỗi quý tập trung học một vài tuần, v.v... tuỳ theo điều
kiện cụ thể của từng địa phương hay doanh nghiệp.
Lớp cạnh xí nghiệp thường áp dụng để đào tạo nhân viên mới cho doanh
nghiệp lớn.
Doanh nghiệp có cơ sở đào tạo riêng nhằm tuyển sinh đào tạo những nghề
phổ biến, lựa chọn những sinh viên suất sắc của khoá đào tạo, tuyển vào làm việc
trong doanh nghiệp. Học viên sẽ học lý thuyết tại lớp sau đó tham gia thực hành
ngay tại các phân xưởng trong doanh nghiệp. Các lớp đào tạo này thường rất hiệu
quả, học viên vừa nắm vững về lý thuyết, vừa làm quen với điều kiện làm việc, thực
hành ngay tại doanh nghiệp, thời gian đào tạo ngắn, chi phí đào tạo thấp. Tuy nhiên,

11


chỉ có những doanh nghiệp lớn mới có khả năng tổ chức hình thức đào tạo kiểu các

lớp cạnh xí nghiệp.
Kèm cặp tại chỗ là hình thức đào tạo theo kiểu vừa làm vừa học, người có
trình độ lành nghề cao (người hướng dẫn) giúp người mới vào nghề hoặc có trình độ
lành nghề thấp (người học). Quá trình đào tạo diễn ra ngay tại nơi làm việc.
Theo đối tượng học viên, có các hình thức: Đào tạo mới và đào tạo lại.
Đào tạo mới áp dụng đối với các người lao động phổ thông, chưa có trình độ
lành nghề mặc dù người lao động có thể mới lần đầu đi làm việc hoặc đã đi làm việc
nhưng chưa có kỹ năng để thực hiện công việc.
Đào tạo lại áp dụng đối với những lao động đã có kỹ năng, trình độ lành
nghề nhưng cần đổi nghề do yêu cầu của doanh nghiệp.
Việc lựa chọn hình thức đào tạo nào để mang lại hiệu quả cao nhất phục
thuộc vào các yêu cầu về quy mô đào tạo, mức độ phức tạp, nội dung cần đào tạo và
điều kiện trang bị kỹ thuật, tài chính, v.v... cụ thể trong từng doanh nghiệp.
1.1.4. Tầm quan trọng của đào tạo nghề
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta là đến năm 2020 nước ta trở
thành nước công nghiệp có trình độ phát triển trung bình (tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 30% trong GDP, tỷ lệ lao động nông nghiệp còn
khoảng 30% trong tổng số lao động xã hội). Mục tiêu mà nước ta đưa ra là thách
thức to lớn đối với đào tạo nghề. Nó đòi hỏi đào tạo nghề phải luôn đi trước một bước
để chuẩn bị nguồn nhân lực cho việc phát triển.
Đào tạo nghề có chi phí đầu tư vốn lớn và thời gian thu hồi chậm nên để việc
đào tạo đạt kết quả tốt cần có sự quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng và
Nhà nước. Trong những năm qua nhà nước đã ban hành hành lang pháp lý về đào
tạo nghề, đồng thời cũng có nhiều chính sách đầu tư cho lĩnh vực này để tạo điều
kiện thuận lợi cho đào tạo nghề phát triển.
Để có cơ chế chính sách quản lý đào tạo nghề hợp lý năm 2006 nước ta
chính thức ban hành Luật Dạy nghề và đến năm 2014 ban hành Luật Giáo dục nghề
nghiệp. Đặc biệt sau khi gia nhập WTO năm 2007, nước ta đã triển khai rất nhiều
dự án, ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ cho đào tạo nghề đạt chất lượng cao.


12


Ví dụ như dự án nâng cao năng lực đào tạo nghề thuộc chương trình mục tiêu quốc
gia giáo dục và đào tạo; dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia việc làm - dạy
nghề giai đoạn 2012-2015; dự án đổi mới và phát triển dạy nghề trọng điểm quốc
gia, nghề điện công nghiệp giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; đào
tạo nghề cho lao động các tỉnh, chính sách đối với người học nghề (miễn giảm học
phí, cử tuyển, giới thiệu việc làm…).
Các cơ sở đào tạo nghề thường được nhà nước hỗ trợ kinh phí. Nhà nước cũng
đưa ra các chính sách, các biện pháp để quản lý chặt chẽ các cơ sở đào tạo nghề. Điều
đó tạo cho các cơ sở đào ta ̣o nghề thuận lợi hơn về nguồn kinh phí đào tạo. Tuy nhiên
việc phải hoạt động theo những quy định, quy chế, các dự án của nhà nước cũng gây
không ít khó khăn cho các cơ sở đào tạo nghề.
Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, mau
lẹ trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học và công nghệ, cho
đến môi trường sinh thái, khí hậu, bệnh tật và đói nghèo... Những xu thế thay đổi
này vừa là cơ hội lớn để Việt Nam nhanh chóng tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thành công, nhưng cũng là những thách thức không nhỏ mang tính thời đại mà
Việt Nam phải vượt qua.
Từ Đại hội lần IX đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, mục tiêu đến năm
2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trong
hoàn cảnh nước ta vẫn còn ở trình độ kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân
còn thấp, và sự cạnh tranh quốc tế trên tất cả các lĩnh vực ngày càng quyết liệt. Điều
đó cho thấy, nếu chúng ta không nhanh chóng tìm ra những giải pháp mang tính đột
phá để đi tắt, đón đầu, thì sẽ càng tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, thì
quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động cũng diễn ra ngày càng phức
tạp, vừa hợp tác vừa cạnh tranh quyết liệt. Việc tham gia vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các nền kinh tế,

nếu muốn hội nhập vào thế giới.
Trước những thời cơ và thách thức mới, muốn vươn lên tiến cùng thời đại thì
yếu tố con người có tri thức hiện đại là nhân tố quyết định hàng đầu. Những con

13


người đó phải có năng lực trí tuệ sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi và ý chí quyết
tâm đưa nước ta phát triển nhanh chóng, rút ngắn khoảng cách so với những nước
phát triển. Để thực hiện được hoài bão lớn lao đó, chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ
là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh và sự thành công của mỗi quốc gia trong
quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra sự dịch
chuyển lao động giữa các nước, đòi hỏi mỗi quốc gia càng phải chú ý nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của mình, hướng tới xuất khẩu lao động qua đào tạo ở những
lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là xuất khẩu các chuyên gia. Với những yêu cầu
đặt ra trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
đòi hỏi nước ta phải có đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, có kiến thức, kỹ
năng nghề thành thạo với cơ cấu và trình độ phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội. Lực
lượng lao động kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh đòi hỏi trình độ ngày
càng cao và kỹ năng ngày càng giỏi. Những người qua đào tạo trong thời kỳ mới
phải có phẩm chất, nhân cách tốt, tinh thông nghề nghiệp; có đủ sức khỏe phục vụ
cho các ngành kinh tế, vùng kinh tế, đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng
kinh tế trọng điểm và xuất khẩu lao động.
Theo quan điểm của Đảng, trong giai đoạn 2011-2020, công tác dạy nghề ở
nước ta phải thực hiện được hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, đó là: đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh có trình độ cao, đủ về số
lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề; có đủ điều kiện và khả năng đáp ứng yêu cầu
phát triển của các ngành, vùng kinh tế, đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng
kinh tế trọng điểm, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế. Trong thời gian tới, việc mở rộng quy mô đào tạo nghề cho người lao

động, phục vụ có hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn, tạo nhiều việc làm có thu nhập cao, cải thiện đời sống cho người lao động;
giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và lao động nông nghiệp, nông thôn. Nhiệm vụ này đã được cụ thể hoá bằng
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án dạy nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020 (Quyết định 1956 ngày 27 tháng 11 năm 2009) và đang
được triển khai tích cực trên phạm vi toàn quốc.

14


Trước những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội đã xây dựng Chiến lược Công tác dạy nghề giai đoạn
2011- 2020, và đặt ra mục tiêu tổng quát phát triển dạy nghề Việt Nam đến năm
2020 là tạo sự đột phá về chất lượng dạy nghề theo hướng tiếp cận trình độ khu vực
và thế giới, nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ có kiến thức, năng lực thực hành nghề; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp,
tác phong công nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và xuất
khẩu lao động. Theo Chiến lược, từ nay đến năm 2020 sẽ tăng quy mô đào tạo nghề,
nhằm đạt được 27,5 triệu người được đào tạo nghề, trong đó đào tạo nghề cho
khoảng 10 triệu lao động ở nông thôn; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong cả
nước đạt 55%, trong đó 28%-30% có trình độ từ trung cấp nghề trở lên; khoảng
90% số người học nghề có việc làm và 70% có việc làm đúng với nghề được đào
tạo. Đẩy mạnh việc đào tạo nghề gắn kết với doanh nghiệp. Chiến lược cũng đặt ra
những mục tiêu dạy nghề cho từng giai đoạn cụ thể, đề ra những giải pháp để công
tác dạy nghề có sự chuyển biến thực sự cả về lượng và chất.
1.2. Sự cần thiết phải đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số được định nghĩa tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định 05/2011/NĐCP về công tác dân tộc như sau: “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn
so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam chiếm 2/3 diện tích tự nhiên

của cả nước, là địa bàn cư trú chủ yếu của 53 dân tộc thiểu số với gần 13,4 triệu
người, chiếm trên 14% dân số cả nước năm 2015. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng về quốc phòng an ninh, có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, đây cũng là địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng yếu
kém; xuất phát điểm và trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao,
mặt bằng dân trí thấp, thường bị ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt... Đời sống của đa số
đồng bào Dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ Dân tộc thiểu số sống tại
vùng dân tộc tính tại thời điểm ngày 01/07/2015 là hộ nghèo chiếm 23,1%; hộ cận
nghèo chiếm 13,6% (Báo cáo tổng kết năm 2016 của Ủy ban Dân tộc QH). Cuộc

15


sống và việc làm của người dân vùng dân tộc dễ rơi vào tình trạng bấp bênh, không
ổn định, khó duy trì, trình độ dân trí thấp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về mất ổn định an
ninh, chính trị.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm lao động Dân tộc
thiểu số tại địa bàn cư trú nhằm đưa ra những giải pháp giải quyết việc làm người
Dân tộc thiểu số tại khu vực vùng núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa... gắn với phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái tại khu vực
là rất cần thiết.
Thứ nhất, vấn đề lao động - việc làm luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản của đất nước nhằm mục tiêu phát
triển bền vững con người. Vùng Dân tộc thiểu số là vùng chậm phát triển và có
khoảng cách chênh lệch khá lớn so với sự phát triển chung của cả nước. Điều này
đặt ra yêu cầu đòi hỏi Nhà nước cần phải có giải pháp về cơ chế, chính sách để giải
quyết tình trạng này, trong đó tạo cơ hội về việc làm, chuyển đổi sinh kế, tăng thu
nhập là một trong những ưu tiên cần chú ý. Thực tế cho thấy, lao động ở vùng Dân
tộc thiểu số hiện nay chủ yếu tập trung trong nông nghiệp. Hai vùng có số lượng và

tỷ lệ Dân tộc thiểu số cao nhất cả nước là Trung du và miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên có tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm trên 70%. Cơ cấu này có sự cách biệt
rất xa so với cả nước (cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp và xây dựng - dịch vụ của
cả nước là 51,9%; 21,5% và 26,5%). Lao động Dân tộc thiểu số chủ yếu tham gia
vào nghề nông và các nghề đơn giản. Tại vùng miền núi phía Bắc có đến 78,44%
dân số từ 15 tuổi trở lên đang tham gia vào nghề nông và các nghề đơn giản, trong
khi chỉ có 6,26% tham gia vào các ngành nghề có chuyên môn kỹ thuật cao và trung
bình; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung tương ứng là 64,81% và 7,31%;
Tây Nguyên là 76,33% và 5,93%... Ngoài vấn đề nêu trên, tình trạng dư thừa lao
động, thiếu việc làm cũng đang diễn ra khá gay gắt ở vùng Dân tộc thiểu số. Đây là
vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
Thứ hai, chất lượng lao động Dân tộc thiểu số thấp. Khoảng 75% dân số

16


vùng dân tộc thiểu số và miền núi (tương đương 50 triệu người trong đó 44 triệu
người thuộc diện không có kĩ năng) đang ở độ tuổi lao động và nếu như Việt Nam
không chuẩn bị một chính sách đúng đắn giải quyết việc làm cho vùng Dân tộc
thiểu số và miền núi, đặc biệt là đối với các Dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn thì
có khả năng là các dân tộc thiểu số sẽ bị gạt ra khỏi quá trình phát triển kinh tế
chung của quốc gia. Trong quá trình toàn cầu hóa, lực lượng lao động ngày càng
phải đáp ứng yêu cầu là có tay nghề, linh hoạt, năng động và luôn luôn thích ứng
với nhu cầu lao động của thị trường lao động.
Thứ ba, tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm bình quân từ 2-2,36%/năm. Năm
2010, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 14,2%. Các năm sau đó, tỷ lệ này đều giảm dần:
Năm 2011 giảm còn 11,76%; Năm 2012 giảm còn 9,6%; Năm 2013 giảm còn 7,8%;
Năm 2014 giảm còn 5,97%; Năm 2015 giảm còn dưới 5% (Báo cáo tổng kết năm
2016 của Ủy ban Dân tộc QH).
Tuy nhiên, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu

hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở
các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhưng nhiều nơi tỷ lệ
nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 80 - 90%. Số hộ nghèo là dân tộc thiểu số
chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả nước, thu nhập bình quân của hộ dân tộc
thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân của cả nước. Do vậy, cần chính sách tạo
việc làm hơn nữa cho lao động vùng Dân tộc thiểu số để họ có cơ hội tăng thu nhập,
giảm nghèo (Báo cáo tổng kết năm 2016 của Ủy ban Dân tộc QH).
Thứ tư, Nhà nước đã ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp trong sử dụng lao động tại chỗ ở vùng Dân tộc thiểu số, nhưng khó
thu hút được lao động vùng này. Ở nhiều nơi như Tây Bắc, Tây Nguyên, các doanh
nghiệp không hoặc rất ít sử dụng lao động là người Dân tộc thiểu số tại chỗ mà
phần lớn đưa lao động từ nơi khác đến (chủ yếu là lao động từ vùng đồng bằng), từ
đó làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Hiện nay, rất nhiều người Dân tộc thiểu số
ngại phải đi làm xa nhà, không quen với môi trường làm việc công nghiệp và thiếu
tự tin. Do vậy, họ khó tìm được công việc tốt hơn nhằm tăng thu nhập. Đồng thời,

17


×