Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN XÃ TẠ XÁ, HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.18 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DUNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
HỖ TRỢ VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN NÔNG
THÔN XÃ TẠ XÁ, HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ
THỌ


HÀ NỘI, NĂM 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

ĐỀ TÀI: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
HỖ TRỢ VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN NÔNG
THÔN XÃ TẠ XÁ, HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ
THỌ

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Dung(21/12/1995)
Lớp
: D9CT1
Hệ
: Đại học chính quy
Cán bộ hướng dẫn : TS. Tiêu Thị Minh Hường




HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ
tình hình thực tế của địa bàn nghiên cứu.

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Dung

4


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài khóa luận này, ngoài sự cố gắng của bản thân
tôi, còn có sự hỗ trợ hết sức nhiệt tình của mọi người.
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS.
Tiêu Thị Minh Hường – người đã hướng dẫn nhiệt tình tôi trong suốt thời gian
nghiên cứu, làm khóa luận. Nhờ có sự giúp đỡ của cô mà tôi đã từng bước
hoàn thiện được đề tài “Công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên
nông thôn Xã Tạ Xá, Huyện Cẩm Khê, Tỉnh Phú Thọ”.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo trong
Trường Đại học Lao động - Xã hội nói chung và các thầy cô giáo trong Khoa
Công tác xã hội nói riêng đã trực tiếp truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi
trong bốn năm học vừa qua.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cấp chính quyền, đoàn

thể, nhân dân và thanh niên xã Tạ Xá, huyện Cẩm Khê, Tỉnh Phú Thọ đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, khảo sát, điều tra để làm
khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến bố mẹ và anh-chị những người đã luôn theo sát, giúp đỡ, hỗ trợ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần
trong cuộc sống nhất là trong quá trình tôi làm nghiên cứu khóa luận này.
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu này, do những hạn chế về
kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để bài khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày

tháng

năm

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Dung

5


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11

Chữ viết tắt
CNH-HĐH
CTXH
CMKT
ĐHQGHN
ILO
LĐTB&XH
NQ/TW
NVCTXH
PVS
QĐ-TTg
QĐ-NHNN

12

TT-BNNPTNT

13
14
15

TP
THPT

UBND

Xin đọc là
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Công tác xã hội
Chuyên môn kỹ thuật
Đại học Quốc gia Hà nội
Tổ chức lao động quốc tế
Lao động Thương binh Và Xã hội
Nghị quyết/Trung ương
Nhân viên công tác xã hội
Phỏng vấn sâu
Quyết định – Thủ tướng
Quyết định- Ngân hàng Nhà nước
Thông tư- Bộ Nông nghiệp phát
triển nông thôn
Thành phố
Trung học phổ thông
Ủy ban nhân dân

6


DANH MỤC BẢNG

7


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


8


MỤC LỤC

9


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Thanh niên là một lực lượng lao động nòng cốt, tiên phong của mỗi quốc
gia, bởi lẽ ở họ hội tụ rất nhiều những ưu điểm mà trước hết đó là về sức
khỏe, sự tiếp cận nhanh với tri thức, khoa học kỹ thuật tiến bộ. Trong quá
trình CNH-HĐH Đất nước hiện nay, thanh niên Việt Nam ngày càng thể hiện
được vị trí , vai trò quan trọng của mình, có đóng góp to lớn vào sự phát triển
của Đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay, cùng với tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm chung
của cả nước, một bộ phận lớn thanh niên nhất là với thanh niên nông thôn
đang gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề việc làm.Điều này đã làm cho thanh
niên không những không thể hiện được vai trò, vị trí quan trọng của mình mà
còn làm gia tăng nhiều vấn đề kinh tế- xã hội tiêu cực khác.
Theo đánh giá chung, vấn đề lao động và việc làm của thanh niên nông
thôn vẫn trong tình trạng thiếu ổn định, thất nghiệp có chiều hướng gia tăng.
Theo khảo sát mới đây của Thành Đoàn Hà Nội về tình hình việc làm của
thanh niên tại 30 xã, có đến 80% số thanh niên thiếu việc làm hoặc có việc
làm nhưng không ổn định. Thiếu việc làm, không ít thanh niên nông thôn chơi
bời, lêu lổng sa vào cờ bạc, rượu chè, nghiện hút và các tệ nạn xã hội khác.
Để giải quyết vấn đề này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã

có nhiều chủ trương, chính sách trong lĩnh vực dạy nghề, giải quyết việc làm
cho thanh niên nói chung và thanh niên nông thôn nói riêng.Số liệu thống kê
của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến
2015, đã có gần 6,4 triệu lượt thanh niên được tư vấn, truyền thông về nghề
nghiệp, việc làm. Với sự quan tâm đầu tư đúng mức đối với các hoạt động tư
vấn, định hướng nghề nghiệp việc làm đối với thanh niên. Đoàn thanh niên
các địa phương đã phối hợp chặt chẽ với ngành lao động tổ chức tốt các hoạt
động truyền thông tuyên truyền về chính sách dạy nghề, giải quyết việc làm,
xuất khẩu lao động tới thanh niên và xã hội thông qua việc tổ chức nhiều nội
dung, hoạt động cụ thể, như: Ngày hội việc làm, Ngày hội tư vấn vay vốn từ
Ngân hàng chính sách xã hội, các sàn giao dịch việc làm… Các tỉnh đoàn,
thành đoàn, như: Vĩnh Phúc, Phú Thọ ,Hải Dương, TP.Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Phú Yên, Cần Thơ, Quảng Nam... đã triển khai tốt việc phát triển và
duy trì hoạt động của các điểm tư vấn và giới thiệu việc làm cho thanh niên
tại các cơ sở Đoàn. Mô hình câu lạc bộ “Thanh niên giúp nhau lập nghiệp”,

10


“Hợp tác xã thanh niên”, “Trang trại trẻ”… đã được tổ chức Đoàn đẩy mạnh
thực hiện tại các địa phương…
Để hoạt động hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn đạt được kết quả
tốt nhất, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thanh niên phát huy giá trị
bản thân, đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội, thì điều cần thiết là cần
phải có sự tham gia, góp sức của rất nhiều các ban ngành, đoàn thể và toàn xã
hội trong đó có sự tham gia quan trọng của công tác xã hội, một ngành khoa
học ứng dụng luôn hướng tới những con người yếu thế, gặp khó khăn trong
cuộc sống, trong đó có nhóm thanh niên nông thôn gặp khó khăn trong vấn đề
việc làm.
Xã Tạ xá, Huyện Cẩm khê, Tỉnh Phú Thọ là một xã trung du miền núi,

điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, lao động chủ yếu là trong
lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tỷ lệ lao động thất nghiệp, thiếu
việc làm còn cao, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế- xã hội của
địa phương.Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển của cả tỉnh,
Tạ xá đã có những bước chuyển mạnh mẽ về nhiều mặt, đặc biệt là sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đã đạt nhiều thành tựu quan trọng thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội, chính trị ổn định. Trong những thành tựu đó có vấn đề việc làm cho
nguời lao động nói chung, thanh niên nói riêng. Để giải quyết vấn đề việc làm
cho thanh niên, các cấp, các ngành ở địa phương đã quan tâm chú trọng triển
khai một số hoạt động công tác xã hội quan trọng, nhằm hỗ trợ việc làm cho
lao động tại xã nói chung và lực lượng thanh niên nói riêng. Tuy nhiên, hiệu
quả của các hoạt động đó là chưa cao, lực lượng thanh niên thất nghiệp, thiếu
việc việc làm tại xã còn ở mức khá cao; sự phối hợp tham gia của các ban
ngành trong các hoạt động này còn hạn chế. Vì thế cần có những khảo sát,
đánh giá về các hoạt động công tác xã hội này để từ đó tìm ra được những
định hướng thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do trên mà em đã chọn đề tài: “Công tác xã hội
trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn tại Xã Tạ xá, Huyện Cẩm khê,
Tỉnh Phú thọ” làm đề tài khóa luận. Khóa luận sẽ nghiên cứu lý luận và thực
trạng công tác hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác hỗ trợ việc
làm cho thanh niên nông thôn.

11


2.
2.1.

Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Các nghiên cứu ở nước ngoài
Việc làm là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm
lớn của nhiều quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho người đọc
những cái nhìn đa chiều về lao động việc làm nói chung. Đáng chú ý có:
ILO (Tổ chức lao động quốc tế) đã tiến hành nghiên cứu vấn đề an sinh
xã hội của 10 nước công nghiệp. Họ chỉ ra rằng, một bộ phận dân cư nhất là
vùng nông thôn lâm vào tình trạng thất nghiệp nên bị ngừng hoặc giảm đáng
kể về thu nhập. ILO cũng đưa ra những tiêu chuẩn của an sinh xã hội trong đó
có trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp tai nạn nghề nghiệp.
Ở Trung Quốc, những nhà nghiên cứu như Hồ Hiếu Nghĩa, Lý Bồi Lâm,
Lý Cường, Mã Nhung đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu để thực hiện
sự ổn định xã hội hài hòa. Vấn đề việc làm và việc nông dân Trung Quốc phải
đi làm thuê ở Trung Quốc đang nổi lên, có thể thấy được tình cảnh này trong
cuốn sách “Đảm bảo xã hội với người nông dân làm thuê ở thành phố” (NXB.
Quản trị kinh tế - 2004), “Việc làm và an sinh xã hội: Bài toán khó trong thế
kỷ mới” (NXB. Nhân dân Vân Nam - 2000).
Trong cộng đồng châu Âu, người ta thường đề cập tới sự “tách biệt xã
hội”. Nhiều nhà nghiên cứu đã đi vào ba vấn đề cơ bản của “tách biệt xã hội”:
kinh tế, chính trị, văn hóa. Xét về kinh tế, người bị coi là “tách biệt xã hội” là
những ai gặp khó khăn về việc làm, thu nhập, giảm sút, lâm vào cảnh nghèo
túng. Việc làm là một khía cạnh của sự tách biệt kinh tế, thiếu việc làm sẽ có
ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của hộ gia đình, làm hạn chế khả năng tiếp
cận hàng hóa và dịch vụ tối thiểu của từng gia đình.
2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ngày 9/3/2011, Nguyễn Thanh viết “Vấn đề giải quyết việc làm cho
thanh niên hiện nay” trên báo “Nhân đạo và đời sống” đã đề cập đến tình hình
lao động, nghề nghiệp của thanh niên giai đoạn 2000 – 2006 sau đó đã đưa ra
các giải pháp nhằm giải quyết vến đề việc làm cho thanh niên. Trong các giải
pháp đã đưa ra, bài báo nhấn mạnh đến phát huy vai trò xung kích của tổ chức

Đoàn Thanh niên trong giải quyết việc làm cho thanh niên.
Ngày 17/08/2013, Lâm Vũ viết “Việc làm cho thanh niên
nông thôn: Chính sách chưa vào cuộc sống” trên báoHà Nội mới. Bài báo
đã nói lên tình trạng việc làm cho thanh niên nông thôn chưa ổn định, thu
12


nhập thấp. Theo đó, tác giả đã khẳng định thanh niên nông thôn hiện rất
cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ để họ có thể phát huy khả năng và sức lực
của mình.
Báo Dân Việt số ra ngày 30/3/2014 đã đăng bài của Đăng
Thúy, Minh Nguyệt “Cấp bách vấn đề việc làm cho thanh niên”. Bài báo
đã đề cập đến Hội nghị Bộ trưởng ASEM về lao động và việc làm với chủ
đề “Việc làm - An sinh xã hội: Chìa khóa để phát triển bền vững và toàn
diện” đã khai mạc tại Hà Nội với sự tham dự của gần 300 đại biểu trong và
ngoài nước.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề việc làm, hỗ trợ việc làm
cho thanh niên. Tuy nhiên lại chưa có các nghiên cứu về hoạt động công tác
xã hội trong việc hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn. Trong khi đó,
thanh niên nông thôn gặp khó khăn trong vấn đề việc làm cũng chính là một
trong các đối tượng quan trọng của công tác xã hội. Do vậy, đề tài nghiên cứu
này của sinh viên mang tính mới mẻ và đóng góp môt phần vào tìm hiểu,
nghiên cứu sâu hơn về các hoạt động công tác xã hội với đối tượng thanh niên
nông thôn về vấn đề việc làm.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến công tác xã hội trong hỗ trợ
việc làm cho thanh niên nông thôn.
Nghiên cứu thực trạng công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh

niên tại xã Tạ xá, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú thọ.
Đánh giá chung về mức độ tiếp cận với hoạt động công tác xã hội trong
hỗ trợ việc làm của thanh niên xã Tạ xá, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú thọ.
Tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động công tác xã hội trong
hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn tại xã Tạ xá, huyện Cẩm khê, tỉnh
Phú thọ.
Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp, mô hình nhằm nâng cao chất lượng
của hoạt động công tác xã hội trong việc hỗ trợ việc làm cho thanh niên tại xã
Tạ xá, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú thọ.

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm nhiệm vụ nghiên cứu các hoạt động công tác xã hội trong hỗ
trợ việc làm cho thanh niên nông thôn đang được triển khai tại xã Tạ xá,
huyện Cẩm khê, tỉnh Phú thọ. Đồng thời đánh giá được chất lượng cũng như
hiệu quả của các hoạt động này để từ đó đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp
13


cho hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên tại xã Tạ
xá, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú thọ
5.

Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn

6.

Khách thể nghiên cứu

- 50 thanh niên nông thôn trong độ tuổi từ 16-30(không còn đi học)
- 5 thân nhân của thanh niên (cha/mẹ, ông/bà, cô/chú…)
- 5đại diện chính quyền địa phương: cán bộ chính sách xã hội, cán bộ
đoàn Thanh niên, cán bộ Đảng ủy, UBND xã

7.

Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu: Xã Tạ xá, Huyện Cẩm khê, Tỉnh Phú thọ
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 6 năm 2017
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ
việc làm cho thanh niên tại Xã Tạ xá, Huyện Cẩm khê, Tỉnh Phú thọ

8.
8.1.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, nghiên cứu tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu, các tài
liệu liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. Số liệu trong các báo cáo
của xã, huyện, các văn bản của Nhà nước có liên quan đến đề tài; các loại
sách báo, tạp chí liên quan, thông tin từ mạng internet. Phương pháp này được
thực hiện ngay sau khi xây dựng đề cương chi tiết cho đề tài nghiên cứu và
được duy trì trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu nhằm bổ sung và làm
rõ các thông tin thu thập được.
Trong đó, các tài liệu nghiên cứu được tiến hành như sau:
Tình hình kinh tế- văn hóa xã hội tại xã Tạ xá, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú
Thọ
Các tài liệu liên quan đến lĩnh vực CTXH, lao động thanh niên, lĩnh vực
hỗ trợ việc làm cho thanh niên nói chung và thanh niên nông thôn nói riêng

Các văn bản quy phạm pháp luật vềlaođộng việc làm cho đối tượng
thanh niên, quyền và nghĩa vụ của thanh niên, giáo dục đào tạo nghề.
Các báo cáo về tình hình thực hiện công tác hỗ trợ việc làm cho lao động
hằng năm trên địa bàn xã, huyện.

14


8.1.1.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với 50 thanh niên (không còn đi học)
tại xã Tạ xá, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú thọ. Với phương pháp này, nhằm mục
đích tìm hiểu, thuthập thông tin chung về về thực trạng việc làm của thanh
niên trong xã, thực trạng các hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm
cho thanh niên.

8.1.2.

Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại giữa nhà nghiên cứu và người
cung cấp thông tin nhằm mục đích thu thập thông tin cho quá trình nghiên
cứu.
Phỏng vấn sâu với lãnh đạo xã, cán bộ chính sách xã hội, cán bộ Đoàn
Thanh Niên nhằm mục đích tìm hiểu thêm về những chính sách , những biện
pháp, mô hình của Nhà nước và địa phương trong việc hỗtrợ việc làm cho
thanh niên.
Phỏng vấn sâu vớithanh niên nhằm mục đích tìm hiểu sâu về những
mong muốn, nguyện vọng cũng như nhu cầu của họ về việc làm cũng như hỗ
trợ việc làm.

Phỏng vấn sâu với thân nhân của thanh niên( bố/mẹ, ông/bà…) nhằm có
được thông tin đa chiều về vấn đề việc làm của thanh niên cũng như sự tham
gia , đánh giá của người dân về hiệu quả các hoạt động công tác xã hội trong
hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn.

8.1.3.

Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thông qua hoạt động nghe, nhìn để thu thập
thông tin từ thực tế nhằm đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Quan sát, lắng nghe các buổi tư vấn, giới thiệu việc làm cho Thanh niên;
quan sát thái độ của các Thanh niên khi họ tham gia các buổi tư vấn, định
hướng nghề nghiệp…

8.1.4.

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Vận dụng toán thống kê để xử lý số liệu kết quả thu được từ các phương
pháp trên để đưa ra kết quả xác thực.

15


9.

Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục nội dung đề tài khóa luận gồm 03 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho
thanh niên nông thôn

Chương 2: Thực trạng công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh
niên nông thôn tại Xã Tạ xá, Huyện Cẩm khê, Tỉnh Phú thọ
Chương 3: Kết luận, Kiến nghị và Giải pháp

16


PHẦN NỘI DUNG CỤ THỂ
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho
Thanh niên nông thôn
1.1.
1.1.1.

Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm Công tác xã hội
Có nhiều khái niệm về CTXH được đưa ra ở các góc độ khác nhau: Theo
từ điển nghành Công tác xã hội(1995) có ghi “Công tác xã hội là một khoa
học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tao ra
những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”.
Tại Đại hội Liên đoàn Công tác xã hội chuyên nghiệp quốc tế ở Canada
năm 2004, Công tác xã hội được khẳng định là một hoạt động chuyên nghiệp
nhằm tạo ra sự thay đổi, phát triển của xã hội bằng sự tham gia vào quá trình
giải quyết các vấn đề xã hội(vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội) vào
quá trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năng của cá nhân, gia đình
và cộng đồng. Công tác xã hội giúp cho con người phát triển hài hòa và đem
lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người dân.
Theo Hiệp hội Quốc gia Nhân viên công tác xã hội (NVCTXH ) có tên
viết tắt là NASW: Công tác xã hội là hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ các cá
nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao hay khôi phục tiềm năng của họ
để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp

với các mục tiêu của họ (Zastrow, 1996: 5) CTXH tồn tại để cung cấp các
dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm,
cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện cuộc sống (Zastrow,
1999:..). Với các mục tiêu của họ (Zastrow, 1996: 5).
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị
Quốc tế Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy
sự thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người,
sự tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của
họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con
người và các hệ thống xã hội. CTXH can thiệp ở những điểm tương tác giữa
con người và môi trường của họ.
Công tác xã hội ở Việt Nam được các tác giả xem xét từ các khía cạnh
khác nhau:
Tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: Công tác xã hội là hoạt động thực
tiễn, mang tính tổng hợp dược thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc,
17


phương pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. Công tác
xã hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội.
Công tác xã hội tại Việt Nam cũng được xem là sự vận dụng các lý
thuyết về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức
năng xã hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng
người yếu thế hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: Công tác xã hội nhằm góp
phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế
phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã
hội, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và
xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.
Tóm lại, Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp

nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp
ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi trường
xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm cá nhân, gia đình, cộng
đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh
xã hội [3,tr 19].
1.1.2.

Khái niệm việc làm
Việc làm là một trong những hoạt động không thể thiếu trong đời sống
của con người, đảm bảo cuộc sống của con người, bên cạnh đó giúp con
người phát triển toàn diện về mọi mặt.
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa nhằm làm sáng tỏ: “việc làm là gì?”. Và ở các quốc gia khác
nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố (như điều kiện kinh tế, chính trị, luật
pháp…) người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế không
có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
Ở Việt Nam, theo bộ luật Lao động, Điều 13: “Mọi hoạt động tạo ra thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [12]. Khái
niệm này đã khắc phục được quan điểm cũ cho rằng, chỉ những việc việc làm
được nhận lương, những việc làm trong khu vực Nhà nước mới được coi là
việc làm. Lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực kinh tế
quốc doanh mà cả khu vực ngoài quốc doanh và trong gia đình cũng đều được
coi là việc làm.

18


Trên thực tế việc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức:
+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó.

+ Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền
sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến
hành công việc đó.
+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả
thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản
xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc 1 thành
viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu trong đề tài này đó là: Công tác xã hội
trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn, tác giả xin được đề cập tới
một số khái niệm liên quan đến tình trạng việc làm của người lao động đó là:
Việc làm đầy đủ (việc làm ổn định), thất nghiệp(không có việc làm), và thiếu
việc làm (việc làm lúc có lúc không).
Khái niệm việc làm đầy đủ (việc làm ổn định): Với cách hiểu chung nhất
là người có việc làm, là người đang có hoạt động nghề nghiệp, có thu nhập từ
hoạt động đó để nuôi sống bản thân và gia đình mà không bị pháp luật ngăn
cấm. Tuy nhiên việc xác định số người có việc làm theo khái niệm trên chưa
phản ánh trung thực trình độ sử dụng lao động xã hội vì không đề cập đến
chất lượng của công việc làm. Trên thực tế nhiều người lao động đang có việc
làm nhưng làm việc nửa ngày, việc làm có năng suất thấp thu nhập cũng thấp.
Đây chính là sự không hợp lý trong khái niệm người có việc làm và cần được
bổ sung với ý nghĩa đầy đủ của nó đó là việc làm đầy đủ (việc làm ổn định).
Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu đó là: Mức độ sử
dụng thời gian lao động, năng suất lao động và thu nhập. Mọi việc làm đầy đủ
đòi hỏi người lao động phải sử dụng đầy đủ thời gian lao động theo luật định
(Việt nam hiện nay qui định 8 giờ một ngày), mặt khác việc làm đó phải mang
lại thu nhập không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu cho người lao động
(Nước ta hiện nay qui định mức lương tối thiểu cho một người lao động trong
một tháng là 1.200.000 đồng/tháng). [6]
Vậy với những người làm việc đủ thời gian qui định và có thu nhập lớn
hơn tiền lương tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đầy đủ (việc

làm ổn định).

19


Khái niệm thất nghiệp (không có việc làm):Người thất nghiệp là người
trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm, có khả năng lao động, hay
nói cách khác là sẵn sàng làm việc và đang đi tìm việc làm.[6]
Một người lao động được coi là thất nghiệp nếu trong tuần lễ trước điều
tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Thất nghiệp được chia thành nhiều loại:
Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do di chuyển không ngừng của sức lao
động giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc
sống.
Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao
động, việc làm .Sự không ăn khớp giữa số lượng và chất lượng đào tạo và cơ
cấu về yêu cầu của việc làm, mất cân đối giữa cung và cầu lao động.
Thất nghiệp chu kỳ: Phát sinh khi mức cầu chung về lao động thấp và
không ổn định. Những giai đoạn mà cầu lao động thấp nhưng cung lao động
cao sẽ xảy ra thất nghiệp chu kỳ.
Khái niệm thiếu việc làm:Thiếu việc làm là những việc làm không tạo
điều kiện cho người lao động tiến hành nó sử dụng hết quĩ thời gian lao động,
mang lại thu nhập cho họ thấp dưới mức lương tối thiểu và người tiến hành
việc làm không đầy đủ là người thiếu việc làm.[6]
Theo tổ chức lao động thế giới (Viết tắt là ILO) thì khái niệm thiếu việc
làm được biểu hiện dưới hai dạng sau:
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm làm đủ thời
gian, thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng thu nhập thấp do tay nghề, kỹ
năng lao động thấp, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém, cho năng
suất lao động thấp thường có mong muốn tìm công việc khác có mức thu

nhập cao hơn. Thiếu việc làm vô hình là tình trạng xảy ra rất phổ biến ở các
vùng thông thôn Việt nam hiện nay.
Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng ngườilao động làm việc với thời
gian ít hơn quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn
kiếm thêm việc làm và luôn sẵn sàng để làm việc.
20


1.1.3.

Khái niệm hỗ trợ việc làm
Trong cuộc sống của con người, ai cũng có những công việc, những vấn
đề mà không thể tự mình giải quyết và chúng ta phải cần tới một sự hỗ trợ,
giúp đỡ từ bên ngoài.
Trong từ điển Tiếng việt thì hỗ trợ có nghĩa là giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ
thêm vào. [5, tr.78]
Trong từ điển Anh- Việt thì “assistance” có nghĩa là giúp đỡ, cung cấp
tiền, tài nguyên hoặc thông tin để giúp đỡ ai đó. [2, tr.24]
Như vậy, qua các từ điển nói trên chúng ta có thể hiểu: Hỗ trợ có nghĩa
là sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội, giữa các thể chế, tổ
chức với một đối tượng, một nhóm đối tượng nào đó bằng việc cung cấp vật
chất, tài nguyên hoặc thông tin nhằm giúp họ giải quyết vấn đề khó khăn của
mình.
Từ những khái niệm về việc làm và khái niệm hỗ trợ, theo tác giả, Hỗ
trợ việc làm có thể được hiểu là sự giúp đỡ, hỗ trợ từ bên ngoài về các thông
tin, môi trường việc làm, nguồn lực vật chất cho các đối tượng có nhu cầu,
giúp họ có được một việc làm ổn định, mang lại thu nhập cho bản thân và gia
đình họ.

1.1.4.

1.1.4.1.

Khái niệm Thanh niên,Thanh niên nông thôn
Khái niệm Thanh niên
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều
cách. Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá
mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Từ góc độ pháp luật: Theo điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 thì Thanh
niên là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi.[12]
Từ góc độ xã hội học: Tiếp cận từ góc độ xã hội học - dân cư có thể định
nghĩa thanh niên là một bộ phận phức hợp của dân cư của một quốc gia - dân
tộc bao gồm tất cả các cá thể ở trong độ tuổi từ 15 đến 29. Như vậy, bộ phận
dân cư được gọi là “thanh niên” này chỉ phân biệt một cách tương đối với các
bộ phận dân cư khác của quốc gia - dân tộc ấy trên một tiêu chílà giới hạn độ
tuổi. Tuy nhiên, ngoài tiêu chí độ tuổi, nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” còn
có thể được chia thành các tiểu nhóm khác nhau, như thanh niên thành thị,
thanh niên nông thôn (nếu lấy địa bàn cư trú làm tiêu chí phân biệt), hay
thanh niên công nhân, thanh niên nông dân hoặc thanh niên trí thức (nếu lấy
nghề nghiệp làm tiêu chí phân biệt) v.v... Ngoài ra, các yếu tố khác như tộc
21


người, tôn giáo, giới tính, giàu - nghèo v.v... cũng có thể được coi là tiêu chí
để phân biệt các tiểu nhóm trong nhóm lớn “thanh niên”.
Trong bài viết: Văn hóa và lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: một số vấn đề về khái niệm và cách
tiếp cận của PGS.TS Phạm Hồng Tung trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Khoa học Xã hội và Nhân văn số 24 (2008) đã viết: Thanh niên là một nhóm
xã hội dân cư có tính phức hợp (hetrogenousness) rất cao, hàm chứa trong đó
nhiều sự đa dạng (diversities) về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư

trú, định hướng giá trị, lợi ích, tâm linh và các mô hình ứng xử (modes of
behaviors) và lựa chọn xã hội (social preferences).[7]
Từ góc độ tâm lý học: Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh
niên là một giai đoạn xác định trong quá trình “tiến hóa” của cơ thể. Các nhà
tâm lý học thường nhìn nhận thanh niên là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi
thơ phụ thuộc sang hoạt động độc lập với tư cách là một công dân có trách
nhiệm.Ở giai đoạn này sự phát triển về thể chất đạt đến đỉnh cao, tuy nhiên
các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương đối.[4,tr 45]
Dưới góc độ kinh tế học: Thanh niên được xem là một lực lượng lao
động xã hội, nguồn bổ sung cho đội ngũ lao động trên tất cả các lĩnh vực,
thường được chia làm 2 nhóm:
Nhóm sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông
không có điều kiện học lên, tham gia ngay vào thị trường lao động. Đó là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo nghề.
Nhóm sau khi tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học, dạy nghề (đã qua
đào tạo nghề) sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động.
Để nhìn nhận đánh giá thanh niên một cách tương đối toàn diện, có thể
bao hàm được các nội dung, ý nghĩa nêu trên, phạm vi đề tài này thanh niên
được hiểu là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 16-30, là nhóm dân cư có
tính phức hợp cao, có thể chia thành các tiểu nhóm nhỏ khác nhau với một số
tiêu chí như: độ tuổi, giới tính, nơi cư trú, nghề nghiệp. Họ là thế hệ có sức
khỏe thể chất đạt đến đỉnh cao, năng động, nhiệt huyết, là một lực lượng lao
động xã hội quan trọng của Đất nước.
1.1.4.2.

Khái niệm thanh niên nông thôn
Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể: "Nông thôn là phần lãnh thổ không

22



thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp
hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã".[12]
Trong bài Quản lý nhà nước về nông thôn, tác giả Phan Kế Vân cho
rằng: nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư trong đó có nhiều nông
dân. Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường trong một thể chế chính trị nhất địn và chịu ảnh hưởng của các tổ chức
khác; phân biệt với thành thị.
Khái niệm “nông thôn” thường đồng nghĩa với làng ,xóm, thôn….Trong
tâm thức người Việt đó là một môi trường kinh tế sản xuất với nghề trồng lúa
nước cổ truyền với những hình ảnh “thương hiệu” như cây đa, bến nước, mái
đình. Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước, của phong trào xây dựng nông thôn mới thì nông thôn Việt nam
đang có những sự chuyển biến, thay đổi mạnh mẽ, bộ mặt nông thôn ngày
càng phát triển bộ, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân nông
thôn ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó, quá trình
đô thị hóa nông thôn cũng đã và đang làm gia tăng một số vấn đề xã hội nhức
nhối cần giải quyết như: ô nhiễm môi trường; tệ nạn xã hội; thất nghiệp, thiếu
việc làm…
Từ những khái niệm về Thanh niên và nông thôn ở trên, theo tác giả,
Thanh niên nông thôn là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi, là một
bộ phận của cư dân nông thôn, có sự tham gia vào những hoạt động sản xuất,
sinh hoạt trong nông thôn.
1.1.4.3.

Đặc điểm của thanh niên nông thôn
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 1989, có tới trên 75% thanh
niên sống tại nông thôn. Đây là một tầng lớp xã hội hết sức quan trọng của
cộng đồng xã hội nông thôn, bởi lẽ họ là những chủ nhân cơ bản sáng tạo nên

xã hội, mặt khác đây là lực lượng lao động nòng cốt của nông thôn.
Đặc điểm tâm- sinh lý: Thanh niên nông thôn là một bộ phận của thanh
niên nên họ cũng mang trong mình những đặc điểm tâm-sinh lý chung của lứa
tuổi thanh niên. Khi bước vào lứa tuổi thanh niên, họ đều có những sự thay
đổi về tâm-sinh lý so với giai đoạn phát triển trước. Đây là giai đoạn mà con
người đạt đến đỉnh cao về sức khỏe, sự hoàn thiện về thể chất [4,tr 48].Tuy
nhiên, Với thanh niên nông thôn, do điều kiện sống khó khăn hơn thành
phố ,mức thu nhập thấp, ít thông tin, trình độ học vấn không cao, không đồng
đều, cơ sở hạ tầng kinh tế chậm phát triển dẫn đến việc thiếu hiểu biết về dinh
23


dưỡng, chăm sóc sức khỏe nên thể lực, tầm vóc của thanh niên nông thôn
thường thấp và nhỏ hơn so với thanh niên thành phố.
Bước sang tuổi thanh niên, các chức năng tâm lý của con người cũng có
nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy.
Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên rất
tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh. Sự phát triển mạnh
của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo [4, tr54]. Nhờ khả
năng khái quát tốt, thanh niên có thể dễ dàng tự mình phát hiện ra những cái
mới. Với họ điều quan trọng là cách thức giải quyết vấn đề được đặt ra chứ
không phải loại vấn đề nào được giải quyết.
Biểu tượng cái tôi ở lứa tuổi thanh niên được hình thành rõ nét. Chính sự
ý thức rõ ràng và đầy đủ hơn về cái tôi đã làm cho thanh niên có khả năng lựa
chọn con đường đi tương lai, đặt ra vấn đề tự khẳng định và tìm kiếm vị trí
cho riêng mình trong cuộc sống.
Những thay đổi trong vị thế xã hội, trình độ phát triển của tư duy lý luận
và hơn nữa một khố lượng tri thức lớn mang tính phương pháp luận về các
quy luật của tự nhiên, xã hội mà thanh niên tiếp thu được trong nhà trường và
cuộc sống xã hội đã giúp họ thấy được các mối liên hệ giữa các tri thức khác

nhau, giữa các thành phần của thế giới. Nhờ đó thanh niên bắt đầu biết liên
kết các tri thức riêng lẻ lại với nhau để tạo nên một biểu tượng chungvề thế
giới cho riêng mình.
Để chuẩn bị bước vào đời, thanh niên thường trăn trở với các câu hỏi về
ý nghĩa và mục đích cuộc sống, về cách xây dựng một kế hoạch sống có hiệu
quả, về lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp và ý nghĩa…Để giải đáp các câu
hỏi này, khả năng nhận thức, đánh giá, cũng như khả năng thực tiễn của mỗi
cá nhân rất khác nhau, thể hiện rõ khoảng cách giữa sự phát triển tự phát và
sự phát triển có hướng dẫn . Ở nước ta hiện nay, khi mà các giá trị xã hội có
nhiều biến chuyển, không ít thanh niên chưa xác định được được giá trị, ý
nghĩa cuộc sống, không có định hướng nghề nghiệp rõ nét. Hiện tượng này
tồn tại không phải đơn thuần do trình độ phát triển tâm lý ở lứa tuổi thanh
niên chưa chín muồi mà quan trọng hơn là do những khiếm khuyết trong giáo
dục ở nhà trường, gia đình và xã hội. Thanh niên nông thôn, với những hạn
chế, khó khăn trong tiếp cận giáo dục, thông tin nên vấn đề định hướng nghề
nghiệp, xác định mục tiêu, lên kế hoạch cho tương lai của họ còn nhiều hạn
chế. Xã hội nông thôn còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, nhiều
vùng kinh tế lại dựa quá nhiều vào điều kiện tự nhiên. Nên một bộ phận thanh
24


niên nông thôn còn tồn tại cách suy nghĩ lạc hậu, có tư tưởng ỉ lại, thụ động,
không dám đột phá, không đầu tư thời gian cho việc học văn hóa, học nghề,
tin học, ngoại ngữ, không dám thoát ly gia đình đi làm xa, thanh niên nông
thôn thường xây dựng gia đình sớm, thời gian lao động ở nông thôn thường
theo mùa vụ có nhiều thời gian rảnh rỗi thường tụ tập chơi bời, la cà nhậu
nhẹt, tính kỷ luật trong lao động không cao.
Đặc điểm về trình độ học vấn: Kết quả điều tra vềlao động và việc
làm,cho thấy trình độ học vấn của thanh niên trong những năm gần đây tăng
nhanh. Số thanh niên nông thôn được theo học và tốt nghiệp trung học phổ

thông tăng mạnh. Theo số liệu điều tra lao động việc làm năm 2006 cả nước
có 5.307.034 thanh niên nông thôn đang theo học, chiếm 88,9% trong tổng số
thanh niên không hoạt động kinh tế của thanh niên nông thôn (tỷ lệ này tương
đương với thanh niên đô thị). Đặc biệt trình độ học vấn hết trung học phổ
thông của số thanh niên nông thôn tăng từ 12% năm 2003 lên 16,76% năm
2007. Tuy nhiên con số này cũng nói lên rằng trình độ học vấn của đa số
thanh niên nông thôn vẫn còn ở mức thấp.
Đặc điểm về trình độ chuyên môn nghề nghiệp: Do quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn, cơ cấu kinh tế ở các địa bàn nông thôn chuyển
dịch nhanh chóng theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dich vụ… điều
đó vừa đòi hỏi, vừa tạo cơ sở thúc đẩy thanh niên nông thôn học tập văn hóa
chuyên môn và nghiệp vụ. Thanh niên tham gia nhiều hơn các dự án đào tạo
nghề, dạy nghề và các chương trình xuất khẩu lao động nhờ vậy trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cùa thanh niên nông thôn nhanh chóng được nâng lên.
Theo số liệu của cuộc điều tra lao động việc làm năm 2002 có tới 87,63%
thanh niên nông thôn không có chuyên môn kỹ thuật, đến năm 2007 số thanh
niên nông thôn không có chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ giảm xuống còn
73,8%. Đặc biệt số thanh niên nông thôn có trình độ trung học chuyên nghiệp
và cao đẳng, đại học trở lên tăng, từ 1,3% năm 2002 lên 2,5% năm 2007. Tuy
trình độ chuyên môn nghề nghiệp của thanh niên nông thôn đang ngày càng
được nâng cao nhưng nhìn chung vẫn ở mức độ thấp,
Đặc điểm về lao động việc làm: đa số thanh niên nông thôn hiện nay vẫn
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, do chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng
dần lao đông trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ,
nên những năm qua nghề nghiệp và việc làm của thanh niên nông thôn có xu
hướng biến đổi.
25



×