Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị methadone ở thành phố lào cai – tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 105 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƢU XUÂN LƠ

CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY
TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE Ở THÀNH PHỐ
LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 8.76.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS. TIÊU THỊ MINH HƢƠNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất kỳ chương trình nghiên cứu nào trước
đây. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả

Lƣu Xuân Lơ



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ
TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ
METHADONE ................................................................................................. 12
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài.............................................................. 12
1.2. Lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy ........................... 23
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy tại các Cơ sở điều trị Methadone .................................................................. 28
1.4. Một số lý thuyết ứng dụng trong đề tài ........................................................ 34
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ CAI
NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE Ở
THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI ................................................... 38
2.1. Đặc điểm địa bàn và khách thể nghiên cứu .................................................. 38
2.2. Thực trạng hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các Cơ sở điều trị Methadone ở Tp Lào Cai, tỉnh Lào Cai .................................. 44
2.3. Thực trạng một số yếu tố ảnh hưởng đến Công tác xã hội trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở Tp Lào Cai ........................... 56
Chƣơng 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CTXH
TRONG HỖ TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ
METHADONE ................................................................................................. 70
3.1. Nhóm giải pháp về cải thiện hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy ..................................................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện Công
tác xã hội. ........................................................................................................... 75
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 78


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


CNMT

Cai nghiện ma túy

CSĐT

Cơ sở điều trị

CTXH

Công tác xã hội

NNMT

Sử dụng ma túy

NVCTXH

Nhân viên Công tác xã hội

Từ viết tắt

Dịch nghĩa

TVV

Tham vấn viên

UBND


Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Thời gian thành lập các Cơ sở điều trị Methadone trên địa bàn tỉnh
Lào Cai......................................................................................................... 39
Bảng 2.2: Đặc điểm khách thể trong nghiên cứu (ĐVT: %).......................... 40
Bảng 2.3. Bảng tình hình điều trị của NNMT (n=196) ................................. 43
Bảng 2.4. Lý do bỏ trị của NNMT giai đoạn 2013 - 2016 ............................. 53
Bảng 2.5. So sánh kết quả hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các CSĐT Methadone .................................................................................. 55
Bảng 2.6.

Đặc điểm nhân viên công tác xã hội tại các cơ sở điều tri

methadone .................................................................................................... 61
Biểu đồ 2.7. Mức độ hài lòng của NNMT về dịch vụ ................................... 62
Biểu đồ 2.1: Thời gian điều trị tham gia điều trị Methadone. ........................ 42
Biểu đồ 2.2: Lũy tích số lượt tham vấn ......................................................... 45
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ sử dụng Heroin của NNMT trong 30 ngày qua ................ 46
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ NNMT bỏ điều trị theo từng năm .................................... 54
Biểu đồ 2.5: Động cơ NNMT tham gia điều trị Methadone .......................... 57
Biểu đồ 2.6. Tình trạng việc làm của NNMT trước và sau khi tham gia điều trị
Methadone ................................................................................................... 58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Hơn 20 năm qua, công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma

túy đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo chỉ đạo, bố trí nguồn lực…
Tuy nhiên, công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy đang gặp
nhiều khó khăn, thách thức… Số người nghiện có hồ sơ quản lý tăng gần 4
lần trong 20 năm qua, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, giống nòi dân tộc và trật tự
an toàn xã hội" đó là những câu nhận định mở đầu cho Nghị Quyết số 98/NQCP của Chính Phủ ngày 26 tháng 12 năm 2014 về tăng cường chỉ đạo công
tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Thực
vậy, nghiện ma túy đã và đang là một gánh nặng về kinh tế và tinh thần rất
lớn cho xã hội, nhất là đối với chính bản thân người nghiện và gia đình họ nếu
tình trạng nghiện kéo dài. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua, nhiều đường
dây mua bán ma túy lớn, với số lượng hàng tấn ma túy bị phát hiện; nhiều vụ
việc nghiệm trọng, gây thiệt hại lớn về người và của do người sử dụng ma túy
gây ra như giết người hàng loạt, lái xe sử dụng ma túy gây tai nạn chết nhiều
người, học viên trại cai nghiện phá trại tập thể…
Trong bối cảnh đó, Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy đã được
phê duyệt tại Quyết định số 2596/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 27
tháng 12 năm 2013 có đề ra phương hướng cho công tác cai nghiện ma túy tới
năm 2020 là "cai nghiện đa chức năng, thân thiện và dễ tiếp cận cho người sử
dụng ma túy". Do vậy, ở nước ta hiện nay không chỉ có hình thức cai nghiện
bắt buộc tại các trung tâm, cơ sở cai nghiện của nhà nước như trước đây, mà
đã xuất hiện các hình thức cai nghiện khác như cai nghiện tự nguyện tại các
cơ sở cai nghiện tư nhân, hình thức cai nghiện bằng liệu pháp tâm lý tình cảm
tại Viện nghiên cứu tâm lý người sử dụng ma túy và phương pháp điều trị
nghiện bằng thuốc thay thế (Methadone) là một phương pháp nổi bật, trải qua
10 năm kể từ khi triển khai năm 2008 đến nay đã điều trị cho hơn 54 nghìn
người và được đánh giá là thân thiện, tiết kiệm chi phí với hiệu quả đem lại
khả quan.
1


Tại Lào Cai, phương pháp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế

(Methadone) đã được tỉnh ủy, hội đồng nhân nhân, ủy ban nhân dân quan tâm
chỉ đạo thực hiện từ năm 2013. Từ 1 cơ sở điều trị ban đầu, đến nay đã có 15
cơ sở điều trị và điểm cấp phát thuốc phân bố đều tại thành phố và các huyện
trong tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho NNMT có nhu cầu dễ dàng tham gia
điều trị.
Công tác xã hội tuy là một ngành, nghề rất mới và còn non trẻ ở nước ta
hiện nay. Nhưng đối tượng trợ giúp của công tác xã hội là những người yếu
thế trong xã hội, trong đó có người nghiện ma túy. Từ khi triển khai, các
CSĐT Methadone ở Lào Cai luôn chú trọng phát triển đội ngũ nhân viên
Công tác xã hội, mỗi CSĐT luôn có ít nhất 1 nhân viên Công tác xã hội làm
nhiệm vụ tham vấn tâm lý, hỗ trợ NNMT trong quá trình điều trị, giúp họ
phục hồi, dự phòng tái nghiện và tiếp cận các dịch vụ y tế, xã hội khác.
Trên thế giới và tại Việt Nam đã có một vài nghiên cứu về hiệu quả của
chương trình điều trị Methadone, sự thay đổi của NNMT sau khi tham gia
điều trị Methadone… để làm căn cứ tiếp tục phát triển, mở rộng chương trình
điều trị Methadone nhưng các nghiên cứu vẫn chưa làm rõ được vai trò của
nhân viên CTXH tại các CSĐT Methadone và hiệu quả các hoạt động CTXH
tại đây. Chính vì lý do trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Công
tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị Methadone ở
thành phố Lào Cai – tỉnh Lào Cai”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, sau khi đề án phát triển nghề CTXH theo quyết định số
32/2010/QĐ-TTg có hiệu lực, CTXH ngày càng được khuyến khích tham gia
nhiều hơn vào các khía cạnh xã hội như việc chăm sóc và điều trị cho những
người sử dụng ma túy. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn có rất ít thông tin về
hiệu quả của các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và CTXH
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone thì lại càng ít cả trên
thế giới cũng như Việt Nam.

2



2.1. Trên thế giới
Trong nghiên cứu “Kiến thức và nhận thức của nhân viên công tác xã hội
về hiệu quả và khả năng chấp nhận điều trị hỗ trợ bằng thuốc trong điều trị rối
loạn sử dụng chất” [16] của tiến sĩ Brian E.Bride và các cộng sự đã điều tra
kiến thức của nhân viên xã hội, nhận thức của họ về hiệu quả và khả năng
chấp nhận điều trị hỗ trợ bằng thuốc (gọi tắt là MAT) trong các trung tâm
điều trị rối loạn sử dụng chất gây nghiện dựa vào cộng động tại Mỹ (gọi tắt là
SUD). Theo nghiên cứu, điều trị duy trì bằng Methadone là một trong những
lựa chọn điều trị được sử dụng thường xuyên nhất cho sự lệ thuộc thuốc phiện
do chi phí thấp và hiệu quả đã được chứng minh trong việc giảm sử dụng ma
túy, các hành vi tội phạm, tỷ lệ nhiễm HIV và phục hồi chức năng nên đa
phần các nhân viên CTXH nắm được các kiến thức về hiệu quả của
Methadone, trong khi tỷ lệ này với naltrexone và buprenorphin. Nghiên cứu
cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của việc tiếp xúc với MAT của nhân viên xã
hội để họ có khả năng phát triển một nền tảng kiến thức liên quan đến hiệu
quả của thuốc hỗ trợ, nghiên cứu nhấn mạnh nhận thức của nhân viên xã hội
sẽ ảnh hưởng tới việc chấp nhận điều trị hỗ trợ thuốc của những người nghiện
ma túy tại các SUD. Tuy nhiên, nghiên cứu này tác giả chưa đưa ra các kết
quả các hoạt động của nhân viên xã hội tại các SUD trong việc tham vấn cho
người nghiện ma túy chấp nhận điều trị bằng thuốc hỗ trợ.
Trong nghiên cứu “Kết quả thực hành điều trị Methadone cho người
nghiện thuốc phiện được điều trị tại các phòng khám ma túy trong thực tế nói
chung: kết quả từ Nghiên cứu Kết quả Điều trị Quốc gia” [20] của M Gossop,
J Marsden, D Stewart, P Lehmann và J Strang đã trình bày kết quả điều trị sáu
tháng cho những NNMT được điều trị bằng Methadone tại cộng đồng trong
phòng khám chuyên khoa hoặc phòng khám đa khoa tại Vương quốc Anh.
Kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra những cải thiện của người điều trị trong các
vấn đề liên quan đến thuốc, sức khỏe và chức năng xã hội. Kết quả này đã

chứng minh tính khả thi của việc điều trị người nghiện chất dạng thuốc phiện
bằng methadone trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu và cho thấy kết
3


quả điều trị cho những NNMT này có thể hiệu quả như đối với NNMT tại các
phòng khám chuyên khoa. Nghiên cứu này cũng chưa chỉ ra được tác động
của các bác sĩ gia đình (nhân viên xã hội) đối với người sử dụng ma túy có
vấn đề.
Trong nghiên cứu “Nhân viên xã hội và phương pháp điều trị tâm lý dựa
trên bằng chứng cho người rối loạn sử dụng chất” [17] do tiến sỹ
ELIZABETH A. WELLS và cộng sự tiến hành, kết quả của nghiên cứu cung
cấp một cái nhìn tổng quan về phương pháp điều trị cho người bị rối loạn sử
dụng chất (cách gọi khác của người nghiện ma túy) bằng phương pháp tâm lý
xã hội đã đạt hiệu quả. Nghiên cứu đã mô tả các phương pháp điều trị, đánh
giá việc hỗ trợ theo kinh nghiệm, tập hợp các phương pháp điều trị được biết
là có hiệu quả và các vấn đề gặp phải khi thực hiện.
Qua kết quả của các nghiên cứu, có thể thấy những người nghiện ma túy
hoặc người gặp các vấn đề rối loạn sử dụng chât đã trở thành “thân chủ” phổ
biến của các nhà CTXH trên thế giới và nhân viên xã hội sẽ đóng một vai trò
quan trọng trong tiến trình hỗ trợ cai nghiện ma túy.
2.2. Tại Việt Nam
Tại nước ta, ma túy cũng như cai nghiện ma túy rất được Đảng, Nhà
nước quan tâm chỉ đạo trong những năm qua, nên các công trình nghiên cứu
về vấn đề này đã có rất nhiều tác giả đề cập tới.
Tác giả Phan Thị Mai Hương, Trong nghiên cứu “Thanh niên nghiện ma
túy nhân cách và hoàn cảnh xã hội” [6] của đã đề cập đến cách tiếp cận mới
về từ góc độ của tâm lý học với nhóm thanh niện nghiện ma túy. Nghiên cứu
đã phân tích và hệ thống hóa những lý luận và đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh
xã hội và sự ảnh hưởng của chúng trong việc nghiên cứu hành vi của người

nghiện và quan điểm về việc giải quyết chính trong thực tiễn. Tác giả chỉ ra
rằng việc ngăn ngừa hành vi nghiện ma túy và quá trình cai nghiện ma túy ở
thanh niên cần phải kết hợp giữa tri thức và các biện pháp của tâm lý học.
Mặc dù nghiên cứu này nhấn mạnh đến vai trò của tâm lý học trong trợ giúp

4


thanh niên nghiện ma túy nhưng chưa được làm rõ vai trò của tham vấn tâm
lý đối với thanh niên.
Một trong những giáo trình dạy về CTXH với người nghiện ma túy là
“Giáo trình Tham vấn Điều trị nghiện ma túy” [8] của tác giả Bùi Thị Xuân
Mai và các cộng sự. Tài liệu như là cầm tay chỉ việc cho những nhà tham vấn,
với việc cung cấp gần như đầy đủ các kiến thức, kỹ năng cùng các ví dụ minh
họa, lời khuyên trong những tình huống thực tế gặp phải trong quá trình can
thiệp, trợ giúp người nghiện ma túy. Đối với từng nhóm nghiện ma túy khác
nhau sẽ có những cách tham vấn cụ thể, các vai trò của CTXH và các hoạt
động của nhân viên CTXH đều được giáo trình đề cập tới. Có thể nói đây là
một công trình nền tảng đối với nhân viên CTXH làm việc trong lĩnh vực hỗ
trợ cai nghiện ma túy. Trên cơ sở này, tác giả đã thực tiễn hóa vào đề tài
nghiên cứu của mình các hoạt động của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
tại các CSĐT Methadone.
Trong nghiên cứu “Các yếu tố liên quan đến NNMT ra khỏi chương
trình điều trị nghiện bằng Methadone tại Tp Hồ Chí Minh, 2015 – 2017”[1]
của tác giả Đỗ Văn Dũng và cộng sự đã xác định được tỷ lệ người bỏ trị
Methadone tại các CSĐT Methadone trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
đồng thời tìm hiểu một số nguyên nhân NNMT bỏ trị và xác định các yếu tố
liên quan đến việc ra khỏi chương trình. Trong đó có nguyên nhân NNMT
thiếu hiểu biết về chương trình điều trị, thiếu sự tham vấn trong quá trình điều
trị chiếm tỷ lệ khá cao. Qua nghiên cứu có thể thấy rằng, việc tham vấn cho

NNMT điều trị Methadone là rất quan trọng, vai trò của nhân viên CTXH là
rất quan trọng.
Thời gian gần đây, tại những trường đào tạo chuyên ngành Công tác xã
hội cũng có một số nghiên cứu về người nghiện ma túy và điều trị nghiện
bằng thuốc Methadone trong đó tiêu biểu có một số nghiên cứu sau:
Tác giả Đỗ Thanh Huyền với nghiên cứu: “Hoạt động hỗ trợ xã hội cho
người sau cai nghiện ma túy tại Thành phố Hòa Bình – Tỉnh Hòa Bình” [5] đã
đánh giá thực trạng công tác hỗ trợ cho người sau cai nghiện ma túy trong các
5


lĩnh vực: Hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng, hỗ trợ phòng, chống tái nghiện, hỗ
trợ học nghề, hỗ trợ có việc làm và tạo việc làm và một số yếu tố ảnh hưởng
đến công tác hỗ trợ cùng với vai trò của nhân viên CTXH. Luận văn này cũng
đã đề cập đến một số nội dung liên quan đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy nhưng còn chưa tập trung và chưa đi sâu phân tích chi tiết trong quá
trình trợ giúp, chưa có kết quả các hoạt động của nhân viên CTXH trong trợ
giúp người nghiện ma túy sau cai.
Tác giả Tạ Hồng Vân trong nghiên cứu “Hoạt động công tác xã hội trong
hỗ trợ điều trị nghiện cho người nghiện ma túy tại cộng đồng (Nghiên cứu
trường hợp tại Cơ sở điều trị Methadone thuộc Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS thành phố Nam Định)”[12] đã chỉ ra nhân viên xã hội có vai trò
đặc biệt quan trọng trong quá trình trợ giúp người nghiện ma túy của thành
phố Nam Định tham gia điều trị, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng đồng.
Nghiên cứu cũng nêu ra một số hoạt động của CTXH tuy nhiên lại tập trung
quá nhiều vào hoạt động tham vấn/tham vấn mà lướt qua những hoạt động
khác của CTXH trong quá trình hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT
Methadone.
Tác giả Nguyễn Thị Hằng với nghiên cứu “Vai trò của nhân viên công
tác xã hội trong việc trợ giúp người nghiện ma túy tham gia chương trình

Methadone (Nghiên cứu tại cơ sở điều trị methadone quận Nam Từ Liêm)”
[7]đã chỉ ra một số vai trò của nhân viên CTXH trong quá trình trợ giúp người
nghiện đang tham gia chương trình điều trị nghiện thay thế bằng thuốc
Methadone, cùng với phân tích các hoạt động hỗ trợ người nghiện ma túy
đang tham gia chương trình Methadone tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Tuy
nhiên, những đánh giá của nghiên cứu vẫn mang tính chủ quan của tác giả khi
nghiên cứu người nghiện ở vùng đô thị.
Qua quá trình tổng quan tài liệu cho thấy, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về chủ đề CTXH đối với người nghiện ma túy ở trên thế giới và Việt
Nam, những năm gần đây người nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone đã
dần được quan tâm hơn. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu tập trung về đánh
6


giá chương trình điều trị Methadone, đánh giá về tuân thủ điều trị trong
chương trình Methadone, hoặc sự cải thiện của người nghiện sau khi tham gia
điều trị Methadone; còn rất ít nghiên cứu đánh giá CTXH trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị Methadone. Chính vì vậy, nghiên cứu này
thực hiện nhằm tìm hiểu sâu hơn về lý luận cũng như đưa ra kết quả hoạt
động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT methadone ở TP
Lào Cai, tỉnh Lào Cai với đặc thù là tỉnh miền núi với nhiều cửa khẩu quốc tế
và người nghiện có một phần không nhỏ là người dân tộc thiểu số tham gia
điều trị Methadone, người nghiện di biên động lớn... Trên cơ sở đó, đánh giá
và khuyến nghị cải thiện hiệu quả CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các CSĐT Methadone thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đánh giá thực trạng CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các
Cơ sở điều trị Methadone và một số yếu tố ảnh hưởng. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao, cải thiện hoạt động Công tác xã hội trong hỗ

trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone ở Tp Lào Cai – T. Lào Cai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác xã hội, ma túy, người nghiện
ma túy, phương pháp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế (Methadone) và
công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị
Methadone.
Đánh giá thực trạng hoạt động Công tác xã hội và một số yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ
sở điều trị Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả CTXH trong hỗ
trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone.

7


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị
Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- 196 người nghiện ma túy
- 05 thân nhân NNMT (cha, mẹ, vợ/chồng/bạn tình, anh/chị/em ruột…)
- 06 Cán bộ hỗ trợ trực tiếp (tham vấn viên; bác sĩ điều trị)
- 02 Cán bộ quản lý cơ sở điều trị
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tại CSĐT Methadone số 01
và CSĐT Methadone số 02 trực thuộc Sở Lao động – TBXH tỉnh ở thành phố
Lào Cai, tỉnh Lào Cai
- Phạm vi thời gian: 01/01/2019 – 30/06/2019
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung đánh giá thực trạng hoạt động

CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone và các yếu tố
ảnh hưởng, cụ thể: Hoạt động tham vấn tâm lý, hoạt động hỗ trợ vay vốn, việc
làm, hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, hoạt động kết nối dịch vụ,
nguồn lực, hoạt động biện hộ, vận động chính sách và đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTXH trong
hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ thực trạng CTXH trong
hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone và đánh giá một số yếu tố
ảnh hưởng tới CTXH trong hỗ trợ cai nghiện tại các CSĐT Methadone ở
thành phố Lào Cai, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã
hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone ở Tp Lào Cai.

8


Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống những
lý thuyết có liên quan trực tiếp tới đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như
công tác xã hội cá nhân, CTXH nhóm, phát triển cộng đồng, quản lý trường
hợp trong hỗ trợ cai nghiện ma túy; hệ thống chính sách xã hội đối với người
cai nghiện ma túy và NNMT điều trị bằng thuốc Methadone; Chủ trương đổi
mới công tác cai nghiện ma túy trong tình hình mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tôi chủ yểu yếu sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin từ các nguồn như: các
văn bản pháp luật, báo cáo, tạp chí, sách tham khảo, báo cáo khoa học… để

tổng hợp thông tin, phân tích tài liệu, tìm hiểu các số liệu liên quan đến công
tác cai nghiện ma túy, cũng như công tác xã hội với người cai nghiện ma túy
nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu, xác định được một số
khái niệm chính trong đề tài như: Ma túy, nghiện ma túy, người nghiện, người
cai nghiện ma túy, phương pháp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế
(Methadone), công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy…
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
Sử dụng phương pháp này để tiến hành tìm hiểu, thu thập các thông tin
cần thiết từ khách thể điều tra làm luận cứ khoa học cho sự đánh giá của đề
tài. Đề tài đã thực hiện điều tra bảng hỏi với 196 NNMT đang ở giai đoạn duy
trì liều trên 3 tháng, với mỗi phiếu khảo sát, sử dụng các câu hỏi đóng và câu
hỏi mở để khai thác thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, kết quả điều trị
Methadone, đánh giá về các hoạt động CTXH và một số yếu tố ảnh hưởng
đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy… trên cơ sở đó, đề tài đánh giá
thực trạng của Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và một số yếu
tố ảnh hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị
Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
9


Sử dụng phương pháp này tác giả phỏng vấn sâu 5 NNMT đang điều trị,
05 người nhà của NNMT để thu thập thông tin về sự tiến bộ trong điều trị của
NNMT, đánh giá hiệu quả, ý nghĩa, tầm quan trọng của CTXH trong hỗ trợ
cai nghiện ma túy; Phỏng vấn sâu 05 nhân viên Công tác xã hội về một số yếu
tố ảnh hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và những khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện; Phỏng vấn sâu 02 bác sỹ phụ trách y tế điều trị và 02 cán bộ lãnh đạo Cơ sở điều trị Methadone về đánh giá chất
lượng các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và một số yếu tố
ảnh hưởng.
- Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng các thuật toán để xử lý số liệu, kết quả khảo sát bằng thống kê
toán học; tóm tắt, tổng hợp dữ liệu và trình bày dữ liệu dưới dạng biểu bảng;
Phân tích dữ liệu, tính toán các tham số thống kê và diễn giải kết quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài khái quát hóa các lý luận về CTXH, ma túy,
nghiện ma túy, người nghiện ma túy, cai nghiện ma túy, điều trị nghiện bằng
thuốc thay thế (Methadone)… trên cơ sở đó khái niệm về Công tác xã hội
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài nghiên cứu là một trong số ít các nghiên cứu
về CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở
Tp Lào Cai. Hiện nay chủ trương đổi mới công tác cai nghiện đang được đẩy
mạnh thực hiện, đặc biệt là việc nâng cấp các CSĐT Methadone thành các
CSĐT đa chức năng theo quy hoạch mạng lưới cơ sở cai nghiện ma túy đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt tại Quyết định số
1640/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 18 tháng 8 năm 2016 thì việc
đánh giá, xem xét hiệu quả CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy là một việc
làm rất quan trọng và cần thiết để được nhận một vai trò xứng đáng trong
tương lai.

10


Ngoài ra, các kết quả của đề tài có thể là tài liệu tham khảo đối với người
làm công tác cai nghiện ma túy hoặc hỗ trợ người nghiện ma túy như gia đình
người SDMT, nhân viên các CSĐT nghiện ma túy.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, Danh mục từ
viêt tắt, các Phụ lục thì luận văn gồm có 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy tại các Cơ sở điều trị Methadone

Chương 2: Thực trạng Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các Cơ sở điều trị Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao Công tác xã hội
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone

11


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ
CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm ma túy
1.1.1.1.

Khái niệm

Ma túy được đông đảo người dân hiểu và nghĩ gắn liền với một số chất
gây nghiện nguy hiểm như: thuốc phiện, cần sa và đặc biệt là heroine. Tuy
nhiên, đây chỉ là cách hiểu chưa đầy đủ, đôi khi chúng ta cũng sử dụng ma túy
để gọi những chất gây nghiện hợp pháp khác như là: café, rượu, bia… Theo
Luật Phòng, Chống ma túy năm 2000, ma túy được định nghĩa như sau:
“Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành” [10]. Cụ thể hơn, trong Bộ luật Hình
sự có hiệu lực năm 2000 định nghĩa về ma túy như sau: “Ma tuý bao gồm
nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, lá, hoa, quả cây cần sa, quả thuốc
phiện khô, quả thuốc phiện tươi, heroine, cocaine, các chất ma tuý khác ở thể
lỏng hay thể rắn” [11].
Trên thế giới, ma túy được Liên hợp quốc định nghĩa là: "Ma túy là
chất hóa học có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể

con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người,
làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho
từng cá nhân và cộng đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sử
dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật và
chịu sự kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật" [12]. Theo Tổ chức Y Khoa
Thế Giới (WHO), ma túy là “chất hoa học sau khi được hấp thu sẽ làm thay
đổi chức năng thực thể và tâm lý của người sử dụng”.
Từ định nghĩa về ma túy của pháp luật Việt Nam và Liên hợp quốc ta có
thể hiểu về Ma túy là các chất khi được đưa vào cơ thể con người nó có tác
dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người sử dụng, nếu lạm
12


dụng ma túy, người sử dụng sẽ bị lệ thuộc vào nó và gây tổn thương, nguy hại
cho chính người sử dụng và cộng đồng xung quanh.
1.1.1.2.

Phân loại

Ma túy được phân chia thành nhiều loại dựa những căn cứ khác nhau
như: mức độ tác động lên hệ thần kinh, nguồn gốc, mục đích sử dụng… Tuy
nhiên, việc phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi vì việc sử
dụng các chất ma túy luôn luôn biến đổi khôn lường, hàng năm đều có thêm
nhiều loại ma túy và tiền chất mới được tội phạm ma túy nghiên cứu. Trong
khuôn khổ đề tài, liệt kê ra đây 02 cách phân loại phổ biến như sau:
* Phân loại theo nguồn gốc
Theo tiêu chí này, ma túy được phân chia thành 3 loại: Ma túy có nguồn
gốc tự nhiên, ma túy bán tổng hợp và ma túy tổng hợp.
- Ma túy tự nhiên: Đây là các sản phẩm ma túy sớm nhất được con người
sử dụng, bắt nguồn từ các cây trồng tự nhiên và các chế phẩm của chúng như

thuốc phiện, cần sa và cocain.
- Ma túy bán tổng hợp: Đây là các chất ma túy được con người chế từ ma
túy tự nhiên với một số chất phụ gia khác, có tác dụng mạnh hơn chất ma túy
ban đầu. Ví dụ: Heroin là một loại ma túy bán tổng hợp được chiết xuất từ cây
thuốc phiện, bằng cách chế thuốc phiện với các hóa chất để tạo ra morphine
và sau đó kết tủa thành heroin dạng thô.
- Ma túy tổng hợp: Đây là các loại ma túy mới được biết đến những năm
gần đây, chúng được điều chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học toàn phần
từ hóa chất như: thuốc lắc, ma túy đá...
* Phân loại theo tác dụng của chất ma túy lên người sử dụng
Cách phân loại này dựa trên tác dụng chủ yếu của chất ma túy đến hệ
thần kinh trung ương của con người, có thể chia thành 3 loại:
- Nhóm thuốc an thần, ức chế hệ thần kinh trung ương: Thuốc phiện,
những chất chế ra từ thuốc phiện (heroine, morphine, cocaine, methadone và
pethidine) và thuốc ngủ (lumiau, valium, seconau phenobacbital, serepax,

13


mogadon, seduexen…). Tác động chủ yếu khi sử dụng là buồn ngủ, an thần,
yên dịu, giảm nhịp tim, giảm hô hấp…
- Nhóm các chất gây kích thích: Bao gồm amphetamine và các dẫn xuất
của nó; có tác dụng làm tăng sinh lực, gây hưng phấn, tăng hoạt động của cơ
thể, tăng nhịp tim, hô hấp…
- Nhóm các chất gây ảo giác: điển hình gồm LSD (Lysergic Acid
Diethylamide) hay còn gọi là ma túy gây ảo giác, ecstasy (thuốc lắc). Việc sử
dụng các chất này với lượng lớn có thể làm thay đổi nhận thức về hiện tại, về
3 môi trường xung quanh; khiến cho người dùng có thể nghe thấy, nhìn thấy
những sự việc không có thật (ảo thanh, ảo giác).
1.1.2. Khái niệm nghiện ma túy

Trước hết, cần phải hiểu rằng thuật ngữ nghiện không chỉ đề cập đến sự
phụ thuộc vào các chất ma túy như là heroin hay cocaine. Theo Angres DH,
Bettinardi-Angres K có nói rằng Nghiện là sự lặp lại liên tục của một hành vi
bất chấp hậu quả xấu hoặc theo American Society for Addiction Medicine
(2012) có nói về nghiện là sự rối loạn thần kinh để dẫn đến những hành vi bất
chấp hậu quả. [14]
Viện nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ về lạm dụng ma túy (NIDA) cho rằng
nghiện là hình thức nghiêm trọng nhất của một loạt các rối loạn sử dụng chất
gây nghiện, và là một bệnh nội khoa do lạm dụng nhiều lần một chất hoặc các
chất. NIDA sử dụng thuật ngữ Nghiện như sau: “Nghiện là một rối loạn mãn
tính, tái phát đặc trưng bởi tìm kiếm ma túy bắt buộc, tiếp tục sử dụng bất
chấp hậu quả có hại và những thay đổi lâu dài trong não[23].
Định nghĩa về nghiện ma túy trên thế giới cũng như Việt Nam đã có
nhiều quan điểm. Theo tổ chức Mayo Clinic, nghiện ma túy được định nghĩa
như sau: “Nghiện ma túy còn được gọi là rối loạn sử dụng chất gây nghiện, là
một bệnh ảnh hưởng đến não và hành vi của một người và dẫn đến việc không
thể kiểm soát việc sử dụng thuốc hoặc thuốc hợp pháp hoặc bất hợp
pháp. Các chất như rượu, cần sa và nicotine cũng được coi là ma túy. Khi
bạn nghiện, bạn có thể tiếp tục sử dụng thuốc bất chấp tác hại của nó.”
14


Quan điểm mới về nghiện cho rằng: Nghiện là một bệnh tái phát mạn
tính của bộ não và tái phát như các loại bệnh tiểu đường, hen, viêm khớp và
tim mạch.
Trên cơ sở những luận điểm trên, có thể hiểu về nghiện ma túy là là sự
phụ thuộc (hoặc lệ thuộc) của con người vào các chất ma túy, việc đưa một
lượng ma túy nhất định vào cơ thể là một nhu cầu thường xuyên và bắt buộc,
nó luôn có xu hướng tăng dần liều sử dụng, khi ngừng sử dụng hoặc giảm
đáng kể liều lượng sẽ xuất hiện hội chứng cai rất khó chịu, thúc ép con ngưởi

phải sử dụng ma túy.
1.1.3. Khái niệm người nghiện ma túy
1.1.3.1.

Khái niệm

Khai thác thông tin từ website sức khỏe tâm thần HealthyPlace, người
nghiện ma túy là người lạm dụng và phụ thuộc về thể chất và tinh thần vào
ma túy
Theo GS Jon Currie, Giám đốc Viện Nghiên cứu Y học về nghiện và sự
biến đổi hệ thần kinh, Bệnh viện Thánh Vincent, Australia trong một phát
biểu tại Việt Nam rằng: “Phần đông người ta đều coi lạm dụng ma tuý và
nghiện là các vấn đề xã hội, cần giải quyết bằng các giải pháp mang tính xã
hội, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự. Người ta cũng thường cho rằng,
người nghiện ma tuý là những người yếu ớt, người xấu, không tự rèn luyện
đạo đức hoặc không làm chủ được các hành vi của bản thân”.
Tại Việt Nam, Pháp luật đã quy định rất rõ ràng rằng: Người nghiện ma
tuý là người sử dụng chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ
thuộc vào các chất này. [11]
1.1.3.2.

Đặc điểm sinh, tâm lý- xã hội của người nghiện ma túy

Cuộc sống của những người nghiện ma túy bị chi phối bởi nỗi ám ảnh
của việc sử dụng ma túy. Nỗi ám ảnh này thường dẫn đến người nghiện thất
nghiệp, nghèo đói và vô gia cư. Khi ở trong trạng thái này, họ thường chuyển
sang phạm tội để có được chất ma túy. Cũng bởi vì dùng ma túy và phạm tội,
cuộc sống của một người nghiện ma túy thường với trung tâm cai nghiện và
15



nhà tù. Người nghiện ma túy cũng có xu hướng gặp các vấn đề sức khỏe mãn
tính khác, như viêm gan hay nghiêm trọng hơn là HIV. Có quan điểm cho
rằng, con người là tổng hòa của 3 yếu tố quan trọng là: Sinh lý, tâm lý và xã
hội. Một người nghiện ma túy thì cả 3 yêu tố trên đều bị ảnh hưởng.
Nếu xem xét con người là một sự tổng hòa của thể chất, tâm lý và xã hội.
Phần lớn người nghiện ma túy bị tổn thương ở cả ba phương diện trên. Cụ
thể:
Về sinh lý - thể chất: Người sử dụng ma túy sẽ bị suy giảm sức khỏe,
mắc các bệnh như là Viêm gan B, viêm gan C và chiếm đa số trong những
người nhiễm HIV/AIDS là người sử dụng ma túy.
Về tâm lý: Người nghiện ma túy thường có tâm trạng thất thường (lo
âu/trầm cảm, lo lắng về tương lai/hoảng loạn); đôi khi khó hoặc thậm chí
không có khả năng để thích ứng với những căng thẳng hoặc cơn giận giữ; có
một số người còn có tâm lý sợ hãi bị trả thù, bị truy sát, bị ngược đãi; hoang
tưởng, ảo giác; dễ rơi vào trầm cảm và tăng nguy cơ tự hủy hoại bản thân/tự
tử.
Về xã hội: Một số người sử dụng ma túy cho biết rằng họ rất tự ti về bản
thân mình, ngại không dám giao lưu với những người không sử dụng ma túy
và nhiều người nghiện ma túy bị gia đình, bạn bè xa lánh, cộng đồng xung
quanh kỳ thị, nhiều người do sử dụng ma túy mà bị mất công việc, vợ chồng
ly hôn…
Cuộc sống của một người nghiện ma túy có xu hướng “xoắn ốc” xuống
cho đến khi tình trạng nghiện ma túy nghiêm trọng khiến người nghiện chạm
“đáy”. Đó là khi cuộc sống của người nghiện trở nên tồi tệ, họ không cảm
thấy nó có thể trở nên tồi tệ hơn. Thông thường, chỉ đến lúc này, những người
nghiện ma túy mới cân nhắc nghiêm túc việc điều trị nghiện ma túy của mình.
1.1.4. Khái niệm cai nghiện ma túy
1.1.4.1.


Khái niệm

Cai nghiện ma túy hay điều trị nghiện ma túy, đôi khi được gọi là liệu
pháp hành vi, đây là phương pháp điều trị lạm dụng ma túy được sử dụng phổ
16


biến nhất. Điều trị lạm dụng thuốc có nhiều hình thức, với các kỹ thuật và
mục tiêu khác nhau. Tham vấn nghiện ma túy có thể thực hiện với cá nhân,
với cặp đôi hoặc trong một môi trường nhóm.
Cũng theo GS Jon Currie, điều trị nghiện ma tuý nên có 3 trụ cột quan
trọng là não, hành vi và bối cảnh xã hội. Trong đó, phải tính đến các yếu tố
gia đình, dịch vụ hướng nghiệp, tài chính, dịch vụ y tế, giáo dục, phòng chống
HIV/AIDS, tham vấn pháp luật, nhà ở, đi lại… Theo ông, cai nghiện ma tuý
không phải như cắt ruột thừa hoặc điều trị gãy xương, chỉ một lần điều trị sẽ
không giúp ích gì. Do đó, không bao giờ được coi cắt cơn, giải độc là một giải
pháp điều trị thực sự với cai nghiện ma tuý, mà đó chỉ đơn giản là việc làm
đầu tiên và quan trọng để khởi đầu cho một quá trình điều trị cai nghiện lâu
dài, liên tục.
Theo Liên hợp quốc, Cai nghiện ma túy là thông qua phương pháp điều
trị được xây dựng dựa trên nhu cầu của mỗi người bệnh, những người nghiện
ma túy có thể học được cách kiểm soát tình trạng nghiện của họ và sống một
cuộc sống bình thường, có ích [11].
Theo Chính Phủ, Cai nghiện ma túy là việc áp dụng các hoạt động điều
trị, tham vấn, học tập, lao động, rèn luyện nhằm giúp cho người nghiện ma
túy phục hồi về sức khỏe, nhận thức, tâm lý và hành vi, nhân cách để trở về
tình trạng bình thường.[2].
Theo quan điểm của Y học cổ truyền, đại diện là Việt Y cổ truyền, quan
niệm rằng: Cai nghiện ma túy bản chất là phục hồi các tế bào chuyên tiết ma
túy nội sinh (Enkephalin) cho cơ thể để cơ thể không còn cần đến ma túy

ngoại nhập[11].
Như vậy, có thể hiểu về cai nghiện ma túy là việc giúp người nghiện
không bị lệ thuộc vào CDTP, giảm tác hại, tái phục hồi chức năng thể chất,
tâm lý và xã hội; xây dựng lối sống không cần chất gây nghiện. Có sự tham
gia tích cực của toàn xã hội, kế hoạch điều trị hợp lý, kết hợp chặt chẽ giữa
thầy thuốc, gia đình và cộng đồng.

17


Dù vậy, chúng ta cần biết rằng khi đã hồi phục hay “cai nghiện thành
công”, tình trạng tái nghiện là khá phổ biến, nhưng điều này không phải là
điều trị thất bại. Mặc dù tái nghiện là điều không được khuyến khích, nhưng
không nên coi đó là một thất bại. Bởi vì, cai nghiện ma túy là một quá trình
suốt đời và “trượt” là bình thường.
1.1.4.2. Một số biện pháp cai nghiện ma túy
Các phương pháp cai nghiện ma túy ngày nay rất đa dạng, cùng với sự
phát triển của nền khoa học, hiệu quả đã ngày càng được nâng cao.
Trên thế giới, có một số biện pháp cai nghiện ma túy đã được chứng
nhận bởi Viện lạm dụng ma túy (Mỹ) [824]:


Trị liệu hành vi nhận thức (CBT) - giải quyết các hành vi liên quan

đến nghiện bằng cách xác định chúng và học các kỹ năng để sửa đổi
chúng. Tự nhận thức và tự kiểm soát là điều quan trọng trong biện pháp này.


Phƣơng pháp tiếp cận củng cố cộng đồng (CRA) - tập trung vào


việc cải thiện các mối quan hệ, học tập kỹ năng nghề nghiệp và tạo ra một
mạng lưới quan hệ xã hội mới. Cùng với việc xét nghiệm ma túy thường
xuyên, theo đó các lần xét nghiệm có kết quả âm tính được thưởng bằng các
chứng nhận và giải thưởng có giá trị. CRA đã được chứng minh là làm tăng
sự tham gia của NNMT trong tham vấn nghiện ma túy và tăng thời gian cai
nghiện ma túy.


Liệu pháp tăng cƣờng động lực (MET) - tập trung vào việc tăng

động lực bên trong đối với việc điều trị và thay đổi hành vi nghiện. Một kế
hoạch cho sự thay đổi được tạo ra. MET thành công nhất trong việc tăng sự
tham gia của NNMT trong điều trị và điều trị nghiện ma túy.


Mô hình Ma trận - một hệ thống đa phương pháp được xây dựng

dựa trên việc thúc đẩy lòng tự trọng của NNMT, giá trị bản thân và mối quan
hệ tích cực giữa nhà trị liệu và NNMT. Nhà trị liệu được xem như một giáo
viên - huấn luyện viên và sử dụng mối quan hệ của họ để củng cố sự thay đổi
tích cực. Liệu pháp điều trị nghiện ma túy theo Mô hình ma trận gồm có các

18


hướng dẫn chi tiết, bảng tính và các bài tập trị liệu từ các biện pháp trị liệu
khác.


Liệu pháp tạo thuận lợi 12 bƣớc (FT) - được thiết kế để tăng khả


năng người nghiện tham gia cai nghiện và tham gia vào các nhóm 12
bước. Ba khía cạnh chính của loại tham vấn nghiện ma túy này là: chấp nhận
việc nghiện ma túy; chấp nhận chính mình với một sức mạnh cao hơn; tham
gia tích cực vào các hoạt động 12 bước.
Tại Việt Nam, có thể phân loại các phương pháp cai nghiện ma túy thành
2 nhóm là cai nghiện có dùng thuốc và cai nghiện không dùng thuốc. Trong
Đề tài giới thiệu một số biện pháp cai nghiện phổ biên hiện nay, cụ thể như
sau:


Nhóm các phương pháp cai nghiện không dùng thuốc

-

Phương pháp cai khô hay cách gọi khác là cai chay, cai bo hay cắt

ngang, bằng cách cô lập NNMT, không cho tiếp xúc với môi trường bên
ngoài, ngừng hoàn toàn việc sử dụng các chất ma túy. Sau thời gian khoảng 710 ngày các hội chưng cai sẽ giảm dần và mất đi, nhưng di chứng kéo dài 2-3
tháng, người cai nghiện mệt mỏi, mất ngủ, đau nhức cơ xương kéo dài hàng
tháng.
-

Phương pháp phẫu thuật thùy trán: Đã có một số trường hợp ở Trung

Quốc thực hiện thành công. Theo đó, người bệnh sẽ được tiến hành phẫu
thuật nhằm phá hủy một số điểm ở thùy trán của não liên quan đến đoạn trí
nhớ về cảm giác thèm muốn ma túy, làm cho người bệnh không còn cảm thấy
cần ma túy nữa. Tuy nhiên biện pháp này vẫn còn nhiều nhược điểm như chi
phí cao, người bệnh sau phẫu thuật thường bị ảnh hưởng tới phân biệt phương

hướng…
-

Phương pháp điện châm: Hay còn gọi là phương pháp sốc điện, số

lần điện châm của mỗi người là không giống nhau, nó phụ thuộc vào số lần
lên cơn thèm thuốc của người bệnh. Nhân viên điều trị sẽ dùng dòng điện gây
co giật làm mất cơn vật vã. Người nghiện quên chất ma túy và có cảm giác
kinh sợ khi trông thấy chúng.
19




Nhóm các phương pháp cai nghiện có dùng thuốc

-

Phương pháp dùng thuốc đối kháng: Phương pháp này sử dụng

naltrexone – một loại thuốc có tác dụng ức chế các chất dạng thuốc phiện (cần
sa, heroin, cocain…) để điều trị duy trì hỗ trợ chống tái nghiện các chất dạng
thuốc phiện, đã được áp dụng tại một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung
Quốc...
-

Phương pháp điều trị bằng chất thay thế: Là phương pháp dùng các

chất gây nghiện cùng nhóm nhưng có tác dụng kéo dài hơn và có độc tính
thấp hơn các chất để điều trị thay thế như Methadone, bupronorphine…

-

Dùng các thuốc hướng tâm thần: Phương pháp này đã được Bộ Y tế

ban hành và áp dụng từ năm 1995, bằng cách dùng các thuốc giải lo âu, thuốc
an thần kinh, các thuốc chống trầm cảm cắt cơn trong vòng 7- 10 ngày.
-

Dùng thuốc Đông y: Các loại thuốc Đông y có nguồn gốc từ thảo

dược, an toàn, ít độc và ít tác dụng phụ, có hiệu lực trong hỗ trợ cắt cơn
nghiện ma túy, quá trình cắt cơn êm dịu, thuốc có khả năng bình ổn các triệu
chứng của hội chứng cai, như là triệu chứng dị cảm và thèm ma túy. Thuốc
đông y mới được nghiên cứu thành công gần đây có tên khoa học là
CEDEMEX đã có kết quả thử nghiệm lâm sàn khá tốt và đang được xem xét
mở rộng trong thời gian sắp tới.
1.1.5. Khái niệm về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc thay thế Methadone
Theo Bộ y tế, các chất dạng thuốc phiện như thuốc phiện, morphin,
heroin là những chất gây nghiện mạnh (gây khoái cảm mạnh); thời gian tác
dụng nhanh nên người bệnh nhanh chóng xuất hiện triệu chứng nhiễm độc hệ
thần kinh trung ương; thời gian bán hủy ngắn do đó phải sử dụng nhiều lần
trong ngày và nếu không sử dụng lại sẽ bị hội chứng cai [3].
Cũng theo Bộ Y tế, Methadone là một CDTP tổng hợp, có tác dụng dược
lý tương tự như các CDTP khác (đồng vận) nhưng không gây nhiễm độc hệ
thần kinh trung ương và không gây khoái cảm ở liều điều trị, có thời gian bán
huỷ dài (trung bình là 24 giờ) nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong 1 ngày là đủ để
20



×