Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU MÔN NGỮ VĂN LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.49 KB, 21 trang )

Tác giả chuyên đề:
Họ và tên: Trịnh Thành Hiếu, Đào Thị Tươi
Chức vụ: Giáo viên
Trường: THCS Thị trấn Vĩnh Tường
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHỤ ĐẠO
HỌC SINH YẾU MÔN NGỮ VĂN LỚP 9
1. Lời giới thiệu
Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học
sinh yếu là mục tiêu cơ bản hàng đầu, là mối quan tâm lớn đối với sự nghiệp giáo
dục hiện nay. Riêng về vấn đề học sinh yếu đang được các lực lượng giáo dục quan
tâm đặc biệt và tìm giải pháp để khắc phục. Đó thực sự là một nhiệm vụ khó khăn,
một thách thức không nhỏ đối với người giáo viên. Để nâng cao chất lượng học
sinh yếu không phải là chuyện một sớm một chiều mà nó đòi hỏi sự kiên trì và lòng
quyết tâm của người giáo viên trong suốt cả một quá trình. Khó khăn là vậy nhưng
mỗi người thầy khi đứng trên bục giảng đều cần phải thực hiện, vì mục tiêu giáo
dục, vì tương lai của đất nước. Hơn nữa, giải quyết được điều này còn góp phần tạo
nên ở mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học khoa học, hiện đại,
hiệu quả nhằm đáp ứng được yêu cầu của đổi mới giáo dục.
Việc phụ đạo học sinh yếu ở bất kì bộ môn nào, cấp học nào đều rất cần thiết,
nhưng trong trường THCS, công tác phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn lớp 9 lại
càng trở nên cấp bách hơn vì đây là đối tượng học sinh sắp tốt nghiệp THCS, chuẩn
bị chuyển lên cấp học cao hơn với những yêu cầu cao hơn. Vì thế, vấn đề đặt ra là
làm thế nào để công tác phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn lớp 9 mang lại hiệu
quả. Đây đang là vấn đề mà các nhà trường đặc biệt quan tâm.
Trong chuyên đề này, nhóm giáo viên Ngữ văn Trường THCS TT Vĩnh Tường
chúng tôi xin trình bày những suy nghĩ về các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
học sinh yếu môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS.
2. Thực trạng chất lượng môn Ngữ văn lớp 9 của trường THCS Thị trấn Vĩnh
Tường
2.1. Thực trạng
Trên địa bàn thị trấn Vĩnh Tường, ngoài trường THCS Thị trấn Vĩnh Tường


còn có trường THCS Vĩnh Tường, trường trọng điểm chất lượng cao của huyện.
Hàng năm trường THCS Vĩnh Tường tuyển sinh lớp 6 khoảng từ 50 – 60% số học
sinh khá giỏi lớp 5 của trường Tiểu học Thị trấn Vĩnh Tường, số còn lại được tuyển
vào trường THCS Thị trấn Vĩnh Tường, đa số là những em có học lực trung bình,
1


một số học lực yếu, thậm chí rất yếu, ý thức thực hiện nề nếp và học tập chưa cao.
Do chất lượng tuyển sinh đầu vào rất thấp nên nhà trường rất vất vả, khó khăn trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục. Riêng đối với môn Ngữ văn, số học sinh học yếu
chiếm tỉ lệ không nhỏ. Nhiều em chữ viết xấu, sai chính tả. Có những em không biết
viết bài tập làm văn, cho dàn ý thì không biết cách diễn đạt thành bài văn hoàn
chỉnh, khi cho đề về nhà thì lên mạng chép. Có những em bài vừa học hôm trước,
hôm sau hỏi lại không nhớ kiến thức nào, ngay cả tên tác giả; có em nhớ sai chi tiết
trong tác phẩm, không thuộc văn bản thơ, dù là văn bản rất ngắn…
Vì vậy, trong những năm qua, các giáo viên bộ môn Ngữ văn chúng tôi đã
phải cố gắng rất nhiều trong giảng dạy, luôn chú trọng đến việc tìm giải pháp nâng
cao chất lượng bộ môn, đặc biệt là công tác phụ đạo học sinh yếu. Chúng tôi không
ngừng tìm tòi, nghiên cứu, xây dựng các giải pháp và vận dụng vào giảng dạy. Vì
thế, chất lượng môn Ngữ văn của nhà trường đã có những bước tiến đáng kể. Chất
lượng đại trà và chất lượng học sinh yếu cũng được nâng lên. Điều này thể hiện rõ
qua kết quả thi tuyển vào lớp 10 THPT. Sau đây là bảng thống kê kết quả thi vào
lớp 10 của trường THCS Thị trấn Vĩnh Tường từ năm 2018 trở về trước:

Năm

2015

2016


2017

2018

Xếp thứ

17/30

13/30

11/30

6/30

Trong năm học 2018 – 2019 vừa qua, các thầy cô giáo trường THCS Thị trấn
Vĩnh Tường vẫn tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, nỗ lực không ngừng, áp
dụng các biện pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu đã thực hiện từ những năm
trước. Tuy nhiên, kết quả thi tuyển vào lớp 10 năm 2019 của nhà trường lại thấp
hơn so với các năm học trước, trong đó có môn Ngữ văn.
Môn

Điểm TB/tỉnh

So với 2018

Xếp thứ huyện

Xết thứ tỉnh

Ngữ Văn


5,8/5,86

+ 0,4

23/30

75/148

Kết quả trên cho thấy môn Văn tuy có điểm tăng trưởng cao hơn so với năm
học trước nhưng xếp thứ tự trong huyện lại thấp hơn.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên
Trước thực trạng có nhiều học sinh học yếu môn Ngữ văn và kết quả tuyển
sinh vào lớp 10 năm học 2018 – 2019 của trường bị thấp đi như vậy, chúng tôi rất
trăn trở và đã đi tìm nguyên nhân. Theo chúng tôi, có một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, như đã nói ở trên, do chất lượng đầu vào lớp 6 thấp. Đặc biệt, năm
2015 (năm tuyển sinh khóa học sinh lớp 9 vừa tốt nghiệp), nhà trường chỉ tuyển
được 36/110 học sinh lớp 5 của trường TH Thị trấn Vĩnh Tường, bằng 33%; số học
2


sinh còn lại của lớp 5 đỗ vào trường THCS Vĩnh Tường (do năm đó là năm đầu tiên
thực hiện thông tư 30 ở cấp Tiểu học, không thi HSG lớp 5 nên học sinh các xã khác
nộp hồ sơ tuyển sinh vào lớp 6 trường THCS Vĩnh Tường rất ít, vì thế, 100% học
sinh trên địa bàn thị trấn nộp hồ sơ tuyển sinh vào lớp 6 trường THCS Vĩnh Tường
đều đỗ). Như vậy, chỉ với 36/110 học sinh tuyển được thì chất lượng của khóa học
này của nhà trường rất thấp, có lẽ thấp hơn tất cả các trường THCS trong huyện.
Thứ hai, do tỉ lệ học sinh dự thi vào lớp 10 THPT của trường khá cao. Năm
2018 – 2019, tỉ lệ học sinh thi vào lớp 10 của nhà trường là 97,5%, so với tỉ lệ
chung của huyện là 83,5%. Trong khi đó, nhiều trường chỉ có 55 đến 70% học sinh

dự thi, đó đều là học sinh khá giỏi.
Thứ ba, tuy giáo viên bộ môn vẫn áp dụng các phương pháp phụ đạo học sinh
yếu như các năm trước nhưng có thể còn thiếu đi những phương pháp thật sự phù
hợp với đối tượng học sinh khóa này nên kết quả chưa được như mong đợi.
Thứ tư, một số phụ huynh chưa nhận thức được vai trò của gia đình đối với
việc kết hợp với nhà trường trong giáo dục con cái; một số còn mải làm ăn nên phó
mặc việc học tập của con em mình cho nhà trường; một số gia đình còn có nhiều
khó khăn về điều kiện kinh tế, chưa thật quan tâm đến việc học tập của con em
mình.
Thứ năm, một bộ phận học sinh chưa xác định được mục đích, động cơ học
tập nên còn lười học. Hơn nữa, môn Ngữ văn lại là bộ môn học vừa khó vừa không
phải là môn thời thượng nên nhiều em càng ngại học.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu môn Ngữ văn lớp 9
Từ thực trạng học sinh lớp 9 học yếu môn Ngữ văn, và từ các nguyên nhân
nêu trên, năm học 2019 – 2020 này, nhóm giáo viên Văn chúng tôi tiếp tục xây
dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu.
3.1. Duy trì các giải pháp đã thực hiện ở những năm học trước
3.1.1. Lập danh sách học sinh yếu và tìm hiểu đặc điểm yếu kém của mỗi học
sinh
Bước đầu tiên, qua kết quả bộ môn của năm học trước và qua bài khảo sát
chất lượng đầu năm, chúng tôi tiến hành lập danh sách học sinh yếu của khối 9,
đồng thời, nắm bắt những điểm yếu của từng học sinh để có hướng phụ đạo và quan
tâm phù hợp.
3.1.2. Xây dựng chương trình phụ đạo phù hợp
Sau khi lập danh sách học sinh yếu và nắm được những biểu hiện yếu kém
của từng học sinh, căn cứ vào kế hoạch phụ đạo của nhà trường, chúng tôi tiến hành
xây dựng chương trình phụ đạo. Nội dung phụ đạo bám sát kiến thức sách giáo
khoa, không đưa kiến thức mở rộng nâng cao. Chương trình được xây dựng thành
các bài ôn theo chuyên đề, thực hiện xuyên suốt cả năm học, cuối mỗi học kì có bài
3



kiểm tra tổng hợp để đánh giá kết quả học phụ đạo của học sinh. Chương trình được
tổ chuyên môn và lãnh đạo chuyên môn nhà trường kí duyệt.
Sau đây là chương trình phụ đạo học sinh yếu môn Ngữ văn khối 9 năm học
2019 – 2020 của trường chúng tôi, bắt đầu thực hiện từ tuần học thứ 4 của năm học.
CHƯƠNG TRÌNH PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU
NĂM HỌC 2019 – 2020
MÔN: Ngữ văn lớp 9

I. Thông tin chung:
Cả năm

Kì I

Kì II

Số buổi

30

15

15

Số tiết

90

45


45

Mỗi buổi: 3 tiết
II. Chương trình cụ thể:
HỌC KÌ I
Buổi

Tên bài

1

Văn bản nhật dụng

2

Các phương châm hội thoại

3

Văn xuôi trung đại Việt Nam

4

Văn xuôi trung đại Việt Nam (tiếp theo)

Ghi chú

4



5

Văn xuôi trung đại Việt Nam (tiếp theo)

6

Sự phát triển của từ vựng
Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp

7

Truyện thơ trung đại Việt Nam

8

Truyện thơ trung đại Việt Nam (tiếp theo)

9

Truyện thơ trung đại Việt Nam (tiếp theo)

10

Thơ hiện đại Việt Nam

11

Thơ hiện đại Việt Nam (tiếp theo)


12

Thơ hiện đại Việt Nam (tiếp theo)

13

Truyện hiện đại Việt Nam

5


14

15

Truyện hiện đại Việt Nam (tiếp theo)

Kiểm tra tổng hợp
Chữa bài kiểm tra

HỌC KÌ II

Buổi

Nội dung

16

Truyện hiện đại Việt Nam (tiếp theo)


17

Truyện hiện đại Việt Nam (tiếp theo)

18

Khởi ngữ

Ghi chú

Các thành phần biệt lập

19

Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống

Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
20

21
Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí (tiếp theo)

6


22

Liên kết câu và liên kết đoạn văn

23


Thơ hiện đại Việt Nam (tiếp theo)

24

Thơ hiện đại Việt Nam (tiếp theo)

25

Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích

26

Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích (tiếp theo)

27

Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

28

Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ (tiếp theo)

29

Truyện hiện đại Việt Nam (tiếp theo)

30
Kiểm tra tổng hợp


7


Chữa bài

3.1.3. Phương pháp dạy học đặc trưng đối với một số kiểu bài trọng tâm trong
chương trình
3.1.3.1. Cách làm các kiểu bài nghị luận văn học
Trong chương trình Ngữ văn lớp 9, nghị luận văn học bao gồm hai kiểu bài
cụ thể: nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn
thơ, bài thơ. Đối với kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), chủ
yếu nghị luận về nhân vật.
3.1.3.1.1. Yêu cầu của đề bài:
Ví dụ về đề bài:
Đề 1: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Đề 2: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện
ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Đề 3: Cảm nhận về nhận vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long.
* Phân tích: Nói tới phân tích tức là nói tới việc mổ xẻ, chia tách đối tượng
ra thành các phương diện, các bộ phận khác nhau để tìm hiểu, khám phá, cắt nghĩa.
Cuối cùng là tổng hợp, khái quát, chỉ ra được sự thống nhất. Như vậy, phân tích là
yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét của người viết (người nói).
* Suy nghĩ: Là nhận xét, nhận định, phân tích về tác phẩm của người viết ở
góc nhìn nào đó về chủ đề, đề tài, hình tượng nhân vật, nghệ thuật…
* Cảm nhận: Là cảm thụ của người viết về một hay nhiều ấn tượng mà tác
phẩm để lại sâu sắc trong lòng người đọc về nội dung hay nghệ thuật hoặc cả nội
dung và nghệ thuật.
Như vậy, từ việc phân tích chỉ định về phương pháp, từ suy nghĩ nhấn mạnh
tới nhận định, phân tích, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết.

nếu học sinh không hiểu thì đề bài yêu cầu gì đi nữa thì học sinh đều phân tích hết.
3.1.3.1.2. Cách làm từng phần trong bài văn
* Mở bài:
Giáo viên trình bày quy trình viết đoạn văn mở bài về nhân vật văn học và về
đoạn thơ, bài thơ để học sinh nhận biết qua đối chiếu sau:
Về nhân vật văn học

Về đoạn thơ, bài thơ

(1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác (1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác
phẩm -> (3) Thời điểm, hoàn cảnh phẩm -> (3) Thời diểm, hoàn cảnh sáng
sáng tác -> (4) Nhân vật chính -> (5) tác -> (4) Trích ở đâu -> (5) Nêu nhận
8


Nêu ý kiến, đánh giá sơ bộ của mình xét, đánh giá sơ bộ về nội dung, nghệ
về nhân vật.
thuật của đoạn thơ, bài thơ.
Như vậy, nhìn vào phần mở bài của hai kiểu bài, học sinh sẽ thấy cả hai kiểu
bài có (1), (2), (3) giống nhau nhưng bắt đầu khác nhau từ (4) và (5). Điều này giúp
học sinh dễ nhớ.
Giáo viên lưu ý cho học sinh có thể mở bài theo trình tự như thế nhưng cách
trình bày trên là không bắt buộc. Điều bắt buộc về nội dung phải có là (2) và (5) ở
mỗi phần.
Khi giới thiệu tác giả, học sinh phải viết được ít nhất một câu nhận định
chung.
Ví dụ:
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
- Nguyễn Thành Long là một cây truyện ngắn.
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.

- Viễn Phương là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học
cách mạng miền Nam từ những ngày đầu.
Ví dụ minh họa phần mở bài:
Từ quy trình trên, học sinh có thể hình thành các mở bài như sau:
Đề 1: Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long.
Nguyễn Thành Long là một cây truyện ngắn. truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”
được sáng tác vào mùa hè năm 1970, trong một chuyến đi lên Lào Cai của tác giả.
Nhân vật chính trong truyện là anh thanh niên. Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực
tiếp hay gián tiếp, anh thanh niên vẫn hiện lên trong lòng người đọc với bao vẻ đẹp
đáng yêu, đáng khâm phục.
Đề 2: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh vốn rất gắn bó với cuộc sống nông thôn. Ông có nhiều bài thơ
hay về con người và cuộc sống nông thôn, về mùa thu. Bài thơ “Sang thu” được
Hữu Thỉnh sáng tác gần cuối năm 1977, giới thiệu lần đầu tiên trên báo Văn nghệ.
Bài thơ là những cảm nhận, suy tư của nhà thơ về sự biến chuyển của đất trời từ hạ
sang thu.
Từ hai ví dụ trên, giáo viên cho học sinh đối chiếu phần mở bài ở từng kiểu
bài để các em dễ dàng nhận ra cách làm đối với từng kiểu.
* Thân bài:
- Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích (nghị luận về nhân
vật)
9


Giáo viên hướng cho học sinh viết đoạn theo cách trình bày nội dung đoạn
văn theo lối diễn dịch hoặc quy nạp. Giáo viên cho học sinh nắm cách trình bày nội
dung diễn dịch hoặc quy nạp bằng sơ đồ để học sinh dễ nhận biết hơn.
+ Diễn dịch:


(1) (câu chủ đề nêu luận điểm)

(2)

(3)

(4) …

Các câu (2), (3), (4) là các câu nêu các ý chi tiết, cụ thể để làm sáng tỏ câu
chủ đề. Như vậy, các câu (2), (3), (4) có thể là dãn chứng, là nhận xét, đánh giá của
người viết.
Đoạn văn thực hiện như sau: (1) Câu chủ đề luận điểm -> (2) Dẫn chứng lấy
từ tác phẩm (chọn 1 hoặc 2 dẫn chứng) -> phân tích, nhận xét, đánh giá từ dẫn
chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành đoạn văn.
Ví dụ: (1) Anh thanh niên là người rất khiêm tốn. (2) Khi ông họa sĩ muốn vẽ
chân dung của anh. (3) Anh hào hứng giới thiệu về những con người đáng để vẽ
hơn mình. (4) Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất vả
để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân và anh cán bộ khí tượng
dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập bản đồ rét.
(5) Anh thấy đóng góp của mình bình thường nhỏ bé so với những con người ấy. (6)
Anh thấy thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người ngày đêm làm việc lo
nghĩ cho đất nước ở nơi mảnh đất nghĩa tình Sa Pa này.
Như vậy:

Câu (1) là câu chủ đề luận điểm
Câu (2) là câu chuyển để đưa dẫn chứng
Câu (3), (4) là dẫn chứng gián tiếp từ tác phẩm
Câu (5) và (6) là những câu phân tích, nhận xét từ dẫn chứng của

người viết.

Cái khó là học sinh không biết phân tích, nhận xét nên giáo viên cho học sinh
đặt câu hỏi để trả lời. như: Vì sao anh lại giới thiệu những con người khác ở Sa Pa?
Anh nghĩ điều gì mà giới thiệu như vậy? Học sinh trả lời đúng, nghĩa là học sinh đã
biết nhận xét, đánh giá.
Quy nạp là cách trình bày ngược với cách diễn dịch. Giới thiệu cách quy nạp
để học sinh biết và viết đúng nhằm thay đổi thao tác lập luận trong khi làm bài.
Học sinh xác định được đặc điểm, tính cách của nhân vật theo trình tự diễn
biến của truyện thì học sinh lần lượt viết được đoạn văn ở phần thân bài.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
Đầu tiên, giáo viên hình thành cho học sinh quy trình xây dựng đoạn khi phân
tích một đoạn thơ, khổ thơ theo các bước sau:
10


(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này gọi là
câu dẫn) -> (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ -> (3) Giảng giải, cắt nghĩa (từ ngữ,
câu thơ) -> (4) Nhận xét cách sử dụng nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý
vào các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu) -> (5) Nhận xét, đánh giá về nội dung của đoạn
thơ, khổ thơ (phần này có thể về cảnh, về tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình
trực tiếp hoặc nhân vật trữ tình nhập vai).
Các bước (1), (2), (4), (5) thường bắt buộc phải có khi phân tích. Bước (3)
tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện.
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Viết đoạn:
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã có ước

nguyện:
(2)

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”

(3) Nhà thơ muốn làm con chim hót để làm vui cho cuộc đời, muốn làm một
cành hoa để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm làm đẹp cuộc đời, muốn làm một nốt
trầm trong bản hòa ca để làm tăng ý nghĩa cuộc đời. Nhà thơ đã dùng những hình
ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim để nói lên ước nguyện của mình. (4)
Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, nhà thơ xưng tôi “Tôi đưa tay tôi hứng” thì giờ đây,
tác giả đã chuyển sang ta. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Với chữ ta vừa là số
ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cá thể, đồng thời lại nói
được cái khái quát, cái chung. (6) Cách sử dụng điệp ngữ “ta làm” láy đi láy lại
thật tha thiết, chân thành. (5) Nhà thơ đã bày tỏ một ước nguyện nhỏ bé, một
phương châm sống thật cao đẹp được hòa nhập và cống hiến cho đời.
Từ đoạn văn trên, học sinh sẽ nhận thấy như quy trình trên :
Câu (1) nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
Câu (2) dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
Câu (3) giảng giải, cắt nghĩa.
Câu (4) là nhận xét cách sử dụng nghệ thuật.
11


Câu (5) là nhận xét, đánh giá về nội dung.
Ví dụ 2: Phân tích các câu thơ sau:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
(Y Phương – Nói với con)
Viết đoạn : (1)Những câu thơ mở đầu đã thể hiện tình yêu thương của cha mẹ
đối với con :
(2)Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
(3)Những hình ảnh cụ thể về một em bé đang tập đi, tập nói. Lúc thì bước tới
níu lấy tay cha, lúc thì sà vào lòng mẹ.(4) Điệp ngữ “bước tới” gợi bước chân chập
chững của đưa con, sự mong chờ, vui mừng đón nhận của đôi vợ chồng trẻ. (5)Nhà
thơ đã tạo một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc.
Ví dụ 3 : Phân tích khổ thơ :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
(Nguyễn Duy – Ánh trăng)
Viết đoạn: (1)Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới
chiều sâu tư tưởng triết lí:
(2)Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
(3)“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, tròn đầy, một vẻ đẹp viên mãn. “Im
phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và
lặng lẽ “kể chi người vô tình”. (4)“Trăng cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho quá
khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, cho sự bao dung độ lượng, của nghĩa
tình thủy chung trọn vẹn. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh nhân hóa, chính

12


là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ (và
cả mỗi chúng ta). (5)Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên,
nghĩa tình quá khứ thì luôn luôn tròn đầy, bất diệt.
* Kết bài:
Theo sách giáo khoa phần kết bài ở mỗi kiểu bài như sau:
Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích): Nhận định đánh giá
chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ
bài thơ. Phần này giáo viên cần cụ thể hơn để học sinh hiểu:
- Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích):
+ Nêu những nhận định đánh giá chung về: bút pháp xây dụng nhân
vật, ảnh hưởng của nhân vật đối với người đọc.
+ Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật.
+ Cần nói đến vai trò, vị trí của nhân vật trong tác phẩm, và tùy trường
hợp, có thể nói rõ tác giả đã đóng góp được những gì về tư tưởng, về nghệ thuật
trong quá trình phát triển của văn học một thời kì. (Ý này dành cho học sinh khá,
giỏi).
Ví dụ: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện “Những ngôi sao xa xôi”
của Lê Minh Khuê.
Truyện ”Những ngôi sao xa xôi” đã thành công về cách kể chuyện, đặc biệt
là nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Truyện đã làm sống lại trong lòng ta hình
ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến
công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Những “ngôi
sao” ấy luôn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ, biết ơn.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
+ Khái quát giá trị, ý nghĩa: có thể về nghệ thuật, nội dung hoặc vị trí
của đoạn thơ, bài thơ trong dòng văn học ấy.

+ Hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đình
đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc
mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc
miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên
trong cuộc sống.
Những nội dung trong phần kết bài chỉ là định hướng, không bắt buộc phải
trình bày đầy đủ khi viết bài. Giáo viên lưu ý cho học sinh, khi thời gian làm bài
13


không còn nhiều, có thể trình bày ngắn gọn về cảm nhận của mình về nhân vật
(đoạn thơ, bài thơ) cũng được.
Ví dụ:
- Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn ”Lặng lẽ Sa Pa” đã gợi lên
trong lòng người đọc về vẻ đẹp và ý nghĩa của những công việc thầm lặng, cống
hiến sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Thơ ca Việt Nam có những câu thơ, bài thơ hay viết về mùa thu. Đến lượt
mình, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có một hương sắc mới.
3.1.3.2. Cách làm các kiểu bài nghị luận xã hội
3.1.3.2.1. Phân biệt dạng bài nghị luận
Khi cầm đề trên tay, học sinh cần xác định được đó là dạng đề nào, nó là hiện
tượng sự kiện hay là tư tưởng đạo lí, nhiều khi ranh giới để xác định rất mong manh
thậm chí đan hòa với nhau. Để học sinh xác định được đề thuộc dạng thứ nhất hay
dạng thứ hai thì cần đi vào hiểu khái niệm của từng dạng bài như sau:
Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống là bàn về một sự việc hiện
tượng đời sống xã hội có ý nghĩa đáng khen đáng chê hay đáng suy nghĩ.
Ví dụ sự việc hiện tượng đáng khen như tấm gương học sinh nghèo vượt khó
hay các cuộc vận động giúp đỡ đồng bào bão lụt….Sự việc hiện tượng đáng chê,

đáng suy nghĩ như: bàn về việc học tập: học tủ học vẹt hay tiêu cực trong thi cử, vấn
đề ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông…
Nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí là bàn về lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống…của con người. Các vấn đề thường gặp là:
- Vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống…
- Tâm hồn tính cách: lòng yêu nước, tính trung thực, khiêm tốn….
- Quan hệ gia đình như: tình mẫu tử, tình phụ tử…
- Quan hệ xã hội: tình yêu, tình bạn...
- Cách ứng xử của mọi người trong cuộc sống.
3.1.3.2.2. Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận xã hội
**Tìm hiểu đề
Đây là bước cực kì quan trọng trong khi làm bài văn song thực tế học sinh
thường chủ quan ở bước này. Bước tìm hiểu đề nếu các em xác định tốt thì bài làm
đúng hướng, đủ ý còn ngược lại nhiều em vội vàng hấp tấp chưa chú ý cẩn trọng khi
tìm hiểu đề nên dẫn đến làm bài thiếu ý hoặc làm lạc đề, không đúng yêu cầu của đề
bài. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi và tự trả
lời.

14


- Đề thuộc dạng đề gì? ( nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống hay nghị luận về
tư tưởng, đạo lí)
- Yêu cầu về nội dung của đề: nêu suy nghĩ, bày tỏ quan điểm, thái độ
- Tri thức cần có là gì? ( những hiểu biết về vấn đề nghị luận, tri thức về đời sống)
**Tìm ý
Bất kì bài văn nào cũng cần tìm ra các ý chính- tìm ra hệ thống luận điểm chính,
khung sườn cho bài văn. Vậy làm thế nào để tìm được ý? Sau khi các em xác định
được kiểu dạng bài nghị luận thì các em bám vào từ khóa để lập ý, các từ khóa của
từng kiểu bài nghị luận học sinh cần bám vào đó là:

Kiểu bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống: giải thích(nếu cần), thực
trạng; nguyên nhân; hậu quả; biện pháp.
Kiểu bài nghị luận về tư tưởng đạo lí: giải thích; phân tích; bác bỏ; đánh giá.
Để thực hiện bước tìm ý học sinh bắt buộc tự đặt câu hỏi và lập ý cho bài văn.
Ví dụ1: Cho đề bài: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động như thế nào để
góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
- Tai nạn giao thông là gì?
- Thực trạng tai nạn giao thông? Diễn ra ở đâu ? Nhờ đâu mà em biết được điều
đó? Dẫn chứng bằng số liệu cụ thể về số vụ việc, người và vụ mà em biết.
- Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên (khách quan và chủ quan)
- Hậu quả xấu gây ra là gi? (ảnh hưởng đến bản thân, gia đình, xã hội như thế
nào?)
- Biện pháp khắc phục (với cá nhân, với cộng đồng xã hội, đề nghị với cơ quan
chức năng…)
**Lập dàn ý
Làm bài văn giống như dựng một ngôi nhà trước hết phải đủ vật liệu cần thiết,
vật liệu ở đây chính là các luận điểm, luận cứ, các ý lớn, ý nhỏ, các dẫn chứng. Sau
khi chuẩn bị để viết bài người viết tiến hành dựng khung cho ngôi nhà hay còn gọi
làm đề cương, lập dàn ý cho bài viết. Đây là bước quan trọng vì không thể viết bài
mà không lập dàn ý. Ngay cả những cây bút chuyên nghiệp cũng phải có đề cương
trước khi viết. Đành rằng phải hiểu đề cương một cách linh hoạt dàn ý có thể viết ra
giấy nháp nhưng cũng có thể là ý ở trong đầu người viết. Miễn là trước khi viết mô
hình bài viết cần được hình thành với những ý và sự sắp xếp các ý để làm nổi bật
vấn đề mà mình muốn làm sáng tỏ. Trong nhà trường học sinh đang ở giai đoạn học
tập và rèn luyện vì thế bắt buộc phải lập dàn ý ra giấy. Không thể làm tắt hoặc bắt
chước một số cây bút chuyên nghiệp. Thực chất mục đích của lập dàn ý ra giấy là
buộc người viết phải động não suy nghĩ trước khi viết.
15



Dàn bài của bài văn nghị luận có ba phần, nhiệm vụ của từng phần rất rõ, tuy
nhiên các phần nhiều khi rất linh hoạt sau đây giáo viên cung cấp dàn ý chỉ mang
tính chất gợi ý tham khảo, học sinh có thể thay đổi thêm bớt, đảo vị trí sao cho phù
hợp với yêu cầu nghị luận.
* Dàn ý bài văn nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống.
- Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề.
- Thân bài:
+ Luận điểm1: Giải thích sơ lược sự việc hiện tượng (nếu cần) tuy nhiên
đây là ý không bắt buộc, không phải đề văn nào cũng cần giải thích.
+ Luận điểm 2: Thực trạng của vấn đề nghị luận, tức là biểu hiện sự việc
hiện tượng trong thực tế diễn ra như thế nào.
+ Luận điểm 3: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là gì, trong đó cần
đưa ra những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
+ Luận điểm 4: Hậu quả của vấn đề nghị luận, hậu quả xấu hoặc kết quả tốt.
+ Luạn điểm 5: Biện pháp khắc phục hậu quả ( đưa ra từng biện pháp : với
cá nhân, gia đình, xã hội....
- Kết bài: Nêu suy nghĩ bài học và lời khuyên rút ra đối với mọi người.
* Lưu ý khi làm kiểu bài này các ý có thể linh hoạt đổi vị trí cho nhau hoặc
có thể gộp ý cho dễ diễn đạt (chẳng hạn có thể gộp nguyên nhân và hậu quả luôn
hoặc sau khi nêu thực trạng thì nêu luôn hậu quả của nó có ảnh hưởng tích cực, tiêu
cực trong đời sống) chú ý liên hệ tình hình thực tế xã hội, địa phương nơi em sinh
sống để tăng tính thuyết phục.
Ví dụ : Lập dàn ý cho đề bài sau: Bàn về học tập: học vẹt, học tủ.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập dàn ý như sau:
- Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng.
- Thân bài:
+ Giải thích thế nào là học vẹt và học tủ. Bản chất của học vẹt, học tủ khác
nhau như thế nào ?
+ Thực trạng : học vẹt, học tủ diễn ra ở đâu ? ở những bậc học nào? ( diễn ra
ở khắp các ngôi trường trên cả nước, trừ các trường mầm non. Trường em lớp em

cũng có các hiện tượng này, các bạn học không đều, học vẹt học tủ nên bài kiểm tra
bài thì điểm rất cao, bài lại có điểm rất thấp.
+ Nguyên nhân là do đâu ? Do nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan (do bản thân ý thức việc học tập không tốt, do gia đình không đốc thúc, quan
tâm đến việc học hành của con cái hoặc gia đình tạo áp lực học tập dẫn đến con cái
phải học tập một cách gượng ép không thoải mái, chỉ biết học thuộc cho xong, do
16


môi trường giáo dục chưa chú ý đến lực học học của học sinh thúc giục quá học
sinh đành phải học vẹt, học tủ cho qua.
+ Hậu quả của việc học tủ, học vẹt chỉ có lợi ngay trước mắt nhưng lại rất có
hại cho bản thân, gia đình, và xã hội. Từ hậu quả nêu trên cần bày tỏ quan điểm bác
bỏ, phê phán lối học này, tuy nhiên không nên xa lánh học mà cần gần gũi, giúp đỡ
để họ hiểu và thực hiện tốt hơn.
+ Giải pháp : Cần làm gì để ngăn chặn hiện tượng này ? Đối với bản thân, với
gia đình, dòng họ với xã hội.
- Kết bài : Bài học thấm thía sâu sắc và đưa ra lời khuyên.
* Dàn ý bài văn nghị luận về vấn đề tư tưởng, đạo lí.
- Mở bài: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
Dẫn đề (nếu có)
- Thân bài:
+ Luận điểm 1: Giải thích rõ vấn đề cần nghị luận tùy theo đề bài mà giải
thích có thể giải thích một từ hoặc một cụm từ (đối với đề nghị luận về nhận định)
hoặc giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng ( nếu đề yêu cầu nghị luận về câu tục ngữ)
sau đó rút ra tư tưởng chung của cả câu.
+ Luận điểm 2: Phân tích cũng tùy vào đề để phân tích, nếu đề nghị luận về
câu tục ngữ, ca dao, một nhận định, một câu thì người viết cần bày tỏ quan điểm của
mình, khẳng định phần giải thích là đúng hay sai, lấy dẫn chứng để chứng minh.
Nếu là đề nghị luận mảng tâm hồn, tính cách thì phần phân tích cần chỉ rõ biểu hiện

như thế nào, vì sao phải như thế. Dùng dẫn chứng lí lẽ để thuyết phục.
+ Bác bỏ- phê phán những biểu hiện sai lệch, bác bỏ cái xấu, cái tiêu cực và
bênh vực cái tốt cái tích cực.
+ Đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí, làm gì để đạt được mục tiêu đã bàn luận
phân tích ở trên.
- Kết bài: Khái quát khẳng định lại vấn đề
Bài học sâu sắc, lời khuyên và mong ước hướng tới điều tốt đẹp
**Hướng dẫn học sinh viết bài.
Từ dàn ý có sẵn các em có thể viết thành đoạn văn, bài văn. Giáo viên hướng
dẫn các em viết thành đoạn văn tiêu biểu: đoạn mở bài, thân bài, kết bài.
* Hướng dẫn viết mở bài:
Học sinh rất lúng túng khó khăn khi viết mở bài vì chưa biết cách để viết tốt
phần mở bài nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết mở bài hãy chú ý.

17


Mở bài là đoạn văn khởi đầu cần giới thiệu được vấn đề nghị luận đã được đặt
ra ở phần đề bài để lát nữa phần thân bài sẽ đi giải quyết. Vì thế mở bài không được
lấn sâu vào phần thân bài như giải thích, nhận xét, đánh giá.
Ví dụ viết phần mở bài cho đề sau: Suy nghĩ về đức hi sinh.
Con người Việt Nam đã từ lâu có nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp như nhân
nghĩa, thủy chung, cần cù, chăm chỉ, dũng cảm…Một trong những phẩm chất tốt
đẹp ấy đó là đức hi sinh. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào về đức tính này tôi và các
bạn cùng bàn luận nhé.
* Hướng dẫn viết thân bài:
Phần thân bài bao hàm nhiều ý để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận (nhiều luận
điểm) mỗi luận điểm là một đoạn văn, đoạn văn ấy phải đúng quy cách:
Về hình thức của đoạn văn viết hoa đầu đoạn, hết đoạn có dấu chấm câu, các
câu văn trong đoạn văn phải sắp xếp theo trình tự hợp lí. Về nội dung các câu văn

trong đoạn văn đều phải tập chung làm sáng rõ chủ để của đoạn văn, đoạn văn ấy có
câu mang luận điểm, các câu khác trong đoạn làm nhiệm vụ tập chung làm sáng tỏ
cho câu mang luận điểm. Tương tự như vậy các đoạn văn trong bài văn cần tập
chung làm sáng tỏ cho luận đề của bài văn. Mỗi đoạn văn có một nội dung độc lập
và diễn đạt lưu loát, hành văn trong sáng có sử dụng lí lẽ dẫn chứng để chứng minh
thuyết phục người đọc người nghe.
Giữa các đoạn văn (các luận điểm) cần có sự liên kết, chuyển ý, chuyển đoạn
nhịp nhàng bằng các phép liên kết đã học để bài văn mượt mà, tránh gò bó, máy
móc, công thức.
Ví dụ viết đoạn văn giải thích đức hi sinh là gì?
Trước tiên ta cần hiểu thế nào là đức hi sinh? “đức”ở đây là nói đến một đạo
đức, đức tính tốt đẹp trong cuộc sống. “Hi sinh” là chịu thiệt, nhận phần thiệt thòi
về mình để cho người khác hưởng những điều tốt đẹp. Hi sinh mang ý nghĩa cao cả,
cống hiến những điều mà bản thân đang có cho người khác vì mục đích cao đẹp.
“Đức hi sinh” là sự cống hiến, hi sinh bản thân mình vì người khác, vì nghĩa lớn.
Người có đức hi sinh là người biết đặt lợi ích của người khác cũng như lợi ích của
đất nước lên trên lợi ích của chính mình, sẵn sàng đối đầu với mọi gian khổ khó
khăn vì mục đích cao cả tốt đẹp mà mình hướng tới.
* Hướng dẫn viết kết bài:
Phần kết bài cũng là phần quan trọng làm không chỉ làm nhiệm vụ khép lại bài
văn mà còn khẳng định lại vấn đề đã nghị luận ở trên, bày tỏ quan điểm và nêu lời
khuyên bổ ích của tư tưởng, đạo lí đã nêu.
**Hướng dẫn học sinh đọc và sửa bài
Thực tế học sinh không hay thực hiện bước này. Đây là bước tương đối quan
trọng, sau khi hoàn thành bài viết cần đọc lại để sửa lỗi như lỗi chính tả, lỗi diễn
18


đạt, lỗi đánh dấu câu...phải kiểm tra soát lỗi thật chính xác rồi mới nộp bài. Vậy vì
sao học sinh không hay thực hiện bước này, cũng có nhiều lí do có thể do các em

thiếu giờ không đủ thời gian để đọc kiểm tra lại bài, nhưng một trong những lí do
khác nữa là các em chủ quan hoặc một số em lười nhác. Giáo viên cần lưu ý học
sinh khắc phục lỗi này và yêu cầu các em khi viết bài cần lưu ý thời gian, viết phải
đúng trúng ý tránh dài dòng, lan man mà thiếu thời gian đọc và sửa lỗi.
3.1.4. Một số giải pháp khác
Ngoài các phương pháp đặc trưng giúp học sinh ôn tập kiến thức một cách
hiểu quả như đã trình bày ở trên, để công tác phụ đạo học sinh yếu, giáo viên cần
vận dụng kết hợp một số biện pháp khác.
3.1.4.1. Đặt câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh
Trong dạy học nói chung và trong dạy phụ đạo học sinh yếu nói riêng, hệ
thống câu hỏi của giáo viên có vai trò quan trọng, là một trong những yếu tố quyết
định hiệu quả của bài dạy. Giáo viên phải đặt câu hỏi làm sao để học sinh yếu vẫn
phải động não và tham gia trả lời. Muốn vậy, với những kiến thức khó, giáo viên
nên đặt những câu hỏi mà trong đó đã có sự định hướng, gợi ý, giúp các em dễ dàng
tìm ra câu trả lời. Và khi trả lời được câu hỏi, nhận được lời khen từ thầy cô, học
sinh sẽ thấy vui và hứng thú hơn trong học tập.
3.1.4.2. Động viên, khích lệ kịp thời những tiến bộ của học sinh
Sự khích lệ, tuyên dương kịp thời có tác dụng rất lớn đối với những học sinh
yếu kém, chậm tiến bộ. Bởi vì điều đó xác nhận sự tiến bộ của các em, kích thích
các em hứng thú học tập. Học sinh yếu vào lớp thường thụ động, ít tham gia đóng
góp ý kiến xây dựng bài. Trong giờ dạy, thầy cô nên đặt ra cho các em những câu
hỏi dễ, vừa sức tạo cơ hội cho các em trình bày được ý kiến của mình. Khi các em
trả lời được, dù chưa thật sự đầy đủ, rành mạch cũng vẫn nên khen các em trước
lớp. Trong khi dạy phụ đạo, giáo viên cần có sổ theo dõi điểm kiểm tra của học
sinh, nếu thấy bài sau cao hơn bài trước cũng nên động viên, khích lệ các em. Lời
khen kịp thời là phương thuốc để kích thích thái độ học tập của học sinh.
3.1.4.3. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh và giáo viên chủ nhiệm
Những học sinh yếu thường lười học ham chơi và không trung thực với bố
mẹ về việc học tập của mình. Vì thế giáo viên thông báo với cha mẹ học sinh về
thời khóa biểu học phụ đạo, trao đổi trực tiếp về cách thức và phương pháp quản lí

việc học của con ở nhà. Đồng thời yêu cầu cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt nhất về
thời gian và cơ sở vật chất để các em tập trung cao nhất vào việc học. Bên cạnh đó,
giáo viên cũng thường xuyên thông báo với phụ huynh về ý thức và kết quả học tập
của học sinh. Có như vậy cha mẹ các em mới động viên và nhắc nhở kịp thời.
Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để giáo dục tinh
thần tự giác, ý thức chuyên cần học tập cho học sinh, nhắc nhở những học sinh có
biểu hiện lơ là hay không tham gia học phụ đạo.
3.2. Tăng cường một số giải pháp mới
19


Trong năm học 2019 – 2020 này, ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, chúng tôi
còn áp dụng thêm một số giải pháp khác
3.2.1. Tạo môi trường học tập thân thiện
Học sinh yếu kém thường tiếp thu kiến thức rất chậm, hay tự ti mặc cảm, lại
chịu áp lực từ phía thầy cô, nếu người giáo viên không khéo léo, không gần gũi thân
thiện, động viên an ủi học sinh thì tiết dạy phụ đạo sẽ ít thành công. Trong tiết học,
giáo viên không nên nghiêm khắc, gò bó, hoặc cáu gắt đối với học sinh, đừng làm
cho các em thấy môn Văn quá khó và sợ môn học này. Giáo viên phải tạo một bầu
không khí thoải mái giúp các em tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng. Thông qua cử
chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười,…giáo viên tạo sự gần gũi với học sinh, giúp các em
có cơ hội bày tỏ những vướng mắc trong bài học. Điều đó giúp các em có hứng thú
hơn với môn học, từ đó mà các em sẽ tự giác hơn trong học tập môn Văn.
3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá
Đối tượng học sinh yếu là đối tượng học sinh hạn chế về nhiều mặt, sự hạn
chế ở mỗi học sinh lại có sự khác nhau. Vì vậy, trong quá trình dạy phụ đạo, giáo
viên cần xây dựng nội dung và cách thức kiểm tra, đánh giá cho phù hợp để nắm bắt
được tất cả các khả năng của từng em và theo dõi được sự tiến bộ của từng em.
- Cần da dạng hóa các hình thức kiểm tra như:
+ Kiểm tra miệng: tiến hành ngay đầu giờ hay trong giờ học để kiểm tra kiến

thức cũ hoặc củng cố kiến thức mới vừa học.
+ Kiểm tra viết 15 phút: có thể tiến hành vào đầu giờ hoặc cuối giờ tùy theo
nội dung kiểm tra kiến thức cũ hay mới.
+ Vừa kiểm tra miệng vừa kiểm tra viết: gọi học sinh lên bảng trả lời hay làm
bài tập đồng thời yêu cầu các học sinh ở dưới lớp cũng làm ra giấy để nộp.
+ Kiểm tra tổng hợp cuối học kì:
+ Kiểm tra vở ghi, vở bài tập bài thường xuyên để kịp thời động viên, khích
lệ hay nhắc nhở.
- Việc đánh giá chất lượng học sinh phải luôn dựa trên quan điểm tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh. Và có thể đánh giá học sinh bằng nhiều cách như sau:
+ Học sinh tự đánh giá: giáo viên xây dựng đáp án, thang điểm cho đề kiểm
tra. Sau đó cho học sinh dựa vào đáp án tự chấm bài của mình hoặc đổi bài cho bạn
để chấm chéo nhau. Cách đánh giá này chỉ phù hợp với bài kiểm tra trắc nghiệm
hoặc bài tự luận đơn giản (như: nếu giá trị nội dung, nghệ thuật, chép thơ, tóm tắt
truyện...). Còn đối với bài tự luận (như: viết đoạn văn, bài văn) cần có trình độ thẩm
thấu nhận xét kiến thức, câu chữ, diễn đạt...thì giáo viên phải là người đánh giá .
+ Giáo viên đánh giá: Việc đánh giá chất lượng học sinh yếu môn Ngữ văn
nói chung, Ngữ văn 9 nói riêng không chỉ về kiến thức mà còn phải chú trọng đến
kĩ năng. Vì vậy, khi chấm chữa bài cần chú ý lựa chọn lời phê sao cho vừa có tác
20


dụng động viên, khuyến khích lại vừa giúp học sinh nhận ra được hạn chế trong bài
làm của mình. Cần tránh những lời phê chung chung hay thiếu tế nhị kiểu như: tạm
được, viết được, bài yếu...
4. Kết luận
Trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng, phụ đạo học sinh yếu
kém là một trong những nhiệm vụ hết sức khó khăn đối với bất cứ giáo viên nào,
bởi hiểu được những yếu kém của những học sinh này đã khó, tìm ra phương pháp
phụ đạo phù hợp còn khó hơn do lực học của các em rất thấp. Vì thế, khi thực hiện

phụ đạo học sinh yếu, giáo viên cần phải có sự tìm tòi, sáng tạo về phương pháp dạy
học. Đặc biệt, phải chịu khó, nhiệt tình tâm huyết với nghề, đặt mình vào vị trí của
học sinh để hiểu các em hơn, từ đó đưa ra những cách thức khắc phục hợp lý, kịp
thời và đạt hiệu quả. Đồng thời, giáo viên phải từng bước rèn ý thức học tập bộ môn
nghiêm túc, khơi dậy tinh thần ham học ở các em.
TT Vĩnh Tường ngày 27 tháng 10 năm 2019

Trịnh Thành Hiếu
Đào Thị Tươi

21



×