Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.55 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HƯƠNG GIANG

MANG THAI HỘ THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HƯƠNG GIANG

MANG THAI HỘ TRONG LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

Chuyên ngành: Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Cừ

Hà Nội - 2015



2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hương Giang

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
: Luật HN&GĐ năm 2014
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
: Luật HN&GĐ năm 2000
3. hôn nhân và gia đình
: HN&GĐ
4.Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày

28/01/2015 của Chính Phủ về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân : 10/2005/NĐ-CP
đạo
5. thụ tinh trong ống nghiệm

: TTTON

4


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có khoảng 60-80 triệu cặp
vợ chồng hiếm muộn trên thế giới. Mang thai hộ là một trong những giải pháp
hiệu quả mà nhiều người lựa chọn. Tuy nhiên, không phải ở quốc gia nào quy
định về mang thai hộ cũng thuận lợi và dễ dàng. Vẫn còn đó những vướng
mắc mà nếu không tìm hiểu kỹ, nhiều người có thể vô tình đẩy mình vào “thế
khó”.
Hiện nay ở Việt Nam, tình trạng vô sinh ngày càng nhiều, vợ chồng hiếm
muộn hay đơn giản là không muốn trực tiếp sinh con để giữ vóc dáng thì nhu
cầu mang thai hộ, nhu cầu thuê đẻ thực sự là có thật và ngày càng gia tăng.
Mang thai hộ là trường hợp sau khi thụ thai trong ống nghiệm, nếu người mẹ

vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang thai, phải nhờ đến
người phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ.
Trước đây, mang thai hộ là vấn đề bị pháp luật cấm tuy nhiên tình trạng
mang thai hộ hay “đẻ thuê” vẫn diễn ra dưới dạng “chui”, một số đối tượng
lợi dụng tình trạng hiếm muộn, niềm khao khát có một đứa con của các cặp
vợ chồng để làm kinh doanh, thương mại bất hợp pháp. Việc mang thai hộ
không được pháp luật điều chỉnh, nhiều hệ lụy sẽ xảy ra giữa các bên khi có
phát sinh tranh chấp và khó giải quyết.
Hiện nay mang thai hộ đã được pháp luật cho phép và quy định về chế định
này trong Luật HN&GĐ năm 2014. Việc quy định về mang thai hộ với mục
đích nhân đạo trong Luật HN&GĐ đã phần nào đáp ứng được nhu cầu sinh
con cho gia đình hiếm muộn. Đây là một nội dung rất mới phản ánh một phần
thực tiễn khách quan vấn đề gia đình Việt Nam hiện nay, thể hiện xu hướng
hòa nhập quốc tế trong vấn đề hôn nhân gia đình. Việc xác định quan hệ cha
mẹ con có ý nghĩa quan trọng và liên quan đến những hậu quả pháp lý phát

6


sinh về sau. Vậy, về mặt pháp lý việc xác định quan hệ cha mẹ con trong
trường hợp mang thai hộ như thế nào? Thỏa thuận giữa người nhờ và người
nhận mang thai hộ là loại thỏa thuận gì? Những thỏa thuận này có trái với
quan niệm đạo đức truyền thống hay không? Biện pháp pháp lý ràng buộc các
bên và chế tài pháp lý trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng thỏa thuận? Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể nội dung
liên quan đến chế định mang thai hộ. Liệu những nội dung được quy định đã
đầy đủ và sát thực tiễn hay chưa?
Chính vì mang thai hộ là vấn đề rất mới cần được nghiên cứu và làm rõ hơn
nên tác giả đã chọn đề tài “Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2014”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mang thai hộ là một vấn đề mới và pháp luật Việt Nam trước đây nghiêm
cấm mang thai hộ; do đó việc tìm hiểu về mang thai hộ gặp nhiều khó khăn,
hạn chế nên vấn đề này chưa thực sự nhận được nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu luật pháp.
Qua tìm hiểu, tác giả luận văn nhận thấy mang thai hộ có tính cấp thiết về
lý luận và thực tiễn cao, tuy nhiên số lượng bài viết, công trình nghiên cứu về
mang thai hộ nhìn dưới góc độ pháp luật là không nhiều. Nổi bật nhất là bài
viết của tác giả Nguyễn Thị Hương – khoa Luật Dân sự, trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 13/02/2001. Bài viết đã đề cập tới nhiều khía cạnh pháp lý của việc
mang thai hộ; từ những phân tích về việc xác định cha, mẹ, con đến việc cần
thiết phải quy định về thỏa thuận mang thai hộ, điều kiện của các bên trong
quan hệ mang thai hộ…Có thể thấy, đây là bài viết điển hình đầu tiên đề cập
đến mang thai hộ một cách khái quát nhất, toàn diện nhất dưới góc độ pháp
lý.

7


Cho đến thời gian gần đây, khi vấn đề mang thai hộ được đề xuất đưa vào
dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HN&GĐ năm 2000 và đã
được Quốc hội thông qua chính thức quy định tại Luật HN&GĐ năm 2014, đã
có nhiều bài viết về mang thai hộ được đăng tải trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Có thể kể đến những bài viết như: “Mang thai hộ: nên cho phép để
kiểm soát tốt” trên báo phunuonline.com.vn ngày 17/8/2013; “ Đưa mang thai
hộ vào luật” trên duthaoonline.quochoi.vn; “Chính thức cho phép mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo” trên báo ngày 19/06/2014;
“Luật cho phép mang thai hộ, tình trạng đẻ thuê còn diễn ra?” trên trang web
ngày 12/07/2014; “Mang thai hộ: Cửa đã mở,

nhưng mới ‘hé’?” trên trang web ngày 30/12/2014;
“Mang thai hộ: Có luật nhưng vẫn khó khăn” trên Báo tuổi trẻ online ngày
13/05/2015… Điểm chung của các bài viết này đều nêu lên thực trạng của
việc mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay, gợi mở vấn đề, nêu ra một số hạn chế
của pháp luật, đánh giá sơ bộ mang tính chất thông báo về quy định mới của
pháp luật chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá để làm rõ hơn
về những quy định mà pháp luật đưa ra.
Về công trình nghiên cứu khoa học, công trình nghiên cứu khoa học mang
tên “Mang thai hộ - Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay” của trường Đại học Luật Hà Nội là một công trình nghiên cứu về
mang thai hộ được đánh giá cao. Trong công trình nghiên cứu khoa học này,
tập thể tác giả đã phân tích nhiều khía cạnh pháp lý của việc mang thai hộ, đi
sâu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn,
khái niệm, bản chất của việc mang thai hộ đồng thời còn định hướng xây
dựng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam. Đây được coi là một công trình
nghiên cứu khá đầy đủ, toàn diện và mang lại nhiều giá trị. Công trình nghiên

8


cứu khoa học này thực sự là tài liệu tham khảo hữu ích đối với cá nhân tác giả
luận văn, cũng như đối với những nhà nghiên cứu pháp luật về mang thai hộ.
3. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về mang thai hộ, là
các quy định của pháp luật về mang thai hộ và khả năng áp dụng quy định về
mang thai hộ vào thực tiễn hiện nay cùng một số kiến nghị pháp luật.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy, do giới
hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ
bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của
mang thai hộ; cơ sở của việc pháp luật quy định mang thai hộ; nội dung các quy

định của Luật HN&GĐ năm 2014 về mang thai hộ và khả năng thực tiễn thực
hiện chúng.
4. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu tổng quát
Luận văn nghiên cứu phân tích và làm rõ nội dung quy định về vấn đề mang
thai hộ trong Luật HN&GĐ năm 2014 đã cụ thể và sát thực tiễn hay chưa?
Qua đó đánh giá khả năng áp dụng quy định đã nêu vào thực tiễn.
b. Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu nghiên cứu tổng quát như vậy, mục tiêu cụ thể nghiên cứu được
xác định trên những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về mang thai hộ như khái niệm, ý nghĩa,
cơ sở của mang thai hộ
- Phân tích, đánh giá những quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014
về mang thai hộ

9


- Thực trạng ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề có thể phát sinh trong thực
tiễn khi áp dụng Luật về mang thai hộ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau
đây:
- Phương pháp bình luận được sử dụng trong chương 1 của Luận văn khi
nghiên cứu những vấn đề chung về mang thai hộ như khái niệm mang thai hộ,
ý nghĩa của việc mang thai hộ, cơ sở pháp luật điều chỉnh việc mang thai hộ.
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở chương 2 khi nghiên cứu, làm rõ
về các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014.
- Phương pháp tổng hợp khi nghiên cứu về mang thai hộ ở các nước trên

thế giới, thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam, đánh giá khả năng áp dụng
pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam và một số kiến nghị pháp luật.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về mang thai hộ
Chương 2. Nội dung quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
theo pháp luật hiện hành
Chương 3. Thực trạng mang thai hộ, khả năng áp dụng quy định về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ở Việt Nam hiện nay và một số kiến
nghị

10


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MANG THAI HỘ
1.1. Sự ra đời chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Thời điểm ca mang thai hộ đầu tiên trên thế giới được xác định
vào năm 1979 tại Hoa Kỳ khi bác sĩ Richard M.Levin tiếp một cặp
vợ chồng mà người vợ không có khả năng sinh con. Khi đó, người
vợ đã rất mong muốn có một đứa con của chồng, dù bản thân bà
không mang thai.
Biết được nguyện vọng này, bác sĩ Levin đã nghĩ đến cách nhờ
một phụ nữ khác mang thai giúp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng
của người chồng. Tuy nhiên, để thực hiện được ý định, ông Levin
đã vấp phải các vấn đề pháp lý đối với việc mang thai hộ này và
mất chín tháng hợp tác với các luật sư, nghiên cứu luật của bang và
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để hiểu rõ hơn các khía cạnh pháp luật
phức tạp của mối quan hệ mang thai hộ (còn gọi là làm mẹ thuê, đẻ

thuê). Các khía cạnh này cũng được nghiên cứu kỹ, có sự tham
khảo ý kiến của nhiều chức sắc tôn giáo và nhà đạo đức học để đi
đến một thỏa thuận không xúc phạm đến giá trị đạo đức của cộng
đồng.
Cuối cùng, một “hợp đồng”, còn gọi là “biên bản ghi nhớ” đã
được soạn thảo rất kín kẽ, bảo đảm quyền lợi cho cặp vợ chồng vô
sinh, người mẹ mang thai hộ và cả đứa trẻ. Người mẹ mang thai hộ
lần đầu tiên trên thế giới đó đã được các thầy thuốc khám, tư vấn rất
kỹ lưỡng về các vấn đề y tế sinh sản cũng như được các nhà hoạt
động pháp luật tư vấn về vấn đề pháp lý xoay quanh quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên trong trường hợp mang thai hộ này. Đến đầu
năm 1980, theo thỏa thuận giữa người mẹ mang thai hộ và cặp vợ

11


chồng vô sinh, các bác sĩ đã tiến hành thụ tinh nhân tạo phôi thai
bằng tinh trùng của người chồng với noãn của người vợ và phôi thai
được cấy vào người phụ nữ mang thai hộ. Chín tháng sau, tại
Lousville, người phụ nữ mang thai hộ đã sinh hạ một bé trai và năm
ngày sau đó, người phụ nữ mang thai hộ đã trình diện trước Tòa án
để chính thức chấm dứt những quyền liên quan đến việc làm mẹ của
mình và trao lại con cho người bố sinh học. Sau khi đã hoàn tất các
thủ tục về mối quan hệ pháp lý với đứa trẻ, cặp vợ chồng được toàn
quyền chăm sóc, nuôi dạy đứa trẻ.. Đó là câu chuyện về trường hợp
mang thai hộ hợp pháp và có chuẩn bị kỹ lưỡng đầu tiên trên thế
giới. [8]
Trong lịch sử pháp luật Việt Nam chưa có sự xuất hiện của vấn đề mang
thai hộ cho đến Nghị định số 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/2/2003
hướng dẫn về sinh con bằng phương pháp khoa học. Tại khoản 1 Điều 6 Nghị

định này quy định nghiêm cấm hành vi mang thai hộ. Như vậy, pháp luật Việt
Nam trước đây không cho phép được mang thai hộ dưới bất cứ hình thức nào.
Luật HN&GĐ 2000 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua tại kỳ họp ngày 9/6/2000, Quốc hội khóa X và có hiệu lực thi
hành từ ngày 10/01/2001. Sự ra đời của Luật HN&GĐ 2000 đã tạo ra một
hành lang pháp lý chặt chẽ, an toàn để điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan trong các quan hệ
tài sản và quan hệ nhân thân. Qua đó đảm bảo yếu tố bền vững của HN&GĐ
phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước tại thời kỳ đó. Tuy nhiên, qua 12
năm thi hành, trước những biến động to lớn của tình hình kinh tế - xã hội của
đất nước đã ảnh hưởng tới các quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000; một
số quy định không cụ thể khiến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế.
Bên cạnh đó, nhiều quan hệ mới phát sinh trong lĩnh vực HN&GĐ chưa được
luật điều chỉnh từ đó dẫn tới việc áp dụng tùy tiện, thiếu tính nhất quán của

12


các cơ quan chức năng khi giải quyết các tranh chấp, xung đột có liên quan
tới các quan hệ HN&GĐ mới phát sinh. Ví dụ như việc mang thai hộ đã và
đang diễn ra trong xã hội và nhu cầu đối với việc mang thai hộ ngày càng lớn
tuy nhiên pháp luật Việt Nam nghiêm cấm việc mang thai hộ nên nhiều cặp
vợ chồng đã tìm mọi cách để làm “chui” thậm chí là ra nước ngoài có cung
cấp dịch vụ mang thai hộ dẫn đến nhiều rủi ro như: người nhận mang thai hộ
không chịu giao đứa bé cho bên nhờ mang thai hộ, rắc rối về mặt giấy tờ pháp
lý… đặc biệt khi có tranh chấp phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và
người nhận mang thai hộ về việc xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và
quyền tài sản của đứa trẻ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang
thai hộ sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thòi,
ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng như của các bên liên quan.

Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan, gây cản trở cho việc
thực hiện mục tiêu “ Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc
thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” đã được đề ra
tại Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, việc sửa đổi bổ sung Luật
HN&GĐ 2000 là điều cần thiết. [1]
Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật HN&GĐ (sửa đổi) vừa qua, vấn đề
mang thai hộ nhận được sự quan tâm rất lớn của dư luận xã hội. Việc cho
phép hay không cho phép mang thai hộ ở Việt Nam đã nhận được nhiều ý
kiến trái chiều. Có ý kiến cho rằng chỉ nên cho phép mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo; trong khi đó ý kiến khác lại cho rằng nên nghiêm cấm mang thai hộ
dưới mọi hình thức. Đề xuất cho phép mang thai hộ trong trường hợp nhân
đạo nhận được nhiều sự đồng thuận; bởi lẽ nếu cho phép sẽ đảm bảo được
quyền làm mẹ chính đáng của người phụ nữ, đồng thời giúp bảo vệ quyền lợi

13


của đứa trẻ và của các bên trong quan hệ mang thai hộ. Trái ngược với điều
này, các ý kiến phản đối việc luật hóa mang thai hộ cho rằng mang thai hộ sẽ
dẫn đến nhiều tiêu cực cho xã hội như buôn bán trẻ sơ sinh bất hợp pháp, lách
luật để sinh con thứ ba… Như vậy, quy định như thế nào để vừa đảm bảo việc
thực hiện quyền làm mẹ của người phụ nữ, vừa tránh được những hệ quả xấu
có thể xảy ra trên thực tế lại không hề đơn giản. Đây chính là những khó khăn
được đặt ra đối với các nhà lập pháp ở Việt Nam.
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII ngày 19/6/2014 đã thông qua dự thảo
luật HN&GĐ, Luật HN&GĐ năm 2014 chính thức ra đời có hiệu lực từ ngày
01/01/2015. Luật HN&GĐ năm 2014 đã sửa đổi và bổ sung thêm nhiều vấn

đề mới về HN&GĐ trong đó có vấn đề về mang thai hộ. Đây là văn bản luật
đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam quy định về mang thai hộ, cho phép
việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1.
Khái niệm mang thai hộ
Mang thai hộ mới được biết đến ở Việt Nam gần đây và hiện nay mang
thai hộ đã không còn là khái niệm lạ lẫm với người dân. Tuy nhiên, khái niệm
mang thai hộ thường được người dân hiểu theo một ý nghĩa sai lệch và
thường hiểu chung với khái niệm “đẻ thuê, đẻ mướn”. “Khái niệm đẻ thuê,
hiểu một cách đơn giản là việc bên thuê đẻ và bên đẻ thuê thỏa thuận với
nhau, theo đó, bên thuê đẻ sẽ trả cho bên đẻ thuê một khoản tiền hoặc lợi ích
vật chất nào đó, còn bên đẻ thuê sẽ sinh con và trao cho bên thuê đẻ”. [13]
Trước đây, mang thai hộ được hiểu theo nghĩa rộng, nó được xếp vào một
trong các loại đẻ mướn, điều này lý giải vì sao khi nói về mang thai hộ, nhiều
người vẫn đánh đồng mang thai hộ với đẻ thuê, đẻ mướn. Mang thai hộ là một
trong các loại hình đẻ mướn do có sự liên quan đến yếu tố người thay thế để
mang thai và sinh con. Theo đó, đẻ mướn bao gồm những hình thức sau:
a. Đẻ mướn truyền thống:

14


Đẻ mướn truyền thống được hiểu là việc một người phụ nữ
cung cấp trứng cùng với tinh trùng của người chồng trong cặp vợ
chồng vô sinh để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Sau đó phôi
thai được cấy vào tử cung của chính người phụ nữ này để thực hiện
quá trình mang thai và sinh con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai
hộ. Đứa trẻ sinh ra mang gen của người phụ nữ mang thai hộ và
người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ.

b. Thai đẻ mướn:
Thai đẻ mướn được hiểu là cặp vợ chồng nhờ mang thai
hộ cung cấp trứng và tinh trùng để tiến hành thụ tinh trong ống
nghiệm, sau đó phôi thai hình thành sẽ được cấy vào tử cung của
người phụ nữ mang thai hộ để người phụ nữ này thực hiện quá trình
mang thai và sinh con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Với
trường hợp này đứa trẻ sinh ra mang gien di truyền của cặp vợ
chồng người nhờ mang thai hộ, mà không có sự di truyền gien với
người phụ nữ mang thai hộ.
c. Thai đẻ mướn & trứng hiến (GS / ED):
Nếu người nhờ mang thai và người mang thai hộ đều
không thể sản xuất trứng thì người phụ nữ mang thai hộ mang phôi
thai phát triển từ một nhà tài trợ trứng (người hiến trứng) đã được
thụ tinh bởi tinh trùng từ người cha đã định. Với phương pháp này,
những đứa trẻ sinh ra có di truyền liên quan với người cha.
d. Thai đẻ thuê và các nhà tài trợ tinh trùng (GS / DS):
Nếu người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
không thể sản xuất tinh trùng, thì người phụ nữ mang thai giúp
mang một phôi thai phát triển từ trứng người mẹ nhờ mang thai hộ

15


và tinh trùng hiến tặng. Với phương pháp này, những đứa trẻ sinh ra
có liên quan về mặt di truyền với người mẹ nhờ mang thai hộ.
e. Thai đẻ thuê và các nhà tài trợ phôi thai (GS / DE):
Khi cha mẹ nhờ mang thai không thể sản xuất hoặc tinh trùng,
trứng, hoặc phôi thai, thì người thay thế có thể mang theo một phôi
thai tặng (thường các cặp vợ chồng khác, những người đã hoàn
thành thụ tinh ống nghiệm có phôi còn sót lại) để tiến hành mang

thai và sinh con, khi đó đứa trẻ sinh ra có gien di truyền không liên
quan đến cha mẹ nhờ mang thai hộ và cũng không phải từ người mẹ
thay thế. [27, tr17]
Hiện nay, việc đánh đồng khái niệm mang thai hộ với đẻ thuê, đẻ mướn
không còn phù hợp thực tế, nó khiến vấn đề trở nên phức tạp và nhạy cảm
hơn, không còn phù hợp với thuần phong mỹ tục cũng như luật pháp của
người Việt Nam ta. Cần phải hiểu mang thai hộ theo đúng ý nghĩa của nó, phù
hợp với chế độ nhà nước và hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
Từ mang thai hộ (surrogacy) đã tồn tại từ lâu, nhưng việc mang
thai hộ thật sự chỉ có thể được thực hiện sau khi con người thực
hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON).
Trước khi kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, khi người vợ
không thể có con hay mang thai, người chồng có thể giao hợp với
một người phụ nữ khác hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của phụ nữ
này để có thai và việc này thời đó cũng được xem là “mang thai
hộ”. Người phụ nữ này có thể có thai, sau đó trao con lại cho cặp vợ
chồng có nhu cầu. Khi này, thật ra, đứa trẻ là con sinh học giữa
người chồng và người phụ nữ mang thai hộ. Ngày nay, với sự phát
triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, sự việc trên thường ít được luật
pháp và đạo đức xã hội chấp nhận.

16


Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là TTTON, cho phép
lấy tinh trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh
trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi
vào tử cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, kỹ thuật mang
thai hộ chính danh mới có thể được thực hiện. Với TTTON, chúng
ta mới có kỹ thuật mang thai hộ đúng nghĩa. [23]

Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra khái niệm: “Mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích
thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy
noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống
nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con”.
Qua khái niệm Luật HN&GĐ 2014 đưa ra có thể hiểu mang thai hộ là việc
một người phụ nữ giúp mang thai cho cặp vợ chồng bằng việc lấy noãn của
người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó
cấy vào tử cung của người phụ nữ nhận mang thai hộ để người này mang thai
và sinh con. Như vậy, mang thai hộ theo Luật HN&GĐ năm 2014 được hiểu
theo nghĩa rất cụ thể và hẹp hơn nhiều so với các hình thức “đẻ mướn” đã nêu
trên. Khái niệm này được đưa ra là hoàn toàn hợp lý bởi:
Thứ nhất, khái niệm trình bày đầy đủ, rõ nghĩa, ngôn từ trong sáng, giúp
hiểu đúng mục đích của việc mang thai hộ trong trường hợp nhân đạo, tránh
tình trạng hiểu sai vấn đề cho rằng mang thai hộ đồng nghĩa với việc “ đẻ
thuê” và trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể nhờ đến việc mang thai hộ.
Nếu như đẻ thuê chỉ đơn thuần là “mượn tử cung” của một người phụ nữ để
người này mang thai và sinh con, còn trứng, tinh trùng có thể lấy từ bất kì một
người nào (trứng của người được nhờ mang thai hộ, trứng của người hiến
trứng, tinh trùng của người hiến tặng tinh trùng, phôi được tặng…) thì mang

17


thai hộ lại bắt buộc phải là trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng
trong cặp vợ chồng hiếm muộn. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa “mang
thai hộ” và “đẻ thuê”.
Thứ hai, khái niệm đã đưa ra được phương thức thực hiện mang thai hộ đó

là thực hiện bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, tức là lấy trứng
(noãn) của người vợ, tinh trùng của người chồng để tạo thành phôi, sau đó cấy
phôi vào tử cung của người mang thai hộ. Như vậy, về mặt khoa học, noãn
của người phụ nữ, tinh trùng của người đàn ông không phải là kết quả của sự
kết hợp tự nhiên, trực tiếp giữa vợ và chồng mà phải nhờ vào biện pháp hỗ trợ
y tế của các bác sỹ chuyên ngành. Từ noãn và tinh trùng lấy từ cơ thể vợ và
chồng, bác sỹ thụ tinh trong ống nghiệm (thụ tinh bên ngoài cơ thể) để tạo
thành phôi và cấy phôi thai vào tử cung người mang thai hộ. Như vậy, việc
mang thai hộ phải trải qua một phương thức nghiêm ngặt, không được “giúp
đỡ trực tiếp” giữa người chồng bên nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ
vì về bản chất thì hành vi này không được coi là mang thai hộ.
Thứ ba, ngoài ra khái niệm mang thai hộ cũng đã nói lên được rõ ràng về
đối tượng được phép nhờ mang thai hộ phải là một cặp vợ chồng và mục đích
của việc mang thai hộ là hướng tính nhân đạo dành cho người phụ nữ không
thể tự mình sinh con.
1.2.2.

Khái niệm mang thai hộ vì mục đích thương mại
Hội thảo Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) được tổ chức tại Hà
Lan vào năm 2012 rút ra kết luận: Các thiết chế trên thế giới quy
định về mang thai hộ đang được chia ra làm bốn nhóm. Cụ thể:
Nhóm nước chưa có quy định, nhóm nước phản đối, nhóm nước
cho phép vì mục đích nhân đạo và nhóm các nước chấp thuận
thương mại hóa. [29]
Chấp nhận thương mại hóa chính là trường hợp mang thai hộ vì mục đích

thương mại. Đó là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng

18



việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để hưởng lợi ích về kinh tế hoặc các lợi
ích khác. Theo đó, khi người phụ nữ chấp nhận mang thai cho bên thuê mang
thai hộ rồi sinh con, sau khi trao đứa con lại cho bên nhờ mang thai hộ, người
phụ nữ sẽ được bên nhờ mang thai hộ trả cho một khoản tiền hoặc sẽ đáp ứng
bằng một lợi ích nào đó mà hai bên đã thỏa thuận trước đó.
Khoản 23 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm mang thai hộ
vì mục đích thương mại như sau: “Mang thai hộ vì mục đích thương mại là
việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi ích về kinh tế hoặc lợi ích khác”. Khái niệm
này đầy đủ và hoàn toàn đúng theo cách hiểu về việc thương mại hóa mang
thai hộ ở một số quốc gia trên thế giới. Ở các quốc gia đó mang thai hộ giống
như một dịch vụ tự do trao đổi giữa các bên với sự có “cầu” ắt có “cung”.
Có thể thấy, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại chính là một loại
hợp đồng đẻ thuê. Sau khi giao kết hợp đồng, hai bên phải thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ của mình theo bản hợp đồng đó. Bản hợp đồng này là hợp
đồng công việc cần làm với đối tượng trao đổi là đứa trẻ và lợi ích. Vô hình
chung, bản hợp đồng đã khiến đứa trẻ trở thành hàng hóa có thể trao đổi vi
phạm quyền con người và việc trao đổi theo hợp đồng giống như việc mua
bán trẻ con vi phạm luật quốc tế. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam không cho
phép việc mang thai hộ vì mục đích thương mại.
1.2.3.
Khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được hiểu là người phụ nữ chấp nhận
mang thai hộ cho người khác mà không vì lợi ích kinh tế hay bất cứ lợi ích
nào.
Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm “Mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo” như sau: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là
việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang
thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả

khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh

19


trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung
của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một nghĩa cử cao đẹp mang tính
nhân văn sâu sắc giữa những người phụ nữ với nhau. Việc mang thai và sinh
con là một thiên chức tự nhiên của người phụ nữ, nhưng vì nhiều lí do bất đắc
dĩ mà người phụ nữ không thể tự mình đảm đương trọng trách thiêng liêng
này nên mới thực sự cần đến sự giúp đỡ của người khác. Khái niệm mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo theo Luật HN&GĐ năm 2014 đã thể hiện rõ được
điều nhân đạo đó, chỉ khi người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả
khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mới được nhờ mang thai hộ. Khái niệm
này đã đưa ra đầy đủ nội dung cần thiết cũng như hàm chứa được tính nhân
văn sâu sắc của nghĩa cử cao đẹp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
1.3. Ý nghĩa của mang thai hộ
1.3.1. Mang thai hộ là kết quả của việc ứng dụng thành tựu khoa
học kỹ thuật trong lĩnh vực y học
Nhu cầu điều trị vô sinh ở nước ta ngày một tăng, các cơ sở
khám chữa bệnh phụ khoa và trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản
cũng đã thành lập các đơn vị điều trị vô sinh, đặc biệt vào năm
2011, với sự ra đời của Trung tâm nghiên cứu về di truyền và sức
khỏe sinh sản (khoa Y Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh),
Việt Nam trở thành một trong bốn trung tâm đào tạo về hỗ trợ sinh
sản lớn nhất của Châu Á (cùng với Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc)
và hiện mỗi năm tiếp nhận đào tạo, huấn luyện đào tạo cho nhiều
bác sỹ nước ngoài.[9, tr16]
Hiện nay cả nước ta có 21 cơ sở đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ

sinh sản được Bộ Y tế ra quyết định công nhận trong đó Thành phố Hà Nội là
địa phương có nhiều cơ sở thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhất trong cả
nước (07 cơ sở), Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ hai (05 cơ sở), Thành phố

20


Cần Thơ và Bình Dương đứng thứ ba (02 cơ sở). Còn lại, các cơ sở đủ điều
kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nằm rải rác ở một số tỉnh Hải Phòng,
Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước
phát triển về lĩnh vực hỗ trợ sinh sản với chất lượng tốt và chi phí phù hợp,
thu hút được nhiều cặp vợ chồng vô sinh trong nước và khu vực, trong đó có
cả người nước ngoài ở những nước phát triển đến Việt Nam để được làm các
kỹ thuật này.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thực hiện được ở Việt Nam bao gồm:
+ Thụ tinh trong ống nghiệm
+ Tiêm tinh trùng vào bào tương của noãn ICSI
+ PESA: Chọc hút mào tinh qua da
+ AH: Hỗ trợ phôi thoát màng
+ PGD: Chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi
+ Chuyển phôi ngày 5
+ Chuyển phôi đông lạnh
+ Xin noãn, xin phôi
+ Trữ lạnh phôi, tinh trùng, noãn bằng phương pháp thuỷ tinh hoá.
Kỹ thuật mang thai hộ rất đơn giản so với các kỹ thuật chuyên sâu về thụ
tinh trong ống nghiệm. Do đó, trang thiết bị kỹ thuật và nguồn nhân nước ta
hoàn toàn thực hiện tốt kỹ thuật này, Giáo sư – bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc
Phượng cho biết từ năm 2000, Việt Nam bắt đầu nhận thụ tinh trong ống
nghiệm cho người nước ngoài và ngày càng thu hút họ đến nước ta. “Theo
Hội nội tiết sinh sản – vô sinh thành phố Hồ Chí Minh, cả nước hiện có 15

Trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm và đến nay, hơn 10.000 trẻ đã ra đời nhờ
kỹ thuật này. Ngoài ra, Việt Nam là nơi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm
nhiều nhất khu vực Đông Nam Á. Kỹ thuật và tỷ lệ thành công của thụ tinh

21


trong ống nghiệm ở Việt Nam ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới, có
thể thực hiện được hầu hết các kỹ thuật hiện đại của thế giới”. [27, tr40]
Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng ba trung tâm lớn trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh là bệnh viện An Sinh, bệnh viện Vạn
Hạnh, bệnh viện Từ Dũ, mỗi trung tâm tiếp nhận, điều trị, hỗ trợ
sinh sản thụ tinh trong ống nghiệm cho khoảng 200 trường hợp
người nước ngoài/năm và con số này ngày càng gia tăng. Trong đó,
bệnh viện An Sinh mỗi năm có 100-150 trường hợp điều trị thụ tinh
trong ống nghiệm cho người nước ngoài. Theo các chuyên gia y tế,
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của Việt Nam hiện đã phát triển
thành công dù đi sau nhờ nhiều yếu tố. Đó là được đầu tư thiết bị
tiên tiến, cán bộ y tế lĩnh vực này đều trẻ, được đào tạo bài bản ở
nước ngoài, có kinh nghiệm và kiến thức nền tảng tốt, tổ chức được
những hội thảo nhóm hằng năm có chất lượng chuyên môn cao, đi
sâu vào học thuật, đội ngũ bác sĩ, nhân viên hỗ trợ LAB, điều
dưỡng…giao tiếp tiếng anh tốt. [16, tr35-36]
“Một trong những yếu tố góp phần vào thành công này là do chi phí thấp.
Cụ thể, một ca thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt Nam chỉ bằng 1/4 hoặc 1/3
với khu vực và 1/6 -1/8 so với Mỹ. Chi phí thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt
Nam thấp hơn ở nước ngoài từ 5-10 lần. Chi phí để điều trị thụ tinh trong ống
nghiệm (thủ thuật và thuốc) ở Việt Nam khoảng 2.000-3.000 USD. Chi phí
này ở những nước trong khu vực dao động từ 8.000-12.000 USD” [13]. Vừa
qua, lần đầu tiên, Việt Nam cũng đào tạo kỹ thuật mới về hỗ trợ sinh sản nuôi

trưởng thành noãn trong ống nghiệm cho đoàn chuyên gia do một bệnh viện
lớn nhất Singapore gửi đến. Cùng với khóa huấn luyện này, nhiều học viên
các nước khác cũng tìm đến Việt Nam. Điều này từng bước khẳng định được
vị trí của Việt Nam trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, không chỉ về kinh nghiệm

22


điều trị, nghiên cứu khoa học mà còn là một trung tâm đào tạo cho khu vực,
công nghệ cao và thực hiện hầu hết các kỹ thuật điều trị vô sinh trên thế giới.
Mang thai hộ cũng được coi là một trong những phương pháp hỗ trợ sinh
sản dành cho cặp vợ chồng hiếm muộn. Kỹ thuật chính cần dùng trong mang
thai hộ là kỹ thuật TTTON, đây là kỹ thuật về y tế đòi hỏi công nghệ và kỹ
thuật cao mà Việt Nam đã có các trung tâm hỗ trợ sinh sản hoàn toàn có đủ
điều kiện thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm để thực hiện với chi
phí hợp lý. Mang thai hộ chỉ mang tính chất phức tạp trong mặt quan niệm và
các thủ tục pháp lý, quyền cũng như lợi ích của các bên liên quan.
1.3.2. Mang thai hộ giúp đảm bảo quyền con người
Là phụ nữ một người phụ nữ bất cứ ai cũng mong muốn mình được làm
mẹ. Chính vì vậy có rất nhiều người phụ nữ, người mẹ chia sẻ và ủng hộ
mong muốn Nhà nước cần quan tâm bằng hành lang pháp lý đối với người
khiếm khuyết về chức năng sinh sản để bảo đảm quyền cho họ, nhưng cần
phải tính toán hợp lý và thận trọng để tránh làm tổn thương đến chính họ và
những người có liên quan, nhất là những đứa trẻ.
Bất cứ ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do hôn nhân. Để
mưu cầu hạnh phúc và có một hôn nhân bền vững vẹn toàn thì quyền được
làm cha, mẹ, quyền có những đứa con mang huyết thống của mình cũng là
một trong những quyền con người mà họ cần được đảm bảo. Chính vì vậy mà
việc quy định cho phép mang thai hộ sẽ giúp cho quyền con người của người
phụ nữ chẳng may bị khiếm khuyết được bù đắp và đảm bảo được thực hiện.

1.3.3. Mang thai hộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Có nhiều ý kiến cho rằng, mang thai hộ là một thành tựu của y học, là một
tiến bộ vượt bậc để biến mơ ước không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được
trở thành hiện thực. Bản chất "mang thai hộ" là hết sức nhân văn vì là sự giúp
đỡ của một người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa

23


trẻ. Mang thai hộ mà cụ thể là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Yếu tố huyết thống của một con người dù thế nào
cũng không thể thay đổi nên điều khiến một người phụ nữ khác sẵn sàng giúp
đỡ để sinh con cho một cặp vợ chồng được nhìn nhận như một hành vi nhân
đạo cao cả, sâu xa hơn đó là tình đồng loại cũng tương tự như việc hiến máu
nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể để cứu giúp những người bệnh đang trong nguy
kịch. Pháp luật cho phép việc mang thai hộ vì ý nghĩa nhân văn của nó, pháp
luật chỉ đặt vấn đề mang thai hộ trên phương diện không gì khác ngoài mục
đích nhân đạo để tạo cơ hội được làm cha mẹ cho những cặp vợ chồng hiếm
muộn mà người vợ không thể tự mình mang thai được.
1.3.4. Mang thai hộ giúp đảm bảo khả năng thực hiện chức năng tái
sản xuất con người của gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, với tư cách là một thiết chế xã hội, gia đình
có rất nhiều chức năng tùy thuộc vào lối sống văn hóa, kinh tế của từng dân
tộc khác nhau. Ở Việt Nam, gia đình thường có các chức năng cơ bản như:
sinh sản để duy trì nòi giống, giáo dục để tạo sự bền vững, kinh tế tăng trưởng
phát triển để tạo sự ổn định hưng thịnh, nhu cầu tinh thần, tâm lý và tình cảm
được kết nối trong một gia đình có tính truyền thống nhưng trong điều kiện
hội nhập được tiếp thu những tinh hoa của thế giới nên cũng rất hiện đại.
Trước hết, chức năng cơ bản về sinh sản nhằm để duy trì phát triển nòi giống,
chức năng này vừa là quy luật sinh tồn của tự nhiên, vừa là quy luật của xã

hội, thế giới trong mỗi gia đình và gia đình là thế giới thu nhỏ. Việc thực hiện
chức năng này thỏa mãn nhu cầu của các bậc cha, mẹ của các thành viên trong
họ hàng gia tộc phát triển giống nòi về số lượng và chất lượng, trong xã hội
hiện đại đứa con trong gia đình vẫn là một biểu hiện của giá trị hạnh phúc gia
đình, chức năng cơ bản này khiến các cá nhân gắn kết lại với nhau tạo thành
gia đình có tính truyền thống và toàn cầu. Theo Ăngghen: “con người ta thay

24


đổi hàng ngày cuộc sống của mình, bắt đầu sản xuất ra những con người khác
tức là tự tái sản xuất, đó là quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, giữa cha mẹ và
con cái, đó là gia đình” [26, tr 21]. Nếu không có sản xuất và tái sản xuất, kể
cả tái sản xuất con người thì xã hội không phát triển, thậm chí không tồn tại
được.
Nhờ có mang thai hộ mà chức năng duy trì nòi giống của các cặp vợ chồng
hiếm muộn được đảm bảo đồng thời đáp ứng được nhu cầu sinh con cùng
huyết thống, cùng mã gen với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở
để xác định cha, mẹ, con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia
phả với những giá trị văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ
gắn với mỗi con người cụ thể. Đó cũng là lý do để những cặp vợ chồng hiếm
muộn vẫn luôn khao khát có đứa con mang dòng máu của mình và trường hợp
người mẹ không thể mang thai và sinh con thì cách duy nhất trong chỉ có thể
là mang thai hộ. Như vậy, mang thai hộ giúp đảm bảo khả năng thực hiện
chức năng cơ bản của gia đình – chức năng tái sản xuất con người.
1.4. Cơ sở của việc quy định mang thai hộ trong pháp luật
1.4.1.
Cơ sở lý luận
Thứ nhất, về y học kỹ thuật
Trường hợp mang thai hộ chính danh đầu tiên trên thế giới được

báo cáo ở Mỹ vào năm 1985. Mỹ là nước có nhiều kinh nghiệm và
báo cáo các nghiên cứu liên quan đến mang thai hộ trên thế giới
hiện nay, bên cạnh nhiều nước khác cũng cho phép hoặc không cấm
mang thai hộ (chiếm hơn 1/3 quốc gia được khảo sát trên thế giới).
Mang thai hộ được thực hiện trên cơ bản là kỹ thuật TTTON thông
thường, nên không phức tạp về mặt kỹ thuật. Người vợ trong cặp vợ
chồng có nhu cầu nhờ mang thai hộ sẽ được kích thích buồng trứng,
theo dõi và chọc hút noãn. Noãn sẽ được thụ tinh với tinh trùng

25


×