Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP TRUYỀN THÔNG MÔI TRƯỜNG: XÂY DỰNG KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH TẬP HUẤN NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO CỘNG ĐỒNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐT RỪNG LÀM RẪY VÀ CÔNG TÁC BẢO VỆ RỪNG TẠI HUYỆN TRẠM TẤU, TỈNH YÊN BÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.89 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

BÁO CÁO
THỰC TẬP TRUYỀN THÔNG MÔI TRƯỜNG

Họ và tên

: Đỗ Thị Lan Anh

Lớp

: ĐH4QĐ1

Mã số SV

: 1411110172

Giảng viên hướng dẫn

: Ths. Bùi Thị Thu Trang

Hà Nội, 20/04/2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

ĐỀ CƯƠNG
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
TẬP HUẤN NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO CỘNG ĐỒNG VỀ HOẠT


ĐỘNG ĐỐT RỪNG LÀM RẪY VÀ CÔNG TÁC BẢO VỆ RỪNG TẠI
HUYỆN TRẠM TẤU, TỈNH YÊN BÁI

MỤC LỤC

Hà Nội, 20/04/2017


MỤC LỤC
4.2 Nội dung chương trình tập huấn..........................................................................................................6

1


1. Phân tích tình hình
Tỉnh Yên Bái hiện có 416.145 ha rừng có độ che phủ, trong đó diện tích rừng tự
nhiên là 240.976 ha, rừng trồng 175.169 ha, ngoài ra diện tích rừng mới trồng là
11.992 ha, tỷ lệ che phủ đạt 60,43% (2016). Trạm Tấu là một huyện vùng cao, đặc biệt
khó khăn của tỉnh Yên Bái, cách Thành phố Yên Bái 114 km về phía Nam theo tuyến
đường độc đạo tương đối hiểm trở, trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ảnh hưởng
lớn của khí hậu vùng lòng chảo Mường Lò, với độ cao địa hình từ 390 - 2.985 m so
với mặt nước biển, địa hình dốc và chia cắt mạnh. Huyện vùng cao Trạm Tấu(Yên
Bái) có diện tích rừng với gần 70.000 ha, địa hình phức tạp, người dân sống chủ yếu
dựa vào rừng và sản xuất lương thực theo tập quán đốt nương làm rẫy trong thời điểm
từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau, đây cũng là mối đe dọa gây cháy rừng ở
huyện vùng cao này.
Về mùa khô, ở Trạm Tấu nắng nóng kéo dài, cùng tác động của gió lào nên
nguy cơ cháy rừng cao. Có năm trên địa bàn huyện xảy ra hàng chục vụ cháy rừng,
gây thiệt hại nặng nề về kinh tế và môi trường sinh thái. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
các vụ cháy rừng một phần do khí hậu nắng nóng khắc nghiệt nhưng phần lớn là do bà

con đốt nương làm rẫy để cháy lan vào. Theo Thống kê của Bộ Nông Nghiệp, mùa khô
năm 2013-2014, Yên Bái xảy ra 9 vụ cháy rừng, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là
692,2 ha, trong đó rừng trồng bị cháy nhiều nhất thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ
huyện Trạm Tấu là 100,8 ha.
Nạn đốt nương làm rẫy ở huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái hiện nay vẫn diễn ra
thường xuyên, phổ biến gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đất và môi
trường không khí ở địa phương. Trong khi đó, chính quyền địa phương vẫn chưa tìm
ra biện pháp giải quyết với người dân. Trên các tuyến đường ở một số huyện, cảnh
tượng phổ biến nhất là người dân đốt rừng lấy than và để có đất canh tác. Bầu không
khí trở nên oi bức, ngột ngạt hơn.. Đi sâu vào bản, những khoảng rừng đã cháy trụi, trơ
lại các gốc cây đen nhẻm. Đâu đó là khoảng đất trống đã được phủ các loại cây keo,
bạch đàn và cây ngắn ngày như sắn, ngô.

2


Trên thực tế, các chính sách và quy định về quản lý nương rẫy trên địa bàn
huyện Trạm Tấu thời gian qua còn nhiều bất cập như: Công tác khuyến nông, khuyến
lâm chưa đạt hiệu quả cao; việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ còn hạn chế, một số mô hình canh tác chuyển giao cho đồng bào dân tộc thiểu số
không phù hợp với khả năng tài chính, truyền thống, nhận thức và trình độ của người
dân. Mặt khác, địa phương đã chuyển giao kỹ thuật trồng cây lương thực nhưng chưa
thiết lập thị trường hay mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nên sản phẩm làm ra khó tiêu thụ.
Để đảm bảo lương thực hàng năm, người dân hầu hết vẫn phải làm nương rẫy. Cho
nên, để hạn chế nạn đốt nương làm rẫy và tạo chuyển biến về nhận thức, thay đổi tập
tục, phương thức sản xuất của người dân nơi đây không phải là chuyện một sớm, một
chiều.
Theo cán bộ kiểm lâm tỉnh Yên Bái, người dân sống trong vùng lõi không có
đất sản xuất nên họ vẫn đốt rừng để lấy đất canh tác. Những năm trước đây diễn ra phổ
biến ở nhiều nơi. Gần đây, do sự vào cuộc tích cực của kiểm lâm cũng như chính

quyền địa phương nên tình trạng trên có giảm nhưng không triệt để, cứ đến mùa là họ
lại đốt. Khi phát hiện, lực lượng kiểm lâm đã tuyên truyền, vận động, giải thích cho
dân, sau đó lập biên bản xử lý... Nhưng do sức ép của miếng cơm, manh áo nên tình
trạng trên khó giải quyết dứt điểm. Rừng ở Trạm Tấu vì thế cứ bị “hóa than” để làm
rẫy.
Xuất phát từ thực trạng công tác tuyên truyền còn nhiều bất cập, từ trình độ dân
trí còn thấp và nhận thức của cộng đồng về việc cháy rừng nói riêng vẫn còn nhiều hạn
chế, và từ nhu cầu chủ quan muốn được tiếp cận tài nguyên rừng nhiều hơn nữa của
cộng đồng, thì công tác truyền thông là phương pháp không thể thiếu khi thực hiện
mục tiêu giải quyết từ gốc rễ vấn đề. Chính vì thế mà tôi viết báo cáo này để đề xuất:
“Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện chương trình tập huấn nâng cao nhận
thức cho cộng đồng về hoạt động đốt rừng làm rẫy và công tác bảo vệ rừng tại
huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái”.

3


2. Phân tích đối tượng
 Đối tượng gồm:
- Hội nông dân
- Hội phụ nữ
- Đoàn thanh niên
- Cán bộ làm tại Ban quản lý rừng phòng hộ của huyện Trạm Tấu
- Cán bộ làm tại Phòng Tài nguyên và môi trường của huyện Trạm Tấu
 Trình độ nhận thức:
- Đối với các cán bộ: Cao
- Đối với đoàn thanh niên, hội nông dân và hội phụ nữ: Vừa
 Dân tộc: Kinh, H’mông, Thái
 Ngôn ngữ truyền thông : tiếng Kinh
 Tỷ lệ nam/nữ: 3/2


4


3. Mục tiêu
-

Về kiến thức:
• Biết được thực trạng về nạn đốt rừng làm nương rẫy tại địa phương
• Biết được nguyên nhân và hậu quả của hoạt động đốt rừng làm nương
rẫy
• Liệt kê một số biện pháp môi trường và kiểm soát hoạt động đốt rừng

-

làm nương rẫy
• Lập, xây dựng và tổ chức một chiến dịch truyền thông môi trường
Về kĩ năng:
• Biết thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý môi trường
• Rà soát, thống kê, phân loại và xác định cụ thể diện tích đất canh tác
nương rẫy, phân loại xác định từng loại đất nương rẫy phù hợp
• Xây dựng một kế hoạch giáo dục, tuyên truyền kiến thức, pháp luật về

-

bảo vệ môi trường.
Về thái độ:
• Có nhận thức đúng đắn về việc bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường
xung quanh
• Có thái độ tích cực trong thực hiện công tác tuyên truyền mọi người

cùng nhau thực hiện bảo vệ môi trường.
• Góp phần truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc bảo
vệ môi trường.
• Góp phần bảo vệ môi trường tại địa phương

4. Kế hoạch, nội dung chương trình, nội dung bài giảng
4.1. Kế hoạch tổ chức tập huấn

5


STT

Đối tượng

Thời gian

Số lượng học
viên

Địa điểm

Đ/c Chủ tịch, các
phó chủ tịch huyện
Đối
tượng
1

Trạm Tấu, các cán
bộ làm công tác môi

trường, công tác

Sáng thứ 7,
ngày

Hội trường ủy ban
50

nhân dân Huyện

22/04/2017

Trạm Tấu

Đoàn thanh niên

Chiều thứ 7,

Hội trường Ủy ban

huyện Trạm Tấu –

ngày

Yên Bái

22/04/2017

Trạm Tấu


Đối

Hội phụ nữ huyện

Sáng chủ

Hội trường Ủy ban

tượng

Trạm Tấu – Yên

nhật, ngày

2

Bái

23/04/2017

Trạm Tấu

Hội nông dân huyện

Chiều chủ

Hội trường Ủy ban

Trạm Tấu – Yên


nhật, ngày

Bái

23/04/2017

quản lý rừng tại
huyện Trạm Tấu –
Yên Bái

50

50

50

nhân dân Huyện

nhân dân Huyện

nhân dân Huyện
Trạm Tấu

4.2 Nội dung chương trình tập huấn
Thời gian

Nội dung

Đơn vị thực hiện


6


8h-8h30
(14h-14h30)

8h30-8h40
(14h30-14h40)

8h40 – 9h25
(14h40-15h25)

9h25-9h40

Phát tài liệu, ổn định chỗ
ngồi

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu phối hợp với Hội nông dân,
Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên của huyện
Trạm Tấu

Giới thiệu đại biểu, tuyên
bố lý do

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu

Thực trạng hoạt động đốt
rừng làm nương rẫy tại địa

phương

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu phối hợp với Giảng viên
trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội

Chuyên đề tập huấn

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu phối hợp với Hội nông dân,
Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên của huyện

(15h25-15h40)

9h40 – 10h25

Nghỉ giải lao, uống nước

(15h40-16h25)

10h25-10h45
(16h25-16h45)

10h45-11h15
(16h45-17h15)

Chuyên đề tập huấn

Hỏi - đáp những vấn đề

chưa thỏa đáng

Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu phối hợp với Giảng viên
trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu phối hợp với Giảng viên
trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
Trạm Tấu phối hợp với Giảng viên
trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội

4.3. Nội dung bài giảng
Chuyên đề 1: Nâng cao nhận thức cộng đồng về hoạt động đốt rừng làm nương rẫy tại
huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái và đề xuất biện pháp quản lý, bảo vệ rừng.
7


- Giảng viên: ThS. Lê Đắc Trường
- Đơn vị công tác: Giảng viên khoa Môi trường, trường đại học Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội.
- Nội dung chuyên đề :






Giới thiệu về tài nguyên rừng
Nguyên nhân của hoạt động đốt rừng làm nương rẫy
Hậu quả của hoạt động đốt rừng làm nương rẫy đến môi trường
Biện pháp giải quyết
( Nội dung chuyên đề chi tiết xem phụ lục 2 đính kèm)

Chuyên đề 2: Nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát hoạt động đốt rừng làm nương
rẫy và công tác quản lý, bảo vệ rừng tại huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái
- Giảng viên: ThS. Nguyễn Khánh Linh
- Đơn vị công tác: Giảng viên khoa Môi trường, trường đại học Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội.
- Nội dung chuyên đề :





Hiện trạng rừng ở huyện Trạm Tâu, tỉnh Yên Bái.
Nguyên nhân suy giảm diện tích rừng
Biện pháp kiểm soát hoạt động đốt rừng làm nương rẫy
Biện pháp quản lý, bảo vệ rừng tại huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái.
( Nội dung chuyên đề chi tiết xem phụ lục 3 đính kèm)

5.1. Kinh phí
5.1. Nguồn kinh phí
Do ngân sách nhà nước cấp, được bố trí trong nguồn kinh phí sự nghiệp môi
trường của huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái.
5.2 Cơ sở lập dự toán kinh phí
- Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 07/05/2007 về Hướng dẫn định
mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án khoa học và công

nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.

8


- Thông tư 123/2009/TT-BTC :Quy định nội dung chi, mức chi xây dựng chương
trình khung và biên soạn chương trình, giáo trình các môn học đối với các ngành đào
tạo Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp
- Thông tư 45/2010/TTLT-BTC-BTNMT ngày 30/03/2010 về việc Hướng dẫn việc
quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường.
- Thông tư 97/2010/TT-BTC ngày 6 tháng 7 năm 2010 của Bộ Tài chính quy định
về chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với cơ quan nhà nước
và đơn vị sự nghiệp công lập
- Thông tư 139/2010/TT-BTC ngày 21 tháng 09 năm 2010 của Bộ Tài chính quy
định về việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước
- Thông tư liên tịch 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 07/05/2007 quy định về việc
lâp dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước đảm bảo cho
công tác phổ biến giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ
sở.
5.3 Tổng kinh phí thực hiện
− Số tiền ghi bằng số: 44,800,000
− Số tiền ghi bằng chữ: Bốn mươi bốn triệu tám trăm nghìn đồng
(Chi tiết kinh phí theo phụ lục 1 đính kèm)

9


PHỤ LỤC


10


PHỤ LỤC 1: Dự toán kinh phí
STT

Nội dung thực hiện

Đơn vị

I

Xây dựng đề cương

Đề cương

II

Biên soạn tài liệu

Số
lượng
1

Đơn giá
1,000,000

Thành

Ghi


tiền

chú

1,000,000
13,000,000

Chuyên đề 1: Nâng cao nhận
thức cộng đồng về hoạt động
1

đốt rừng làm nương rẫy tại

Chuyên

huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên

đề

1

6,000,000

6,000,000

1

7,000,000


7,000,000

Bái và đề xuất biện pháp
quản lý, bảo vệ rừng.
Chuyên đề 2: Nâng cao hiệu
quả công tác kiểm soát hoạt
2

động đốt rừng làm nương

Chuyên

rẫy và công tác quản lý, bảo

đề

vệ rừng tại huyện Trạm Tấu
tỉnh Yên Bái
III

Biên dịch tài liệu sang

1,300,000

tiếng dân tộc
Chuyên đề 1: Nâng cao nhận
thức cộng đồng về hoạt động

1


đốt rừng làm nương rẫy tại

Chuyên

huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên

đề

1

600,000

600,000

1

700,000

700,000

Bái và đề xuất biện pháp
quản lý, bảo vệ rừng.
2

Chuyên đề 2: Nâng cao hiệu

Chuyên

quả công tác kiểm soát hoạt


đề

động đốt rừng làm nương

11


rẫy và công tác quản lý, bảo
vệ rừng tại huyện Trạm Tấu
tỉnh Yên Bái
III

Giảng dạy

2,000,000

Chuyên đề 1: Nâng cao nhận
thức cộng đồng về hoạt động
1

đốt rừng làm nương rẫy tại
huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên

Lớp

3

500,000

1,500,000


Lớp

1

500,000

500,000

Bái và đề xuất biện pháp
quản lý, bảo vệ rừng.
Chuyên đề 2: Nâng cao hiệu
quả công tác kiểm soát hoạt
2

động đốt rừng làm nương
rẫy và công tác quản lý, bảo
vệ rừng tại huyện Trạm Tấu
tỉnh Yên Bái

IV

Tổ chức lớp học

1

Thuê Hội trường (tạm tính)

22,500,000
Ngày


2

2,000,000

4,000,000

Ngày

2

500,000

1,000,000

Thuê thiết bị giảng (Máy
2

chiếu), âm thanh, ánh sáng
… (tạm tính)

3

Pano lớp học (tạm tính)

Cái

1

500,000


500,000

4

Hỗ trợ tiền ăn cho học viên

Người

200

50,000

10,000,000

5

Nước uống

Người

200

10,000

2,000,000

6

Photo tài liệu tập huấn


quyển

200

10,000

2,000,000

7

Văn phòng phẩm

Bộ

200

15,000

3,000,000

V

Các chi phí khác

1

Thuê xe đưa đón giảng viên

5,000,000

Chuyến

12

1

2,000,000

2,000,000


và thiết bị trợ giảng (Hà Nội
- Yên Bái - Hà Nội)
2

2

Thuê phòng nghỉ cho giảng

Ngày

2

500,000

1,000,000

Lớp

4


500,000

2,000,000

Tổng cộng (mục I + mục II + mục III + mục IV + mục V)

44,800,000

viên (2 giảng viên)
Chi phí khác: bút dạ, giấy
A4, giấy A0… (tạm tính)

Số tiền viết bằng chữ: Bốn mươi bốn triệu tám trăm nghìn đồng

Người lập

Đỗ Thị Lan Anh

13


PHỤ LỤC 2: Chuyên đề 1
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ 1

NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG VỀ HOẠT
ĐỘNG ĐỐT RỪNG LÀM NƯƠNG RẪY TẠI HUYỆN TRẠM
TẤU, TỈNH YÊN BÁI VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ,
BẢO VỆ RỪNG


14


1. Mục lục
4.2 Nội dung chương trình tập huấn..........................................................................................................6

2. Tính cấp thiết của chương trình tập huấn
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người. Nếu
môi trường sống bị hủy hoại thì loài người có nguy cơ bị hủy diệt. Cuộc sống của con
người luôn gắn bó mật thiết với môi trường: Môi trường tạo không gian sinh sống cho
con người, là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho sự sống và hoạt động sản
xuất của con người, là nơi chứa đựng, hấp thụ và trung hòa các chất thải ra từ quá trình
sinh sống và sản xuất của con người. Tuy vậy, quá trình hoạt động của con người đã vi
phạm nghiêm trọng các yếu tố cân bằng của tự nhiên một cách liên tục và ngày càng
lớn, đã và đang làm cho thế giới ngày càng biến đổi: Đó là sự ô nhiễm của môi trường,
sự cạn kiệt của tài nguyên, sự mất đi của rừng, sự biến đổi của khí hậu, sự biến mất
hay tuyệt chủng của nhiều loài,…(Lê Văn Khoa, 1995).
Chúng ta vẫn thường nghe câu nói “Rừng vàng, biển bạc”. rừng là tài nguyên
quý giá của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế xã hội mà còn

1


giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hòa khí
hậu, đảm bảo chu chuyển oxy, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ
lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên
tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí.
Vậy mà hiện nay tại huyện Trạm Tấu, người dân đang đốt rừng để làm nương
rẫy, phục vụ cho lợi ích cá nhân mà vô tình làm nguy hại đến lợi ích xã hội. hoạt động
đốt rừng làm nương rẫy vào mùa khô chính là một trong những tác nhân gây nên cháy

rừng tại địa phương, làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh
Thực trạng môi trường ô nhiễm do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do
ý thức con người, do nhận thức không đúng đắn và đầy đủ về môi trường và trách
nhiệm bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường đã, đang và sẽ là vấn đề sống còn đối với mỗi con người,
mỗi gia đình, mỗi cộng đồng dân cư; là việc phải làm thường xuyên, liên tục và là
trách nhiệm của mọi công dân.
Xác định nâng cao ý thức của người dân là giải pháp giữ vai trò quyết định.
Hơn nữa, bà con cũng rất mong muốn có điều kiện để vừa phát triển vừa giữ gìn được
môi trường. Nạn phá rừng là vấn đề bức xúc nhất tại huyện Trạm Tấu nói riêng và tỉnh
Yên Bái nói chung, cần được giải quyết. Do tình trạng thiếu hiểu biết và không nhận
thức được hành vi của người dân và sự lúng túng của các cán bộ thị trấn trong việc giải
quyết vấn đề này nên việc tổ chức chương trình tập huấn là cần thiết để nâng cao hiểu
biết cho các cán bộ môi trường và người dân. Vì vậy, buổi tập huấn “Nâng cao nhận
thức cộng đồng về hoạt động đốt rừng làm nương rẫy tại huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên
Bái và đề xuất biện pháp quản lý, bảo vệ rừng” đã được tổ chức.
3. Thực trạng tại địa phương
Vốn được mệnh danh là ‘lá phổi’’ của Trái Đất, rừng có vai trò quan trọng trong
việc duy trì cân bằng hệ sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta. Rừng
tham gia vào quá trình điều hòa khí hậu duy trì tính ổn định, hạn chế lũ lụt, ngăn chặn
xói mòn đất, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày
nay tài nguyên thiên nhiên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, ở Việt
Nam tình trạng phá rừng, mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng triệu ha rừng ngày
2


càng bị cạn kiệt và hẹp lại. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt những tác động tiêu cực
đến nền kinh tế và xã hội của nước ta, giảm diện tích đất gieo trồng khiến tình trạng
đói nghèo và thất nghiệp ở khu vực càng đáng lo ngại hơn, gây hiệu ứng nhà kính gây
hiểm họa cho thế giới và toàn cầu (Phạm Ngọc Đăng, 2004). Và hoạt động đốt rừng

làm nương rẫy đang rất phổ biến ở huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái, đang làm nguy hại
cho huyện Trạm Tấu nói riêng và tỉnh Yên Bái nói chung, hơn nữa làm ảnh hưởng đến
cả Việt Nam.
Với trên 70.000ha rừng các loại, nhiều diện tích rừng nằm xen kẽ với các khu
dân cư, người dân lại có tập quán đốt nương làm rẫy. Qua thống kê những năm gần
đây cho thấy các vụ cháy rừng xảy ra trên địa bàn vùng cao này nguyên nhân chủ yếu
do bà con đốt nương làm rẫy để cháy lan ra khắp nơi. Tính từ mùa khô hanh đến nay,
trên địa bàn xảy ra 4 vụ cháy rừng, làm thiệt hại 108 ha, trong đó có 3 vụ xuất phát từ
hành vi đốt nương của người dân. Vụ cháy rừng tại tiểu khu 331 khu vực rừng gần bản
Phình Hồ, xã Dế Xu Phình xuất phát từ hành vi đốt nương của người dân trong bản.
Vụ cháy đã thiêu trụi gần 29ha, trong đó có 8,4ha rừng thông, sơn tra trồng từ năm
2008, còn lại là hơn 20ha đồng cỏ. Có vụ cháy gây ra do đối tượng vị thành niên, như
trường hợp vụ Giàng Thị Phua, 14 tuổi do bất cẩn trong quá trình đốt nương làm rẫy
đã làm cháy 4,4 ha rừng ở bản Rào Cu Nha, xã Lao Chải. Bên cạnh đó, lực lượng kiểm
lâm, chính quyền địa phương chưa bám sát cơ sở để chỉ đạo việc đốt nương rẫy của
đồng bào vùng cao. Hiện nay, nhiều nơi các hộ dân còn đói lúc giáp hạt; ruộng một vụ,
diện tích canh tác ít nên sản xuất nương rẫy còn tồn tại. Mặc dù, Nhà nước đã có nhiều
chính sách quan tâm đến đời sống của đồng bào vùng cao, đồng bào các dân tộc,
nhưng chưa thể trong “một sớm một chiều” mà thay đổi được tâm lý vốn đã ăn sâu
trong cuộc sống của bà con. Tình trạng đốt rừng làm nương rẫy đã được hạn chế
nhưng vẫn còn một số hộ chưa chấp hành nghiêm, vẫn lén lút thực hiện, vì thế nguy cơ
cháy rừng vẫn xảy ra.
Từ đỉnh đèo Khau Phạ, bên cạnh những cánh rừng thông mã vĩ là những quả
đồi trọc chưa được phủ xanh, chen vào đó là những đám cháy do người dân đốt nương,
rẫy. Trong số các huyện phía tây của tỉnh, Trạm Tấu có nhiều khó khăn nhất với gần
76% số dân thuộc diện đói nghèo theo tiêu chí mới. Dân cư chủ yếu là dân tộc Mông,
vẫn còn tập quán canh tác đốt rừng làm nương rẫy, chăn thả gia súc. Cuộc sống của

3



người dân bốn xã Nậm Khắt, Dế Xu Phình, La Văn Tẩn, Púng Luông đến giờ vẫn còn
nhiều khó khăn. Người dân gắn bó với rừng, bảo vệ rừng nhưng chưa sống nổi nhờ
rừng.
Phương thức canh tác nương rẫy chủ yếu ở địa phương hiện nay là quảng canh,
phát đốt rừng giâm cành, tra hạt. Năng suất cây trồng phụ thuộc hoàn toàn vào thiên
nhiên và đất đai. Theo tập quán truyền thống các dân tộc khác nhau có những phương
thức canh tác khác nhau, nhưng tựu chung được thể hiện ở 3 dạng cơ bản sau:
Một là: Phương thức của Người Mông: Canh tác từ độ cao 700 m trở lên. phát
đốt rừng canh tác nương rẫy liên tục trong một số năm (3-5 năm tuỳ theo chất lượng
đất rừng) đến khi đất bạc màu hoàn toàn không có khả năng canh tác thì bỏ chuyển
sang vùng khác còn rừng, đất tốt. Cơ cấu cây trồng là Lúa nương, Ngô, Sắn và một số
cây đặc sản của địa phương, rau màu ở ven khe suối, trong thung lũng hẹp.
Phương thức này rất tai hại, đã làm cho rừng không còn khả năng phục hồi;
mọc sau nương rẫy chỉ có lau lách, cỏ tranh, gây nên tình trạng lũ quét, lũ ống khi có
mưa to, đất đai bị xói lở, bào mòn và rửa trôi, dẫn đến tình trạng đất trống, đồi núi trọc
tăng nhanh.
Hai là: Canh tác rẫy quay vòng của người Thái: Canh tác từ độ cao 300m-700m,
nương rẫy được canh tác trong vòng 2-3 năm, sau đó bỏ hoá hoàn toàn cho rừng phục
hồi 5-7 năm sau lại phát đốt làm nương rẫy trở lại. Đây là một phương canh tác nương
rẫy khá tốt. Nếu có quản lý và quy hoạch thì sẽ duy trì việc sử dụng đất lâu dài.
Cơ cấu cây trồng: Năm đầu trồng lúa nương hoặc ngô, năm thứ hai trồng sắn,
bí, đậu và trồng xen rau màu, cây trồng khác của địa phương. Từ năm thứ ba bỏ hoá
cho rừng tái sinh phục hồi.
Ba là: Canh tác nương rẫy bổ trợ: Của người Thái và người Kinh sống ở miền
núi. Nương rẫy canh tác liền kề với ruộng nước ổn định ở các vùng đồi núi thấp, thung
lũng chủ động tưới tiêu theo mô hình ruộng - rẫy nông lâm kết hợp lâu dài.
Những đặc trưng cơ bản và tồn tại trong canh tác nương rẫy hiện nay ở địa
phương:
- Cơ cấu cây trồng trong canh tác nương rẫy ít biến đổi: Diện tích cây lương

thực Lúa nương, ngô, sắn, khoai chiếm tỷ lệ từ 75-80% diện tích canh tác. Các loại cây
4


trồng khác như bí, rau màu, đậu, cây công nghiệp, một số cây đặc sản của địa phương
diện tích khoảng 20-25% .
- Sản xuất mang tính tự cung tự cấp, phục vụ cho nhu cầu hàng ngày, manh
mún, nhỏ lẻ, ít hoặc không có khả năng sản xuất hàng hoá.
- Năng suất cây trồng ngày càng giảm do thời gian sử dụng đất kéo dài, không
chủ động tưới tiêu, chăm bón thâm canh, chu kỳ quay vòng đất bị rút ngắn nên đất đai
bị thoái hoá, khả năng tái sinh, phục hồi rừng sau khi bỏ rẫy rất kém.
- Việc di dân tự do, cùng với tác động cơ chế thị trường đồng bào du canh đã có
biểu hiện tranh giành giữ đất hoặc bán đất canh tác, tiếp tục tiến sâu vào rừng để làm
rẫy. Như vậy ý thức sử dụng đất theo kiểu luân canh, phục hồi độ phì của đất giảm dần
và áp lực về xâm lấn rừng, phá rừng để lấy đất canh tác càng mạnh mẽ hơn.
- Khó áp dụng khoa học công nghệ, các thành tựu về giống cây con do đồng bào
không được tiếp cận hoặc do phong tục tập quán và tính bảo thủ trì trệ.
- Thiếu thông tin về giá cả, thị trường tiêu thụ, cơ sở chế biến; đồng bào thiếu
vốn đầu tư phát triển sản xuất, chăn nuôi, tình trạng sử dụng vốn vay, vốn trợ cấp kém
hiệu quả.
- Các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo để hạn chế
phát rừng làm rẫy đầu tư thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao và chưa bền vững.
- Công tác khuyến nông, khuyến lâm chưa được chú ý và quan tâm đúng mức.
Một số mô hình canh tác chuyển giao cho đồng bào không phù hợp với khả năng tài
chính, truyền thống, nhận thức và trình độ của người dân. Một số dự án chuyển giao
kỹ thuật trồng cây sản xuất hàng hoá cho đồng bào nhưng lại không thiết lập thị trường
hay mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến tình trạng người dân không tiêu thụ được
sản phẩm làm ra.
- Chưa có chính sách, quy định rõ ràng về cơ chế quản lý về nương rẫy một
cách hệ thống và toàn diện. Công tác quản lý Nhà nước về nương rẫy thiếu thống nhất,

nhiều đầu mối, thiếu sự phối hợp và chỉ đạo chung của chính quyền địa phương.

5


- Chưa có chính sách đồng bộ, cụ thể bảo đảm xây dựng sinh kế bền vững trên
đất nương rẫy như chính sách hỗ trợ về vật chất, tài chính, kỹ thuật, công nghệ và thị
trường.
- Công tác quy hoạch vùng sản xuất nương rẫy còn nhiều hạn chế, chưa được
coi trọng đúng mức, không gắn với quy hoạch sử dụng đất và giao đất, giao rừng, còn
nặng tính hình thức, dẫn đến tình trạng hoạt động canh tác của người dân không theo
quy hoạch. Trước những bức xúc về thiếu đất canh tác người dân phải phá rừng để lấy
đất sản xuất.
- Chính quyền các cấp ở địa phương chưa tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác
quản lý sản xuất nương rẫy một cách có hiệu quả và thường xuyên, chưa có quy định
cụ thể trong việc phát đốt nương làm rẫy. Công tác kiểm tra, giám sát còn coi nhẹ và
thực hiện xử phạt chưa nghiêm minh.
- Mặc dù Nhà nước rất quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội của người dân
miền núi, tuy nhiên đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, công trình
thuỷ lợi, chế biến nông lâm sản ở vùng sâu, vùng xa còn quá ít chưa đáp ứng với yêu
cầu.
4. Nội dung chính
4.1. Giới thiệu về tài nguyên rừng
4.1.1. Tài nguyên rừng
Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò
to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy,
điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm (Lê Thạc
Cán,1995).
Rừng là thành phần quan trọng nhất của sinh quyển và có ý nghĩa lớn trong sự
phát triển KTXH, sinh thái và MT. Theo quan điểm học thuyết sinh thái học, rừng

được xem là HST điển hình trong sinh quyển (Tenslay,1935; Vili, 1957; Odum, 1966).
Rừng là sự thống nhất trong mối quan hệ biện chứng giữa sinh vật - trong đó thực vật
với các loại cây gỗ giữ vai trò chủ đạo, đất và môi trường (Lưu Đức Hải, 2001).

6


Một ha rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 – 500 kg, 16 tấn
oxy( rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 – 10 tấn). Mỗi người một năm cần 4000 kg O 2
tương ướng với lượng oxy do 1000 – 3000 m 2 cây xanh tạo ra trong năm. Nhiệt độ
không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 – 5 0C.Rừng bảo vệ và
ngăn chặn gió bão. Hệ số dòng chảy trên mặt đất có độ che phủ 35%, lớn hơn đất có
độ che phủ 75% hai lần. Lượng đất xói mòn của vùng đất có rừng chỉ bằng 10% lượng
đất xói mòn của vùng đất không có rừng (Lê Văn Khoa, 1995).
4.1.2. Tầm quan trọng của tài nguyên rừng
Rừng là một hợp phần quan trọng nhất cấu thành nên sinh quyển. Ngoài ý nghĩa
về tài nguyên động thực vật, rừng còn là một yếu tố địa lý không thể thiếu được trong
tự nhiên; nó có vai trò cực kỳ quan trọng tạo cảnh quan và có tác dụng mạnh mẽ đến
các yếu tố khí hậu, đất đai.Vì vậy, rừng không chỉ có chức năng trong phát triển kinh
tế xã hội mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong bảo vệ môi trường.
Rừng có ảnh hưởng đến nhiệt độ, độ ẩm không khí, thành phần khí quyển và có
ý nghĩa điều hòa khí hậu. Rừng không chỉ chắn gió mà nó còn làm sạch không khí và
có ảnh hưởng lớn đến vòng tuần hoàn cacbon trong tự nhiên. Là máy lọc bụi khổng lồ,
trung bình trong 1 năm,1 ha rừng thông có khả năng hút 36,4 tấn bụi từ không khí.
Rừng còn tạo ra một hoàn cảnh tiểu khí hậu có tác dụng tốt đến sức khỏe con
người. Rừng làm giảm nhiệt độ và tăng độ ẩm không khí. Rừng có vai trò bảo vệ
nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn. Là kho chứa các chất dinh dưỡng khoáng,
mùn và ảnh hưởng lớn đến độ phì nhiêu của đất (Lê Văn Khoa, 1995).
4.1.3. Sự phân bố tài nguyên rừng trên thế giới
− Các kiểu thảm thực vật rừng quan trọng trên thế giới là:

• Rừng lá kim (rừng Taiga) vùng ôn đới có thành phần khá đồng nhất,
phân bố chủ yếu ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Bắc Trung Quốc và một số vùng núi cao
nhiệt đới. Kiểu rừng này có năng suất thấp hơn vùng nhiệt đới.
• Rừng rụng lá ôn đới phân bố ở vùng thấp hơn và gần vùng nhiệt đới hơn, chủ
yếu ở Đông Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Âu, một phần Trung Quốc, Nhật Bản,
Australia.

7


• Rừng mưa nhiệt đới có độ Đa dạng sinh học cao nhất. Phân bố chủ yếu ở vùng
xích đạo thuộc lưu vực sông Amazone (Nam Mỹ), sông Congo (Châu Phi), Ấn
Độ, Malaysia.
• Trong đó dãi rừng Ấn Độ - Malaysia có sự đa dạng sinh học trên một đơn vị
diện tích là cao nhất, có tới 2.500 – 10.000 loài thực vật trong một khu
vực hẹp và có tới 7 tầng cây với các loài cây quý như lim (Erythrophleum sp),
gụ (Sindora sp), chò chỉ (Shorea chinensis), lát (Chukrasia sp). Do có sự biến
đổi phức tạp về chế độ mưa, gió mùa và nhiệt độ, rừng nhiệt đới thường rất
phức tạp cả về thành phần loài và cấu trúc của rừng (Tăng Văn Đoàn, 2001).
− Sự suy giảm diện tích rừng và suy thoái rừng.
Tài nguyên rừng trên Trái đất ngày càng bị thu hẹp về diện tích và trữ lượng.
Theo tài liệu mới công bố của Quỹ bảo vệ động vật hoang dã (WWF, 1998), trong thời
gian 30 năm (1960 – 1990) độ che phủ rừng trên toàn thế giới đã giảm đi gần 13%, tức
diện tích rừng đã giảm đi từ 37 triệu km 2 xuống 32 triệu km2, với tốc độ giảm trung
bình 160.000km2/năm. Sự mất rừng lớn nhất xãy ra ở các vùng nhiệt đới, ở Amazone
(Braxin) trung bình mỗi năm rừng bị thu hẹp 19.000 km 2 trong suốt hơn 20 năm qua.
Bốn loại rừng bị hủy diệt khá lớn là rừng hỗn hợp và rừng ôn đới lá rộng 60%, rừng lá
kim khoảng 30%, rừng ẩm nhiệt đới khoảng 45% và rừng khô nhiệt đới lên đến
khoảng 70%. Châu Á là nơi mất rừng nguyên sinh lớn nhất, khoảng 70%. Hiện
nay, diện tích rừng đang bị suy giảm mạnh (Mai Đình Yên, 2013).

4.1.4. Sự phân bố rừng ở Việt Nam










Các kiểu rừng chính ở Việt Nam
Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh nhiệt đới
Kiểu rừng kín lá rộng nửa rụng lá nhiệt đới
Kiểu rừng kín lá rộng rụng lá nhiệt đới
Kiểu rừng thưa cây lá rộng nhiệt đới (rừng khộp)
Kiểu rừng kín thường xanh ẩm á nhiệt đới
Kiểu rừng ngập mặn
Kiểu rừng núi đá vôi
Kiểu rừng lá kim
− Phân bố
Ba phần tư diện tích của nước ta là rừng. Rừng tạo thành nan quạt ở Bắc Bộ,
rừng trên dãy Trường Sơn, rừng ven biển, rừng trên các hải đảo. Rừng phân bố ở khắp
mọi nơi và có đủ loại rừng. Tùy theo đặc điểm của từng cánh rừng mà có sự phân bố
8


khác nhau. Càng lên cao, sự phân bố các loài cây càng rõ nét. Chẳng hạn như rừng phi
lao chạy dọc tít khắp các bờ biển. Rừng nhiệt đới hầu hết phân bố ở vùng thấp từ 100m
trở xuống thấp ở Nam Bộ và từ 600-700m ở miền Bắc. Rừng cận nhiệt đới là ở miền

núi, miền Nam độ cao 1000-2600m; miền Bắc 600-2400m. Rừng rậm phân bố 26 gần
hết cả nước, nhất là những vùng thấp và vùng núi thấp; nhiều rừng rậm như Cúc
Phương, Khe Choang, Quảng La, Sa Pa, Hòn Bà, Mường Phang hay Tà Phình, Ngọc
Áng,… . Các rừng kín vùng cao thường chủ yếu ở miền Bắc, thấy nhiều ở các vùng
đèo….
− Hiện trạng
Rừng nước ta ngày càng suy giảm về diện tích và chất lượng, tỉ lệ che phủ thực
vật dưới ngưỡng cho phép về mặt sinh thái, ¾ diện tích đất đai của nước ta (so với
diện tích dất tự nhiên) là đồi núi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên rừng rất quan trọng
trong việc cân bằng sinh thái. Tính đến năm 2016 nước ta có tổng diện tích rừng là
20.172.075 ha, trong đó rừng tự nhiên là 15.586.816 ha và rừng trồng là 4.585.259 ha.
Độ che phủ rừng toàn quốc là 39,5%. Hiện nay, nạn phá rừng ở nước ta đã đến mức
báo động, phá rừng theo cách đơn giản nhất để làm nương rẫy, phá rừng để kiếm
khoáng sản, phá rừng lấy gỗ… và vô vàng những kiểu tiếp tay vi phạm pháp luật khác
đang hủy hoại lá phổi xanh của đất nước. Theo thống kê của cục kiểm lâm vào
12/2016: cả nước có 5205,74 ha rừng bị tàn phá (Nguyễn Văn Tuấn, 2016).
4.2. Nguyên nhân của hoạt động đốt rừng làm nương rẫy
Từ những thực trạng của việc đốt rừng làm nương rẫy ở huyện Trạm Tấu nói
riêng và ở tỉnh Yên Bái nói chung, chúng ta có thể nêu ra được các nguyên nhân của
hoạt động đốt rừng làm nương rẫy.
Cuộc sống người dân ở các bản làng xã huyện Trạm Tấu từ bao đời nay vẫn
hoàn toàn dựa vào rừng, dường như tập quán sản xuất nương rẫy của dân bản vẫn còn
phổ biến. Một phần là do diện tích sản xuất lúa nước quá ít, một phần là do thói quen
du canh, sản xuất mà không phải đầu tư chăm bón của con người. Bình quân mỗi năm,
khoảng 450 ha rừng đã bị bà con đốt phá để làm rẫy. Bên cạnh những gốc cây trơ trọi,
một số người dân đang gom góp lại ít cành củi chưa cháy hết để lấy đất trồng cây
lương thực.

9



×