Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp giúp tre 5 6 tuổi học tốt văn học thể loại thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.61 KB, 22 trang )

§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN THANH OAI
TÊN ĐƠN VỊ: TRƯỜNG MẦM NON THANH CAO

**********

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 5 - 6 TUỔI HỌC TỐT
HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC THỂ LOẠI THƠ”

Lĩnh vực: Giáo dục mẫu giáo
Tên tác giả: Nguyễn Thị Bích Đào
Giáo viên lớp: A2 (5- 6 tuổi)


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH OAI
TÊN ĐƠN VỊ: TRƯỜNG MẦM NON THANH CAO

**********

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚP A2
TRƯỜNG MẦM NON THANH CAO”

Lĩnh vực: Giáo dục mẫu giáo
Tên tác giả: Nguyễn Thị Kim Phụng


Giáo viên lớp: A2 (5 - 6 tuổi)


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

*****

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SƠ YẾU LÝ LỊCH

Họ và tên:

Nguyễn Thị Kim Phụng

Ngày sinh:

03/ 02 / 1983

Năm vào ngành:

2003

Chức vụ, đơn vị công tác:

Giáo viên

Trình độ chuyên môn:


Đại học sư phạm mầm non

Hệ đào tạo:

Từ xa

Khen thưởng:

Lao động tiên tiến


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Mục lục
STT
Nội dung
Trang số
1
Sơ yếu lý lịch
2
2 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
4
1. Tên đề tài
2. Lý do chọn đề tài
+ Cơ sở lý luận
+ Cơ sở thực tiễn
3. Mục tiêu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu.
3 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

5
* Thuận lợi
* Khó khăn
*Thực trạng trước khi thực hiện đề tài.
4
6
PHẦN III: Những biện pháp thực hiện đề tài.
* Biện pháp 1. Tự rèn luyện nâng cao nhận thức
chuyển tải tác phẩm thơ tới trẻ.
* Biện pháp 2. Rèn luyện, nâng cao nghệ thuật
giảng dạy.
* Biện pháp 3. Rèn luyện kĩ năng đọc thơ diễn
cảm, kĩ năng sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ cho trẻ
* Biện pháp 4. Tổ chức cho trẻ làm quen với tác
phẩm thơ theo hướng tích hợp.
* Biện pháp 5.Tuyên truyền, phổ biến kiến thức và
phối hợp với phụ huynh để nâng cao nghệ thuật
đọc thơ cho trẻ.
5
PHẦN IV: Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng.
18
6
PHẦN V : Kết luận và kiến nghị
19
1. Kết luận
2. Bài học kinh nghiệm.
3. Những kiến nghị sau khi thực hiện đề tài.
7
PHẦN VI: Ý kiến nhận xét, đánh giá, xếp loại của
20

các cấp
1. Ý kiến nhận xét, đánh giá xếp loại của hội đồng
khoa học cơ sở
2. Ý kiến nhận xét, đánh giá, xếp loại của hội đồng
khoa học nghành giáo dục huyện Thanh Oai
8
Phần VII: Tài liệu tham khảo
21


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tên đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚP A2 TRƯỜNG MẦM NON THANH CAO”

2. Lý do chọn đề tài:

Giáo dục ở nước ta nói chung và giáo dục mầm non nói riêng là nền
giáo dục một cách toàn diện nhằm hình thành nhân cách của một con
ngưòi. Trong quá trình hình thành nhân cách toàn diện cho trẻ thì các tác
phẩm văn học đóng vai trò đáng kể trong việc giáo dục trẻ. Văn học là một
loại hình nghệ thuật mà trẻ được tiếp xúc từ rất sớm. Ngay từ tuổi ấu thơ
các em đã được làm quen với những giai điệu nhẹ nhàng, êm ái, thiết tha
của những câu hát ru. Lớn hơn một chút các em lại được biết tới những câu
chuyện dân gian, các tác phẩm thơ, văn. Các tác phẩm này đã reo vào lòng
trẻ tình cảm yêu mến thế giới xung quanh và giúp trẻ có thêm kiến thức
hiểu biết về truyền thống dân tộc, nảy sinh ở trẻ lòng nhân ái, mở rộng
nhận thức về thiên nhiên xã hội.
Ngoài ra, văn học còn giúp trẻ yêu thích hào hứng và có nhu cầu

tham gia vào các hoạt động nghệ thuật góp phần phát triển ngôn ngữ của
trẻ, dạy trẻ phát âm chính xác các âm tiết của tiếng mẹ đẻ… Ngoài ra, văn
học còn giúp trẻ rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng ngôn ngữ mạch
lạc khi tham gia giao tiếp.
Trẻ mẫu giáo hầu như chưa biết đọc, biết viết chính vì vậy các em
tiếp nhận các tác phẩm văn học thường phải qua trung gian là cô giáo(ở
trường) và người lớn ở nhà như: ông, bà, bố mẹ. Tác phẩm văn học là một
bản nghệ thuật ngôn ngữ nên việc cảm thụ tác phẩm văn học đối với trẻ
gặp nhiều khó khăn.
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc thực hiện
dạy trẻ các tác phẩm thơ còn nhiều hạn chế. Phương pháp tổ chức các hoạt động
dạy thơ của cô còn chưa thật sự đa dạng phong phú, chưa thu hút được sự chú ý
của trẻ dẫn đến trẻ hoạt động chưa tích cực và điều quan trọng là trẻ chưa phát
huy được tính tích cực sáng tạo của mình.
Ở trẻ, phần lớn trẻ tiếp thu còn mang tính thụ động, khả năng đọc thơ diễn
cảm chưa được chú ý nhiều, sử dụng câu chưa rõ ràng mạch lạc,trẻ ghi nhớ tác
phẩm mang tính hình thức chứ chưa cảm nhận và ghi nhớ sâu được nội dung của
tác phẩm.
3. Mục tiêu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
- Tìm ra nguyên nhân, khắc phục thực trạng trẻ chưa học tốt hoạt động
làm quen với tác phẩm thơ.
- Nghiên cứu, áp dụng các biện pháp giúp trẻ 5- 6 tuổi học tốt hoạt động
làm quen với văn học thể loại thơ.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
- Nâng cao chất lượng giáo dục mầm non nói chung và chất lượng dạy
hoạt động làm quen văn học thể loại thơ nói riêng.
4. Phạm vi và đối tượng thực hiện đề tài:
Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 09 năm 2015 đến tháng 05 năm 2016

Đối tượng và địa điểm trẻ: Trẻ 5- 6 tuổi tại lớp A2 khu Thương nhiệp Trường MN Thanh Cao - Thanh Oai - Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát: quan sát trẻ đọc thơ diễn cảm để nắm bắt thực
trạng, khả năng hoạt động làm quen văn học thể loại thơ của Trẻ 5- 6 tuổi tại lớp
A2 khu Thương nhiệp - Trường MN Thanh Cao - Thanh Oai - Hà Nội.
- Phương pháp đàm thoại: Nhằm nắm bắt khả năng phát triển ngôn ngữ
của trẻ.
- Phương pháp sử dụng toán thống kê: Sử dụng tính phàn trăm của các
tiêu chí đánh giá thực trạng trước và sau khi thực hiện đề tài.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật bắt đầu từ cuộc sống, nó thức tỉnh và phát triển tâm hồn con
người.Văn học là một loại hình nghệ thuật, là một bộ phận hoạt động tinh thần
cơ bản làm nên sự phong phú của nhân cách, đặc biệt làm nảy sinh tư tưởng,
tình cảm, trí tưởng tượng, niềm tin và hành động nhân văn, nhân đạo của con
người trong môi trường xã hội và tự nhiên.
Với trẻ mầm non văn học là một phương tiện có hiệu quả mạnh mẽ đối
với việc giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ và nó có ảnh hưởng to lớn trong việc
phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ rất thích hỏi, thích tìm hiểu về nguồn gốc, về cấu
tạo, về cách làm, về sự phát sinh, phát triển của cây cối, con vật, đồ vật có hoặc
không có ở gần trẻ.Trẻ hỏi để phát triển tư duy nhưng để trả lời hết những câu
hỏi đó thì không phải dễ .Rất nhiều truyện, thơ ca đồng dao đã giúp chúng ta
giải đáp thắc mắc cho trẻ.
Văn học phản ánh thế giới loài vật sinh động, đa dạng, môi trường thiên
nhiên với với những điều mới mẻ, hấp dẫn. Với phạm vi phản ánh rộng lớn, văn
học không chỉ mở rộng hiểu biết của trẻ về thế giới tự nhiên mà còn mở rộng
hiểu biết của trẻ về xã hội. Niềm tự hào về con người, về đất nước Việt Nam còn
được khơi dậy trong trẻ qua các tác phẩm phản ánh phong tục, tập quán, cổ
truyền tốt đẹp của dân tộc.

Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học cô giáo giúp trẻ
cảm nhận được vẻ đẹp về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự
rung động, hứng thú với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật.
Mượn các nhân vật như cô bé, cậu bé, những con vật như gà, vịt, thỏ, gấu,..các
nhà văn nhà thơ đã gửi đến trẻ những bài học giáo dục đạo đức nhẹ nhàng mà
sâu sắc. Từ đó bồi dưỡng, vun đắp những tình cảm tốt đẹp là tiền đề của việc
xây dựng , hình thành những hành vi đạo đức mang tính chuẩn mực ở trẻ.
2. Thực trạng


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
a. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường đầu tư trang thiết bị
đầy đủ.
- Bản thân yêu trẻ, có tâm huyết với ngành.
- Có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Các cháu trong lớp khỏe mạnh, nhanh nhẹn.
b. Khó khăn:
- Lớp học có sĩ số đông, nhiều cháu nam hiếu động.
- Nhận thức của trẻ không đồng đều.
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm tới việc chăm sóc giáo dục trẻ.
2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.
- Điều tra 45 trẻ.
- Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát các cháu với những tiêu
chí cụ thể như sau:
STT
1

Nội dung
Khả năng chú ý, tích cực tham gia hoạt động.


2

Thuộc tác phẩm

3

Đọc thơ diễn cảm

4

Khả năng phát âm chuẩn

5

Khả năng diễn đạt câu rõ ràng, mạch lạc.

Mức độ đạt được
Số lượng
Tỉ lệ
25

56%

31

69%

20


44%

24

53%

21

47%

IV: NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Từ thực tế trên tôi đã đề ra những biện pháp sau:
1) Biện pháp 1: Tự rèn luyện nâng cao nhận thức chuyển tải tác
phẩm thơ cho trẻ.
Việc truyền thụ tác phẩm thơ tới trẻ của giáo viên giữ vai trò quan trọng
trong kết quả tiếp nhận tác phẩm của trẻ. Để sử dụng các phương pháp, hình
thức dạy thơ cho trẻ đạt kết quả như mong muốn trước tiên giáo viên phải là
người hiểu trẻ.Vì vậy tôi đã tìm hiểu về đặc điểm tiếp nhận tác phẩm thơ của trẻ.
Tiếp nhận tác phẩm thơ của trẻ phụ thuộc vào sự lớn khôn, vào kinh
nghiệm sống của trẻ. Vì vậy khi tổ chức dạy thơ giáo viên phải chú ý tới mối
quan hệ giữa tác phẩm với cuộc sống của trẻ, phải hướng tới quá trình phát triển
của chính trẻ. Khi xây dựng kế hoạch giảng dạy tôi đã lựa chọn các bài thơ phù
hợp với khả năng ngôn ngữ, khả năng hiểu biết về môi trường tự nhiên xã hội
của trẻ 5-6 tuổi. Các bài thơ tôi lựa chọn không quá ngắn vì nó sẽ hạn chế về nội
dung cũng như ngôn từ và cũng không quá dài vì trẻ sẽ khó ghi nhớ tác phẩm.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Những bài thơ cho trẻ 5-6 tuổi làm quen phạm vi mở rộng, mang tính kế tiếp so
với các bài thơ dành cho trẻ 5-6 tuổi.

Tiếp nhận tác phẩm của trẻ là tiếp nhận gián tiếp. Trẻ 5-6 tuổi chưa thể
tự đọc bằng mặt chữ, trẻ tiếp nhận qua khâu trung gian là cô giáo.Vì vậy việc
đọc một tác phẩm diễn cảm, sống động, sáng tạo của cô giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến sự cảm thụ và việc thể hiện lại tác phẩm của trẻ. Để có thể giúp trẻ cảm
nhận được cái hay, cái đẹp trong thơ người giáo viên phải biết cảm thụ tác phẩm.
Sự khác biệt rõ nét giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi là nhịp điệu. Muốn
xác định đúng nhịp điệu bài thơ cũng như cảm nhận nội dung tác phẩm tôi phải
đọc đi đọc lại nhiều lần, tập đọc cho diễn cảm, chuẩn bị hệ thống câu hỏi ngắn
gọn, dễ hiểu mang tính gợi mở để kích thích suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của trẻ.
Trước khi dạy trẻ đọc thơ tôi thường tranh thủ thời gian nghiên cứu tài liệu,
tham khảo các bài dạy trên mạng Internet, các băng thơ dành cho trẻ 5- 6 tuổi.

Hình ảnh Giáo viên nghiên cứu tài liệu:
Bên cạnh đó tôi thường xuyên trao đổi tọa đàm với đồng nghiệp qua các
buổi sinh hoạt chuyên môn theo tổ, khối, qua các buổi dự giờ của đồng nghiệp
để học hỏi kinh nghiệm , tìm tòi đổi mới cách quan sát, đánh giá, tổ chức hoạt
động áp dụng vào giảng dạy sáng tạo và phù hợp với lứa tuổi và tình hình thực
tế ở lớp. Ngoài ra tôi tích cực tham gia các buổi bồi dưỡng chuyên môn do
phòng, nhà trường tổ chức. Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy mà bản thân còn nhiều hạn chế, tôi cố gắng
chuẩn bị các giáo án điện tử đưa vào bài dạy để bộ phận chuyên môn dự giờ
đóng góp ý kiến cũng như thường xuyên dự giờ của đồng nghiệp để đúc rút kinh
nghiệm cho bản thân.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Hình ảnh giáo viên cùng đồng nghiệp xây dựng, thiết kế giáo án điện tử
Việc tiếp nhận thơ của trẻ còn chịu sự tác động của các yếu tố tâm lý. Trẻ
dễ nhạy cảm, dễ xúc động trước tác động bên ngoài. Vì vậy khi tổ chức hoạt

động, giáo viên cần tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, tự nhiên không áp đặt.
2) Biện pháp 2: Rèn luyện nâng cao nghệ thuật giảng dạy.
Tác phẩm thơ chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi giáo viên biết
chuyển tải được tư tưởng, cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua
các hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú và đa dạng.
Để thu hút , lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức
phù hợp, hấp dẫn như hội thi, tham quan đặc biệt chọn các hình ảnh đẹp, sinh
động đưa vào giáo án điện tử.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen bài thơ “Che mưa cho bạn” với đoạn thơ:
“ Gió thổi dồn mây đen
Ông trời nổi sấm chớp
Mưa trút xuống ào ào
Gà đi về nơi nào
Ôi gà con ướt lạnh!”
Tôi thiết kế một slide với những hình ảnh, màu sắc kết hợp các hiệu ứng
sinh động. Những đám mây đen ùn ùn kéo đến, các tia sáng lóe lên từ những
đám mây, tiếng sấm nổ và sau đó là những hạt mưa rơi nối tiếp không ngừng,
một chú gà con đi ra với dáng vẻ co ro, ngơ ngác.. Khi xem phần trình chiếu này
trẻ tỏ ra rất chăm chú.
Mỗi bài dạy tôi cố gắng dùng các thủ thuật khác nhau để dẫn dắt vào bài
tạo cho trẻ sự hứng khởi ngay từ đầu giờ học.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Ví dụ: Tôi vào vai bác sĩ với áo blu trắng, ống nghe khám bệnh cho trẻ
sau đó dẫn dắt trẻ làm quen bài thơ “Làm bác sĩ.”
Có những tình huống bất ngờ xảy ra nếu giáo viên biết tận dụng tốt thì
hiệu quả của việc tiếp nhận bài thơ của trẻ đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen bài thơ “ Mưa” mà ngoài trời cũng đang mưa, tôi
có thể tận dụng tình huống đó cho trẻ quan sát trời mưa và giới thiệu tác phẩm

tới trẻ.
Với phương trâm “ lấy trẻ làm trung tâm” tôi rất chú ý đến hệ thống câu
hỏi trong quá trình đàm thoại. Các câu hỏi mang tính gợi mở đòi hỏi trẻ phải suy
nghĩ, phát huy năng lực tư duy của mình hồi tưởng lại những sự vật sự việc đã
được mô tả. Khi trẻ trả lời tôi yêu cầu trẻ nói đủ câu, rõ ràng mạch lạc.
Ngoài ra, giáo viên cần đưa ra những câu hỏi giúp trẻ suy nghĩ về nội
dung tư tưởng của tác phẩm bằng cách hướng trẻ vào nhân vật chính với những
hành động của nhân vật, phát hiện ra phẩm chất, đưa ra nhận xét về nhân vật và
xác định thái độ của mình với nhân vật.
Ví dụ: Bài thơ “Giúp bà” tôi đặt ra các câu hỏi:
- Khi đi học về bạn nhỏ thấy điều gì?
- Bạn nhỏ đã làm gì để giúp bà qua đường?
- Cháu thấy bạn nhỏ là người như thế nào?
Để hiểu sâu sắc về nội dung tư tưởng của tác phẩm, giáo viên cần cho trẻ
học cách biểu thị thái độ của mình đối với nhân vật, dạy trẻ nghệ thuật tự đặt
mình vào nhân vật.
Ví dụ: -Nếu là bạn nhỏ trong bài thơ cháu có làm như vậy không? Tại
sao?
- Cháu sẽ làm như thế nào?
Ở trẻ 5- 6 tuổi vốn từ của trẻ đã được mở rộng hơn so với độ tuổi trước
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Những từ mới, từ khó nếu không được giải thích
sẽ cản trở việc hiểu tác phẩm của trẻ. Giải thích từ khó phải ngắn gọn, dễ hiểu,
tạo cho trẻ có ấn tượng mạnh mẽ về từ đó, không được tách từ ra khỏi bài thơ
mà phải đảm bảo việc giải thích nằm trong chỉnh thể ngôn ngữ. Để giải thích từ
khó giáo viên phải chọn từ, hiểu đúng từ và giải thích phù hợp với khả năng
nhận thức của trẻ. Khi giải thích từ mới, từ khó cần kết hợp hình ảnh và lời giải
thích.
Ví dụ: Khi giải thích từ “bé tẻo teo” trong bài thơ “Chim chích bông” của
tác giả Nguyễn Viết Bình, tôi cho trẻ quan sát hình ảnh chim chích bông bé đậu
trên cành bưởi to. Sự tương phản ấy cùng với lời giải thích giúp trẻ hiểu từ ngữ

một cách dễ dàng hơn.
Ví dụ:
“ Hoa mận trắng tinh
Rung rinh trong gió”
Tôi chọn từ “rung rinh” để giải thích. Tôi sử dụng một cành cây nhỏ lay
nhẹ để trẻ cảm nhận được sự rung chuyển nhẹ nhàng kết hợp giải thích: “rung
rinh ” là sự chuyển động nhẹ nhàng khi gió thổi.
Giáo viên là nhịp cầu nối giữa tác phẩm và các độc giả nhỏ tuổi. Vì vậy
giáo viên phải là người đọc đúng, phát âm chuẩn, rõ ràng mạch lạc. Nâng cao


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
hơn nữa là đọc diễn cảm. Để đọc diễn cảm tôi tìm hiểu, xác định thể loại của bài
thơ sắp dạy. Từ đó xác định nhịp ngắt, nghỉ trong các câu thơ. Tôi thường luyện
đọc bằng cách đứng trước gương đọc kết hợp với dáng vẻ, cử chỉ, điệu bộ, giọng
điệu, ngữ điệu ngôn ngữ. Nhìn qua gương tôi tự nhận xét cử chỉ , điệu bộ nào là
phù hợp, cử chỉ nào cần phải chỉnh sửa.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn theo tổ, khối tôi thể hiện các bài
thơ sắp dạy để đồng nghiệp nghe và đóng góp ý kiến.
Với mỗi bài thơ giáo viên cần thể hiện được cảm xúc chủ đạo.
Ví dụ:
Bài “Ảnh Bác” cảm xúc chủ đạo là trang trọng.
Bài “Hoa đào” thể hiện cảm xúc trong sáng, êm dịu.
Bài “Trăng sáng” thể hiện sự vui tươi, dí dỏm.
Cảm xúc chủ đạo bao trùm toàn bộ bài thơ nhưng với từng đoạn, từng câu
giáo viên phải thể hiện sắc thái, ngữ điệu giọng phù hợp với nội dung.
Ví dụ: “ Hôm qua còn lấm tấm
Chen lẫn màu lá xanh
Hôm nay bừng lửa thẫm
Rừng rực cháy trên cành”

( Bài thơ Hoa phượng của Lê Huy
Hòa)
Hai câu đầu tôi đọc chậm rãi, nhẹ nhàng thể hiện hình ảnh những nụ
phượng nhỏ còn e ấp trong màu xanh của lá. Hai câu sau tôi đọc nhanh hơn,
nhấn mạnh vào từ “bừng”, “rừng rực” thể hiện sự ngạc nhiên, bất ngờ đến thú vị
trước màu đỏ rực rỡ, choáng ngợp của hoa phượng.
Khi đọc thơ không nên đọc đều đều mà phải biết nhấn vào các từ mang
vần hay các từ không mang vần nhưng được lặp đi lặp lại nhiều lần.
Ví dụ: Bốn câu đầu của bài thơ “Giữa vòng gió thơm”
“Này chú gà nâu
Cãi nhau gì thế?
Này chú vịt bầu
Chớ gào ầm ĩ”
“Nâu” và “bầu” là hai từ mang vần cần được nhấn mạnh khi đọc. Từ
“Này” ở đầu câu được láy lại cũng đọc nhấn mạnh. Câu thứ nhất khi đọc phải
nhấn vào từ đầu câu và từ cuối câu. Trong câu thứ hai không có từ mang vần
hoặc láy lại, các từ đọc như nhau về cường độ nhưng phải thể hiện giọng đối với
câu hỏi, từ “thế” ở cuối câu đọc hơi cao giọng hơn một chút. Câu thứ ba đọc
nhấn vào từ đầu và cuối câu giống như câu thứ nhất. Câu thứ tư đọc nhấn vào từ
đầu tiên “ Chớ” tỏ ý ngăn cấm.
Ngôn ngữ, hình thể, tư thế, nét mặt, cử chỉ của cô giáo luôn gắn với đọc
diễn cảm. Ngôn ngữ đọc diễn cảm, rõ ràng, mạch lạc, tình cảm hòa quện giữa
giọng điệu và sự biểu lộ trên nét mặt, ánh mắt, phong thái tự nhiên của cô giáo
sẽ làm hiện lên trong óc trẻ những hình ảnh sáng tỏ.Vì vậy khi đọc thơ tôi rất
chú ý tới điều này.
Ví dụ: bài thơ “Ong và bướm”
“Con bướm trắng


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Lượn vườn hồng”
Hai câu thơ này tôi đọc với giọng vui vẻ, trong sáng kết hợp vẫy nhẹ
nhàng hai tay thể hiện hành động bay lượn của bướm trắng.
Hai câu tiếp:
“ Gặp con ong
Đang bay vội”
Đọc với giọng hơi nhanh, hai tay làm động tác vẫy liên tục thể hiện sự vội
vàng, hối hả của ong.
“Bướm liền gọi
Rủ đi chơi”
Đọc với giọng vui, nét mặt hồn nhiên, tươi tắn kết hợp vẫy nhẹ tay mô
phỏng việc bướm rủ ong đi chơi.
“Ong trả lời:
Tôi còn bận
Mẹ tôi dặn
Việc chưa xong
Đi chơi rong
Mẹ không thích”
Đọc với giọng đầm ấm hơi nghiêm.
Trước đối tượng là trẻ em giáo viên phải hết sức khéo léo trong việc sử
dụng cử chỉ, nét mặt để trẻ không bị phân tán bới các yếu tố bên ngoài tác
phẩm.
Ngoài yếu tố ngôn ngữ tôi còn chú ý tới trang phục của mình và cố gắng
tạo môi trường giàu chất thẩm mĩ gắn với tác phẩm.
Do tính nhịp điệu mà thơ gần gũi với âm nhạc. Có những bài thơ đã được
phổ nhạc thành bài hát như: “Hoa kết trái”, “Đèn xanh đèn đỏ”,...Sau khi cho trẻ
làm quen tác phẩm thơ tôi cho trẻ nghe các bài đã được phổ nhạc trẻ rất hứng
khởi.Với một số bài thơ tôi có thể ngâm trên nền nhạc. Việc kết hợp với âm nhạc
để ngâm thơ sẽ làm tăng sức hấp dẫn của những câu thơ, dễ đi vào lòng con trẻ.
3) Biện pháp 3: Rèn cho trẻ kĩ năng đọc thơ diễn cảm, kĩ năng sử

dụng yếu tố phi ngôn ngữ trong hoạt động làm quen với tác phẩm thơ
Nâng cao kĩ năng đọc thơ diễn cảm, kĩ năng sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ
sẽ giúp trẻ cảm thụ tác phẩm thơ một cách có hiệu quả.
Rèn kĩ năng đọc thơ diễn cảm là phát triển ở trẻ khả năng biểu hiện tác phẩm
phù hợp với khả năng của mình. Việc đọc của cô giáo cần phải tạo ra cho trẻ sự yêu
thích tác phẩm.Trước khi cho trẻ làm quen tác phẩm tôi sử dụng thủ thuật như tạo
tình huống hay thu hút sự chú ý của trẻ bằng một điều bí mật sau đó cho trẻ giải
quyết tình huống, khám phá điều bí mật( tình huống, sự vật cần khám phá hướng
vào nội dung đề tài), dẫn dắt trẻ tới tác phẩm. Sau đó tôi đọc bài thơ thật diễn cảm,
kết hợp tư thế, nét mặt , ánh mắt, cử chỉ , hành động gợi cảm xúc thẩm mĩ, hướng
trẻ vào ghi nhớ, học thuộc lòng và mong muốn được thể hiện tác phẩm . Tiếp theo
tôi hướng dẫn trẻ cách đọc thuộc lòng diễn cảm. Tôi chú ý sửa sai cho trẻ. Những
câu trẻ đọc sai tôi đọc lại, yêu cầu trẻ thể hiện lại cho đúng hơn. Thường trẻ hay
đọc đều đều, đôi khi còn thở hởn hển. Tôi hướng dẫn trẻ đọc đúng về nhịp điệu,


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
ngữ điệu, ngắt nghỉ, lấy hơi đúng chỗ. Đặc biệt với những bài có lời đối thoại
hướng dẫn trẻ đọc đúng giọng điệu của từng nhân vật.
Ví dụ: Bài thơ “Hoa mào gà” của Thanh Hào
“Một hôm chú gà trống
Lang thang trong vườn hoa
Đến bên hoa mào gà
Ngơ ngác nhìn không chớp
Bỗng gà kêu hoảng hốt:
- Lạ thật các bạn ơi!
Ai lấy mào của tôi
Cắm lên cây thế này?”
Bốn câu thơ đầu đọc với giọng chậm, nhẹ nhàng. Câu tiếp theo đọc ngưng
giọng ở từ “ bỗng” thể hiện sự bất ngờ xảy ra với gà trống. Ba câu thơ cuối đọc

với giọng cao hơn thể hiện sự thắc mắc mang tính hờn trách của gà.
Khi trẻ đã thuộc, đã cảm và hiểu được phần nào chất thơ trong tác phẩm
tôi tổ chức cho trẻ “học mà chơi, chơi mà học”. Tôi tổ chức cho trẻ thi đua đọc
thơ theo nhóm theo tổ. Khi được thi đua trẻ sẽ cố gắng phát huy khả năng vì trẻ
nhỏ lúc nào cũng muốn mình là người thắng cuộc, người được khen là giỏi nhất.
Những lời động viên, khen ngợi, khích lệ là cần thiết, điều đó giúp trẻ tự tin,
phấn khởi để đọc hay hơn. Ngoài ra tôi chú ý đến cá nhân trẻ. Từng cá nhân
được đọc thì giọng đọc cần thiết của trẻ qua đọc sẽ được rèn luyện và kiểm tra
cụ thể. Trong các hoạt động khác trong ngày tôi cố gắng nắm vững khả năng đọc
của từng trẻ, từ đó có tác động phù hợp . Với những trẻ khả năng đọc diễn cảm
còn kém tôi luyện cho trẻ đọc đúng, đọc hay bằng giọng điệu.Với những trẻ đã
đọc diễn cảm tôi dạy trẻ cách thể hiện bài thơ kết hợp ngữ điệu, giọng điệu kết
hợp các yếu tố cử chỉ, hành động phù hợp.
Với những bài thơ có cốt truyện, có nhân vật hay còn gọi là truyện thơ tôi
cho mỗi trẻ nhận một vai và đọc diễn cảm những câu thơ ứng với nhân vật mà
mình nhận.
Ví dụ: Bài thơ “Tình bạn” có trẻ dẫn truyện, nhân vật Gấu, Mèo, Hươu,
Nai. Trẻ dẫn truyện sẽ đọc:
“Hôm nay tới lớp
Thấy vắng thỏ nâu
Các bạn hỏi nhau”
Tiếp theo tất cả các nhân vật đều đọc: “Thỏ đi đâu thế?” thể hiện giọng
đối với câu hỏi, từ “thế” cuối câu đọc giọng cao hơn.Trẻ nhận vai dẫn truyện đọc
tiếp:
“ Gấu liền nói khẽ”
Trẻ nhận vai Gấu sẽ đọc:
“ Thỏ bị ốm rồi
Này các bạn ơi
Đi thăm thỏ nhé!
Gấu tôi mua khế

Khế ngọt lại thanh”


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Trẻ nhận vai Mèo đọc tiếp:
“Mèo tôi mua chanh
Đánh đường mát ngọt”
Hai trẻ nhận vai Hươu và Nai lần lượt đọc:
“ Hươu mua sữa bột
Nai sữa đậu nành”
Những câu sau tất cả trẻ cùng đọc:
“ Chúc bạn khỏe nhanh
Cùng nhau tới lớp
Học tập thật tốt
Xứng đáng cháu ngoan
Trò giỏi kết đoàn
Ấm tình bè bạn”
Hình thức này đòi hỏi trẻ biết phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa các nhân vật
giúp trẻ thể hiện rõ được giọng điệu từng nhân vật, và điều quan trọng là trẻ cảm
thấy vui và thích thú như chính mình đang được đứng trên sân khấu.
Việc đọc diễn cảm cần được luyện tập thường xuyên nên ngoài thời gian
tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ tôi thường dành một khoảng thời gian
nhất định trong hoạt động chiều để luyện đọc diễm cảm cho trẻ.
Để trẻ có thể sử dụng các cử chỉ, điệu bô, tư thế, nét mặt trong khi đọc thơ
thì cô giáo phải là người thể hiện tác phẩm một cách nghệ thuật. Nghĩa là ngoài
giọng đọc truyền cảm cô giáo phải kết hợp các cử chỉ sao cho phù hợp, gây được
ấn tượng đối với trẻ trong việc cảm nhận ngôn từ. Những cử chỉ, điệu bộ cần
phù hợp với từng câu thơ, đoạn thơ, bài thơ, phù hợp với khả năng của trẻ.Sau
khi trẻ được nghe, được nhìn cách thể hiện của cô giáo tôi cho trẻ đọc thơ diễn
cảm cùng cử chỉ, điệu bộ.Với những cử chỉ mà nhiều trẻ chưa làm được tôi có

thể giải thích và hướng dẫn cho trẻ cách thể hiện..
Ví dụ: Khi dạy trẻ đọc diễn cảm cùng cử chỉ, điệu bộ với bài thơ: “Chim
Chích bông”. Sáu câu thơ đầu đọc chậm, giọng hồn nhiên. Đoạn sau là đối thoại,
tôi dạy trẻ đọc với ngữ điệu cao hơn và giơ tay lên vẫy khi đọc đoạn:
“Em vẫy gọi
Chích bông ơi
Chim xuống nhé
Có thích không?”
Đoạn tiếp theo:
“ Chú chích bông
Liền xà xuống
Và luôn mồm
Thích! Thích! Thích!”
Khi đọc đến câu: “Liền xà xuống” đưa hai tay giang ngang hai bên rồi
vuốt nhẹ tay xuống đồng thời nhún chân thể hiện hành động xà xuống của chim.
Và có thể cúi xuống gật gật đầu, nét mặt tươi vui khi đọc câu cuối.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Sau khi trẻ đã phần nào hiểu được cách thể hiện cử chỉ, điệu bộ tôi tổ
chức cho các tổ, các nhóm thi đọc thơ hay và thể hiện các cử chỉ, điệu bộ theo
nội dung bài thơ. Thi đua là động lực lôi cuốn, thúc đẩy trẻ cố gắng nỗ lực. Tôi
đặc biệt chú ý đến việc khuyến khích trẻ thể hiện theo sự sáng tạo của mình.

Hình ảnh 5: Giáo viên Nguyễn Thị Bích Đào đang hướng dẫn trẻ cách
thể hiện cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt khi đọc thơ diễn cảm
4) Biện pháp 4: Tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ theo
hướng tích hợp.
Tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ theo hướng tích hợp sẽ tạo
điều kiện cho trẻ rèn luyện, vận dụng những hiểu biết mới vào các hoàn cảnh,

tình huống mới góp phần hình thành kĩ năng, thói quen cũng như hình thành cho
trẻ kĩ năng thích ứng nhanh với môi trường, phát huy được tính độc lập, chủ
động, sáng tạo của trẻ. Vì vậy tôi cố gắng lựa chọn các hình thức đa dạng nhằm
đạt được kết quả cao trong quá trình cho trẻ làm quen tác phẩm.
Ví dụ: Sau khi trẻ được làm quen với bài thơ “Làm bác sĩ” tôi cho trẻ
củng cố bài thơ qua trò chơi “Bé tập làm bác sĩ”. Tôi cho trẻ nhận vai theo ý
thích, hai hoặc ba trẻ vào vai bác sĩ, số trẻ còn lại đóng vai bệnh nhân hay người
nhà đưa bệnh nhân đi khám bệnh. Qua chơi trẻ làm quen với xã hội của người
lớn, học cách ứng xử giao tiếp của người lớn. Mặt khác trẻ dần dần nắm được
một số kĩ năng đơn giản như: Nếu là bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân cần phải
đặt ra những câu hỏi như thế nào, cách khám bệnh ra sao,...Được trải nghiệm trẻ
rất húng thú và khắc sâu hơn nội dung tác phẩm.Cũng từ đó trẻ có tình cảm với
nghề bác sĩ, thêm kính trọng những người làm nghề bác sĩ, làm nhen nhóm nảy
sinh ở trẻ những ước mơ thầm kín.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Hình ảnh Các bác sĩ “tí hon” sau khi làm quen với bài thơ “Làm bác sĩ”
Cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ không chỉ diễn ra trong hoạt động làm
quen tác phẩm văn học mà còn được diễn ra mọi lúc, mọi nơi.
Trong giờ đón, trả trẻ tôi trò chuyện với trẻ, cho trẻ nghe băng thơ đồng
thời ôn lại các bài thơ đã học để sửa ngọng, sửa nói lắp, rèn luyện và phát triển
tai nghe cho trẻ.
Thơ còn được sử dụng là một hình thức chuyển tiếp trong các hoạt động
khác
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình “Vẽ trăng” sau khi trẻ đưa ra ý tưởng vẽ
tôi cho trẻ đọc bài thơ “Trăng sáng” hay bài “Trăng ơi từ đâu đến” chuyển đội
hình và về chỗ vẽ. Đọc thơ như vậy giúp trẻ phần nào tái hiện được hình ảnh
trăng trong tác phẩm,tạo cảm xúc để thể hiện các nét vẽ một cách sáng tạo.

Trong hoạt động góc: bán hàng ở chủ đề thực vật, tôi cho trẻ vừa bày các
loại quả ra quầy hàng vừa đọc bài thơ “Vè trái cây”. Hay khi trẻ chơi vận động
tôi cho trẻ đọc thơ diễn cảm và cầm tay nhau nhún theo nhịp bài thơ “Dung
dăng dung dẻ”. Vừa học vừa chơi trẻ rất vui và hứng thú.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Hình ảnh Giáo viên dạy trẻ đọc thơ diễn cảm khi chơi vận động
Sau giờ ngủ trưa, tôi sử dụng một số bài thơ mang âm hưởng đồng dao
như: “Dung dăng dung dẻ”,.....để cho trẻ đọc và vận động nhẹ nhàng . Âm
hưởng mang chất đồng dao sẽ đánh thức trẻ dậy, làm trẻ năng nổ, hoạt bát, vui
vẻ.
Hay những trò chơi nho nhỏ như đọc thơ theo tranh vẽ để kích thích trẻ tái
tạo lại những gì trẻ đã ghi nhớ và từ đó khắc sâu lại kiến thức cho trẻ
Ví dụ: Tôi chuẩn bị những bức tranh vẽ trăng, vẽ hoa, vẽ đàn gà con
...yêu cầu trẻ phải đọc được những bài thơ phù hợp với từng tranh.
Các ngày lễ, ngày hội góp phần không nhỏ trong việc giáo dục làm giàu
tâm hồn trẻ thơ với những tình cảm đẹp đẽ, yêu thương. Trong dịp này tôi
thường tổ chức cho trẻ đọc thơ diễn cảm.
Ví dụ: Ngày 20/10, 20/11, 8/3 tôi khuyến khích trẻ đọc các bài thơ tặng
bà tặng mẹ và cô giáo như bài: “Bó hoa tặng cô”, “Con yêu mẹ”, “Bàn Tay cô
giáo”...
Bầu không khí vui tươi của ngày lễ hội cùng với việc trang trí đẹp, lộng
lẫy và thể hiện bài thơ bằng chính cảm xúc của mình sẽ giúp trẻ cảm nhận sâu
sắc hơn nội dung tư tưởng của tác phẩm.
5) Biện pháp 5: Tuyên truyền, phổ biến kiến thức và phối hợp với
phụ huynh để nâng cao nghệ thuật đọc thơ cho trẻ
Sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường là điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học trong hội nghị

họp phụ huynh tôi đã tuyên truyền tới phụ huynh tầm quan trọng của thơ ca đến
sự phát triển về nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giới
thiệu cho phụ huynh một số tài liệu giúp trẻ phát triển các kĩ năng đọc thơ diễn
cảm, kĩ năng cảm thụ tác phẩm.


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Hình ảnh : Giáo viên trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trẻ
Trong giờ đón trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh về việc giúp trẻ đọc
thơ diến cảm, củng cố nội dung bài, đặc biệt coi trọng việc chuẩn bị ở nhà cho
các bé . Sau mỗi giờ làm quen với thơ ở trên lớp tôi dặn dò trẻ về đọc lại bài thơ
cho bố mẹ nghe, trao đổi với phụ huynh giành thời gian nghe trẻ đọc, sửa ngọng,
sửa nói lắp, giúp trẻ có cách diễn đạt câu rõ ràng, mạch lạc. Việc chuẩn bị đọc
diễn cảm ở nhà có tác dụng vô cùng thuận lợi đối với những trẻ hay e thẹn,
ngượng ngùng, nhút nhát. Ngoài ra tôi nhờ phụ huynh giúp trẻ làm một số bài
tập nhỏ ở nhà: Yêu cầu trẻ đọc diễn cảm bài thơ mới được làm quen, với những
bài thơ trẻ đã đọc thuộc, đọc diễn cảm và hiểu được nội dung các bậc phụ huynh
sẽ cho trẻ vẽ tranh theo sự ghi nhớ tác phẩm và theo trí tưởng tượng phong phú,
sáng tạo của trẻ. Những bài thơ dài, khó tôi phô tô và gửi phụ huynh mang về
đọc và dạy trẻ những lúc rảnh dỗi. Những bài thơ có phổ nhạc thành bài hát tôi
cũng phô tô để phụ huynh có thể học hát cùng con.
Ngoài ra tôi huy động phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu như: tranh
ảnh, họa báo, vỏ hộp, .. để cô và trẻ cùng làm các đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
các hoạt động học tập và vui chơi.
Nhân dịp những ngày lễ hội như ngày 20/11, ngày 22/12, ngày 8/3,.. tôi
mời phụ huynh đến tham quan và tham dự các hoạt động đọc thơ diễn cảm của
trẻ. Thưởng thức những tiết mục do các “nghệ sĩ tí hon” thể hiện trên sân khấu,
các bậc phụ huynh thêm tin tưởng, yên tâm về sự chăm sóc, giáo dục của các cô
giáo dưới mái trường Thanh Cao.

Qua quá trình tuyên truyền phụ huynh lớp tôi đã có nhận thức rất cao tới
việc phối hợp cùng cô giáo rèn luyện chăm sóc, giáo dục cho các cháu đặc biệt
là việc dạy trẻ đọc thơ diễn cảm.
V- KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH ĐỐI CHỨNG


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
1. Kết quả: Qua thực hiện một số biện pháp trên tôi đã thu được kết quả
như sau:
* Về bản thân:
- Bản thân tôi có được những kiến thức kinh nghiệm rèn trẻ các kĩ năng
đọc thơ diễn cảm, kĩ năng sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ, nâng cao được nghệ
thuật giảng dạy, các hình thức sử dụng trong hoạt động đa dạng, phong phú thu
hút được trẻ.
- Nhận được sự tin tưởng của đông đảo phụ huynh và chị em đồng nghiệp
* Đối với phụ huynh:
- Nhận thức sâu sắc được việc phối kết hợp cùng cô giáo trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ.
- Có trách nhiệm cao trong việc rèn các kĩ năng đọc thơ diễn cảm, kĩ năng
cảm thụ văn học.
- Ủng hộ nhiều nguyên vật liệu: tranh ảnh, họa báo, giấy một mặt, vỏ hộp,

* Đối với trẻ:
- Trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động.
- Trẻ tham hoạt động tự nhiên, thoải mái và rất sáng tạo.
- Trẻ đọc thơ diễn cảm, mở rộng vốn từ, sử dụng câu rõ ràng mạch lạc,
bước đầu đã biết sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật.
- Trẻ tiếp thu bài nhanh, nhớ lâu.
- Trẻ giao tiếp mạnh dạn tự tin.
- Có ý thức học tập cao

* Kết quả có so sánh đối chứng: 45 trẻ

ST
T

Nội dung
Khả năng chú ý,
tích cực tham gia
hoạt động
Thuộc tác phẩm
Đọc thơ diễn cảm
Khả năng phát âm
chuẩn

Mức độ đạt được
Đầu năm
Cuối năm
Tăng
Số
Số
Số
Lượng Tỷ lệ Lượng Tỷ lệ Lượng Tỉ lệ
25

56%

45

100%


20

44%

31

69%

42

93%

11

24%

20

44%

42

93%

22

49%

24


53%

43

95%

19

42%

41

91%

20

44%

Khả năng phát âm
câu rõ ràng, mạch
21
47%
lạc
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Cho trẻ làm quen với văn học thể loại thơ là một hoạt động quen thuộc ở
trường mầm non. Nó góp phần quan trọng trong việc phát triển toàn diện nhân

cách trẻ. Tôi nghĩ rằng nếu như tất cả chúng ta- những nhà giáo dục và các bậc
phụ huynh đều quan tâm, cố gắng tạo cho trẻ môi trường học tập, vui chơi tích
cực, lành mạnh và sáng tạo thì kết quả mà trẻ lĩnh hội được thông qua các hoạt
động giáo dục trong đó có việc cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ sẽ đạt kết quả
cao.
2. Bài học kinh nghiệm:
- Bản thân luôn yêu nghề, tự học hỏi, trau dồi kiến thức.
- Thường xuyên luyện tập để có giọng đọc truyền cảm.
- Hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý trẻ, nắm bắt được đặc điểm cá nhân
của trẻ.
- Động viên, khuyến khích trẻ kịp thời, kiên trì trong quá trình rèn kĩ
năng cho trẻ.
- Tích cực cho trẻ được trải nghiệm.
- Mạnh dạn áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đạt hiệu quả.
- Giáo dục trẻ phải có hệ thống, đồng nhất giữa nhà trường và gia đình.
3. Những kiến nghị sau khi thực hiện đề tài:
Đề nghị Ban giám hiệu mở thêm các chuyên đề văn học đặc biệt là mở
lớp bồi dưỡng cho giáo viên cách ngâm thơ để tôi được học hỏi và nâng cao
trình độ chuyên môn.
Trên đây là một số biện pháp nhằm giúp trẻ học tốt hoạt động cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học.Tôi rất mong được sự ủng hộ và đóng góp ý kiến của
đồng nghiệp và của các cấp lãnh đạo.
Thanh Cao, ngày 15 tháng 4

năm 2016

Nguyễn Thị Kim Phụng

VII. Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA CÁC CẤP



§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
1. Ý kiến nhận xét, đánh giá, xếp loại của hội đồng khoa học cơ sở
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
Chủ
tịch hội đồng
(Ký tên, đóng dấu)

2. Ý kiến nhận xét, đánhgiá, xếp loại của hội đồng khoa học ngành giáo dục
huyện Thanh Oai
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................
........
.................................................................................................................................

........
Chủ tịch
hội đồng
(Ký tên, đóng dấu)


§Ò tµi s¸ng kiÕn kinh nghiÖm

VIII.TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
1

TÊN TÀI LIỆU
Phương pháp phát triển lời
nói trẻ em

2

Giáo dục học mầm non

3

Phương pháp cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học

4
5

NHÀ XUẤT BẢN
Đại học sư phạm Hà Nội

Đại học sư phạm
Đại học sư phạm Hà Nội

Tâm lí học mầm non
Đại học sư phạm Hà Nội
Phương pháp tổ chức hoạt Nhà xuất bản giáo dục
động làm quen với văn học

GHI CHÚ



×