nghiªn cøu - trao ®æi
38 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2011
ThS. BÙI THỊ MỪNG *
heo quy định của Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2000, “nam từ hai
mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở
lên mới được phép kết hôn”.
(1)
Đây là quy
định điều kiện về độ tuổi tối thiểu nam, nữ
được phép kết hôn. So với các quy định
khác, đây là quy định không có nhiều biến
động, vì độ tuổi kết hôn này cũng được quy
định giống như tinh thần của Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959 và 1986. Tuy nhiên,
thời gian gần đây, thực tiễn thi hành điều
kiện về độ tuổi kết hôn cũng nảy sinh nhiều
vấn đề gây tranh luận. Có quan điểm cho
rằng quy định độ tuổi kết hôn này cần phải
xem xét lại theo hướng hạ thấp độ tuổi kết
hôn. Quan điểm khác lại cho rằng quy định
độ tuổi kết hôn có sự chênh lệch giữa nam
và nữ là thể hiện sự bất bình đẳng giới
Chia sẻ với các nhà khoa học xung quanh
vấn đề này, chúng tôi bàn luận thêm về một
số vấn đề xung quanh quy định về độ tuổi
kết hôn, trên cơ sở đó kiến giải một số luận
cứ khoa học cho việc xem xét quy định về
độ tuổi kết hôn theo luật định.
1. Cơ sở của việc quy định độ tuổi
kết hôn
Độ tuổi kết hôn được xây dựng dựa trên
các cơ sở khoa học và cơ sở xã hội. Trước
hết, nói về cơ sở khoa học. Nam nữ xác lập
quan hệ hôn nhân để thực hiện chức năng
cơ bản của gia đình là sinh đẻ để duy trì nòi
giống. Các nghiên cứu khoa học trong lĩnh
vực y học đã chỉ ra rằng phải đạt đến độ
tuổi này thì việc nam nữ xác lập quan hệ
hôn nhân và sinh con mới đảm bảo được sự
“ưu sinh”. Bởi vì, đến độ tuổi này, nam và
nữ mới phát triển hoàn thiện về tâm-sinh lí.
Một số nghiên cứu trong lĩnh vực sức khoẻ
sinh sản đã kết luận: Các bà mẹ sinh con
trước tuổi 18 thường hay gặp các vấn đề về
sức khoẻ. Những đứa con của các cặp hôn
nhân xác lập quan hệ trước tuổi luật định
hay mắc các bệnh về nhiễm sắc thể, sức đề
kháng yếu, tỉ lệ tử vong sau sinh cao. Chính
vì lẽ đó, việc quy định độ tuổi kết hôn tối
thiểu dựa trên cơ sở khoa học sẽ góp phần
duy trì nòi giống, đảm bảo sự phát triển
lành mạnh về thể chất và trí tuệ cho thế hệ
đời sau, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Tiếp cận vấn đề dưới góc độ so sánh
luật, chúng tôi nhận thấy rằng quy định về
độ tuổi kết hôn có sự khác biệt đáng kể
trong pháp luật của các quốc gia trên thế
giới. Pháp luật của các nước phương Tây
T
* Giảng viên Khoa pháp luật dân sự
Trường Đại học Luật Hà Nội
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 39
quy định độ tuổi kết hôn thấp hơn so với
quy định về độ tuổi kết hôn theo pháp luật
Việt Nam. Về mặt lí luận, có thể nhận thấy
rằng trong số các nước phương Tây, hầu
hết là các nước công nghiệp phát triển, do
vậy độ tuổi trưởng thành về tâm sinh lí của
nam và nữ sớm hơn so với ở Việt Nam. Vì
thế, tuổi kết hôn đối với nam và nữ được
quy định thấp hơn và hầu hết luật của các
quốc gia phương Tây đều cho phép kết hôn
đối với người chưa đến tuổi thành niên.
Ngoài lí do xuất phát từ cơ sở lí luận là căn
cứ vào sự phát triển tâm sinh lí của người
kết hôn như phân tích ở trên, còn có thể lí
giải vấn đề này ở phương diện liên quan
đến truyền thống lập pháp. Các quốc gia
phương Tây cho phép những người chưa
thành niên có thể kết hôn vì theo pháp luật
phương Tây, hôn nhân được nhìn nhận như
hợp đồng dân sự, việc kết hôn thực chất là
việc xác lập hợp đồng. Chính vì vậy, người
chưa thành niên kết hôn phải có sự đồng ý
của người giám hộ. Điều này cho thấy,
pháp luật phương Tây đã thừa nhận vấn đề
đại diện trong việc kết hôn. Đây là vấn đề
hoàn toàn khác với quan điểm của các nhà
lập pháp Việt Nam. Nhà làm luật Việt Nam
không nhìn nhận hôn nhân như hợp đồng
dân sự. Cho nên, sự tự nguyện kết hôn của
các bên kết hôn luôn được đề cao, việc thể
hiện ý chí trong việc xác lập quan hệ hôn
nhân luôn được xác định là quyền của chủ
thể kết hôn mà không thể thông qua tư
cách người đại diện.
Từ việc tiếp cận dưới góc độ so sánh
luật, có thể nhận thấy rằng quy định về độ
tuổi kết hôn chịu sự chi phối của nhiều yếu
tố như cơ sở lí luận, cơ sở xã hội và truyền
thống lập pháp của mỗi quốc gia. Trong
đó, cơ sở xã hội là yếu tố chi phối cả tới
truyền thống lập pháp. Chính vì vậy, khi
quy định về độ tuổi kết hôn trong pháp
luật, nhà làm luật cần phải cân nhắc một
cách thận trọng các yếu tố là căn cứ, tiền
đề của độ tuổi kết hôn, có như vậy mới
đảm bảo hiệu quả điều chỉnh của pháp luật
về độ tuổi kết hôn.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây,
điều kiện kinh tế phát triển đáng kể, chất
lượng cuộc sống của người dân được nâng
cao, vì thế độ tuổi dậy thì đối với trẻ em
trai và trẻ em gái đã có những thay đổi
nhất định. Điều này dẫn đến xu hướng,
chưa đến tuổi kết hôn luật định, các em đã
có quan hệ tình yêu vượt quá giới hạn.
Nhiều trường hợp, ở vào tình trạng phải
làm bố, làm mẹ ngoài ý muốn, do đó, phải
“cưới chạy, cưới chui”, kéo theo rất nhiều
hệ lụy, tác động tiêu cực tới đời sống hôn
nhân và gia đình. Xuất phát từ vấn đề này,
cũng có ý kiến cho rằng cần phải xem xét
hạ thấp độ tuổi kết hôn để phù hợp với
thực tiễn.
(2)
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy
rằng việc xem xét hạ thấp độ tuổi kết hôn
cần phải được đánh giá một cách toàn diện.
Thừa nhận rằng trong thời điểm hiện nay,
do điều kiện sống tốt hơn cho nên sự phát
triển ở trẻ sớm hơn trước đây nhưng điều
đó cũng chỉ đúng với dân số sinh sống ở
các đô thị. Ở vùng nông thôn, chỉ số phát
nghiên cứu - trao đổi
40 tạp chí luật học số 11/2011
trin ca tr so vi thnh ph cũn cú nhng
khong cỏch nht nh. Trong khi ú,
nc ta hin nay mc dự tc ụ th hoỏ
khỏ nhanh nhng dõn s sng vựng nụng
thụn vn chim a s. Chớnh vỡ vy, xột
di gúc khoa hc chỳng tụi cho rng
vic h thp tui kt hụn cn c cõn
nhc mt cỏch k lng. Cú th s h thp
tui kt hụn nhng chỳng ta cha th h
thp tui trong tng lai gn m cn
phi cú l trỡnh phự hp.
Ngoi c s khoa hc nh ó phõn tớch
trờn, quy nh iu kin tui kt hụn
cũn c xem xột da trờn cỏc khớa cnh
nh phong tc, tp quỏn, o c xó hi,
truyn thng tõm lớ ca ngi Vit Nam v
vn kt hụn. Do nh hng ca t tng
Nho giỏo, vi truyn thng coi trng gia
ỡnh, ngi Vit Nam hỡnh thnh thúi quen
ly v, ly chng sm theo quan nim n
thp tam, nam thp lc. T ú, phong tc
ny nh hng ỏng k n i sng hụn
nhõn ca ngi Vit Nam. Cho n nay, cỏc
vựng nụng thụn Vit Nam vn cũn ớt nhiu
b nh hng bi tõm lớ ny. Vỡ vy, nn
to hụn vn tn ti nhiu ni, nht l
nụng thụn v min nỳi.
(3)
Chớnh vỡ th, quy
nh tui nh hin nay cũn l s hi ho
gia c s khoa hc vi c s xó hi, m
bo iu kin kt hụn v tui mang
tớnh thc thi. Nu chỳng ta h thp tui
kt hụn, iu ú cng ng ngha vi vic
khuyn khớch nam n thanh niờn vựng
nụng thụn xỏc lp quan h hụn nhõn sm
hn. Trong khi ú, nh chỳng tụi ó phõn
tớch trờn, vựng nụng thụn do iu kin
kinh t, xó hi vn cũn khong cỏch so vi
thnh ph cho nờn s phỏt trin ca tr em
thnh ph v nụng thụn cũn chờnh lch
ỏng k. Vỡ th, h thp tui kt hụn ch
phự hp vi s ớt c dõn thnh th nu xem
xột di khớa cnh khoa hc.
Cú ý kin cho rng m bo nguyờn
tc bỡnh ng gii nờn h thp tui kt
hụn ca nam cho ngang bng vi n.
(4)
Chỳng tụi cho rng lun im ny khụng cú
c s vỡ nhỡn nhn vn bỡnh ng gii cũn
phi da trờn nhng khỏc bit v gii tớnh
gia nam v n. T s phõn tớch trờn khớa
cnh khoa hc, cỏc chuyờn gia y t cng ch
ra rng s phỏt trin v hon thin tõm sinh
lớ nam v n cú s khỏc nhau. Do vy, quy
nh tui kt hụn gia nam v n nh
hin nay khụng phi l quy nh th hin s
bt bỡnh ng gii m ó da trờn nhng c
s khoa hc, cn c vo s phỏt trin v hỡnh
thnh tõm sinh lớ ca nam v n. Bi vy,
quy nh v tui kt hụn chờnh lch gia
nam v n nh hin nay l cn thit.
2. Nhng vng mc, bt cp trong
quỏ trỡnh thc thi iu kin tui kt hụn
tui kt hụn, theo lut hin hnh l
t 18 tui tr lờn i vi n v t 20 tui
tr lờn i vi nam. Theo ú, khụng bt
buc nam phi t hai mi tui tr lờn,
n phi t 18 tui tr lờn mi c kt
hụn. Vỡ vy, nam bc sang 20 tui, n
bc sang 18 tui m kt hụn l khụng vi
phm iu kin v tui kt hụn.
(5)
Vỡ l ú,
thc tin ỏp dng quy nh tui kt hụn
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 41
nảy sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất, với cách quy định độ tuổi kết
hôn như hiện nay dễ nảy sinh việc áp dụng
tuỳ tiện quy định về độ tuổi kết hôn. Thực
tế cho thấy chỉ cần bước sang tuổi 18 đối
với nữ và 20 tuổi đối với nam là nữ nam
được phép kết hôn. Điều đó dễ dàng tạo ra
kẽ hở nhất định để các bên kết hôn vi phạm
điều kiện kết hôn về độ tuổi. Vì thế, nên có
quy định về độ tuổi kết hôn theo hướng
khoa học hơn, tránh tình trạng vận dụng
một cách tùy tiện, ảnh hưởng đến tính thực
thi của pháp luật về điều kiện kết hôn
Thứ hai, trong mối liên hệ với quy định
của pháp luật dân sự, chúng ta dễ dàng nhận
thấy điểm bất cập liên quan đến độ tuổi kết
hôn hiện nay. Pháp luật dân sự quy định
người có khả năng nhận thức và điều chỉnh
hành vi của mình phải là người đủ 18 tuổi.
(6)
Tuy nhiên, độ tuổi kết hôn tối thiểu, theo
pháp luật hiện hành đối với nữ không phải
là đủ 18 tuổi. Điều này tạo 2 nội dung đáng
bàn trong khía cạnh áp dụng pháp luật:
- Trước tiên, độ tuổi kết hôn không chỉ
là quy định điều kiện nhằm đảm bảo tốt
việc sinh con đẻ cái nhằm duy trì nòi giống
của các cặp hôn nhân mà nó còn là nhân tố,
tiền đề để gây dựng các cuộc hôn nhân hạnh
phúc. Bởi vì, trong mối liên hệ với quy định
về sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết
hôn, chúng ta thấy người kết hôn còn phải
thực hiện việc bày tỏ ý chí cá nhân trong
việc xác lập quan hệ hôn nhân. Quy định về
độ tuổi kết hôn đối với nữ như hiện nay dẫn
đến thực trạng một người chưa có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ vẫn có quyền bày tỏ
ý chí khi xác lập quan hệ hôn nhân. Pháp
luật Việt Nam cũng không cho phép bày tỏ
ý chí kết hôn thông qua người đại diện. Do
vậy, người chưa có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ mà bày tỏ ý chí trong việc kết hôn là
không phù hợp và tương thích với các quy
định của pháp luật liên quan đến sự tự
nguyện của người kết hôn.
- Mặt khác, trong mối liên hệ với pháp
luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự, quy
định về độ tuổi kết hôn đối với nữ hiện nay
đã tạo ra sự thiếu đồng bộ trong hệ thống
pháp luật. Bởi lẽ, bước sang tuổi 18, theo
Luật hôn nhân và gia đình, nữ được phép
kết hôn, trong khi đó, theo quy định của
pháp luật dân sự, người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ. Liên quan đến tư cách khởi kiện của
đương sự, pháp luật tố tụng dân sự cũng
quy định, người khởi kiện và tham gia tố
tụng phải là người từ đủ 18 tuổi.
(7)
Tuy
nhiên, trường hợp người vợ chưa đủ 18 tuổi
mà vợ chồng li hôn thì người vợ vẫn được
coi là người có năng lực hành vi dân sự về
li hôn.
(8)
Bởi lẽ đó, việc cho phép người vợ
tham gia vụ án li hôn với tư cách là đương
sự khi chưa đủ 18 tuổi tạo ra sự thiếu đồng
bộ trong hệ thống pháp luật.
Với hai lí do nêu trên, chúng tôi cho
rằng việc xem xét quy định độ tuổi kết hôn
cho phù hợp và đồng bộ là đòi hỏi tất yếu
để đảm bảo hiệu quả điều chỉnh của pháp
luật về điều kiện kết hôn.
Thứ ba, thực tiễn thi hành pháp luật hôn
nghiªn cøu - trao ®æi
42 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2011
nhân và gia đình hiện nay cũng chỉ ra rằng
việc tảo hôn vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Theo
Luật hôn nhân và gia đình hiện hành thì tảo
hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi
một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo quy định của pháp luật. Việc tảo
hôn thật sự nguy hại cho đời sống hôn nhân
và gia đình nên cần phải có các biện pháp
hạn chế tình trạng tảo hôn. Tuy nhiên, biện
pháp về pháp luật hiện nay mới chỉ tập
trung vào trường hợp kết hôn trước tuổi luật
định. Đối với trường hợp này, khi có yêu
cầu, toà án sẽ xem xét và có thể sử dụng chế
tài xử huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Trong
khi đó, những trường hợp nam nữ chung
sống như vợ chồng trước tuổi luật định,
không đăng kí kết hôn mới thực sự là “tảng
băng chìm” mà hiện nay chúng ta chưa có
các biện pháp can thiệp thoả đáng. Nhà
nước không công nhận những cuộc hôn
nhân này nhưng những đứa trẻ vẫn ra đời,
các gia đình như vậy vẫn tồn tại trong đời
sống xã hội. Vậy “hệ lụy” từ những cuộc
“hôn nhân” này được giải quyết như thế
nào? Đây là vấn đề đòi hỏi phải có giải
pháp xử lí thích hợp.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật về điều kiện độ tuổi kết hôn và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về điều
kiện kết hôn
Quy định về điều kiện kết hôn có ý
nghĩa sâu sắc đối với đời sống hôn nhân và
gia đình. Bởi lẽ đó, việc hoàn thiện pháp
luật về điều kiện kết hôn và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về điều kiện kết hôn
luôn đòi hỏi phải có sự quan tâm thoả đáng.
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề lí luận và
thực tiễn của quy định về điều kiện kết hôn,
chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về điều kiện độ tuổi kết hôn.
Một là sửa khoản 1 Điều 9 Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 theo
hướng quy định độ tuổi kết hôn đối với nữ
là từ đủ mười tám tuổi trở lên, với nam là từ
đủ 20 tuổi trở lên.
Như đã phân tích ở trên, việc quy định
độ tuổi kết hôn theo luật hiện hành là
không đồng bộ với quy định của pháp luật
dân sự, tố tụng dân sự, mặt khác tạo ra sự
vận dụng tuỳ tiện pháp luật về độ tuổi kết
hôn tối thiểu.
Có nhiều ý kiến cho rằng nên hạ thấp độ
tuổi kết hôn nhưng trong thời điểm hiện
nay, thiết nghĩ, ý kiến này chưa thực sự
thuyết phục. Như chúng tôi đã phân tích ở
trên, sự phát triển sớm ở trẻ mới chỉ tập
trung trong một bộ phận nhỏ mà chưa có
tính phổ biến ở bình diện rộng. Chính vì
vậy, việc hạ thấp độ tuổi kết hôn sẽ không
phù hợp. Chúng tôi cũng không tán đồng
với việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu
giữa nam và nữ là như nhau là bởi lẽ, hầu
hết pháp luật của các quốc gia hiện nay đều
xuất phát từ những lí giải về sự phát triển
về tâm sinh lí của hai phái nam nữ là khác
nhau để quy định về độ tuổi kết hôn. Chính
vì vậy, việc quy định độ tuổi kết hôn tối
thiểu giữa nam và nữ đều có sự chênh lệch
đáng kể. Vấn đề này cũng được soi chiếu
nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học số 11/2011 43
qua cỏc quy nh ca phỏp lut hụn nhõn
v gia ỡnh Vit Nam qua cỏc thi kỡ. Bi
vy, xột trờn khớa cnh khoa hc hay thc
tin, vic quy nh tui kt hụn ti thiu
gia nam v n cú s chờnh lch l cn
thit v phự hp.
Hai l cn phi cú nhng iu tra xó hi
hc c th minh chng cho nhng lun
c v vic chun b l trỡnh phự hp cho
vic h thp tui kt hụn. Chỳng tụi
cng nht trớ vi khớa cnh v vic cú th
xem xột h thp tui kt hụn ti thiu
trong tng lai. Tuy nhiờn, iu ny phi
c xem xột mt cỏch thn trng. Phi chỳ
trng n cỏc kt lun ỏnh giỏ mang tớnh
khỏch quan v ton din ca iu tra xó hi
hc v tui kt hụn quyt nh vic h
thp tui kt hụn ti thiu trong tng lai.
Cú nh vy mi cú th ỏnh giỏ c tỏc
ng ca cỏc quy phm ti i sng hụn
nhõn v gia ỡnh.
Ba l m bo hiu qu iu chnh ca
phỏp lut v iu kin kt hụn, vic hon
thin phỏp lut v iu kin kt hụn l ni
dung quan trng. Tuy nhiờn, cỏc quy
phm ny c thc thi, cng ũi hi phi
cú h thng phỏp lut hon chnh v ng
b. Trong mi liờn h vi vic thc thi
phỏp lut v iu kin kt hụn, chỳng tụi
cho rng cn phi cú nhng gii phỏp phự
hp nhm hon thin phỏp lut mt s
khớa cnh sau:
Th nht, cn tip tc thc hin vic sa
i, b sung cỏc quy nh ca phỏp lut v
h tch qun lớ tt hn cụng tỏc h tch,
to tin quan trng cho vic thi hnh phỏp
lut v tui ti thiu khi kt hụn.
Th hai, cn xõy dng cỏc ch ti hnh
chớnh, hỡnh s tht nghiờm khc nhm m
bo tt mc ớch rn e, phũng nga i vi
cỏc trng hp vi phm iu kin v tui
kt hụn.
Th ba, cn phi tip tc y mnh vic
tuyờn truyn ph bin phỏp lut n mi
ngi dõn. Vic tuyờn truyn ph bin giỏo
dc phỏp lut hụn nhõn v gia ỡnh phi i
cựng vi vic nõng cao kin thc mi mt
cho ngi dõn nht l i vi nam n thanh
niờn, loi b nhng h tc trong i sng
hụn nhõn v gia ỡnh, t ú nh hng cho
nam n thanh niờn cỏch ng x phự hp vi
quy nh ca phỏp lut v iu kin kt hụn,
tin ti xoỏ b tỡnh trng to hụn, gúp phn
xõy dng nhng gia ỡnh dõn ch, ho
thun, hnh phỳc v bn vng./.
(1).Xem: Khon 1 iu 9 Lut hụn nhõn v gia ỡnh
nm 2000.
(2). Ngun:
(3).Xem: Chớnh ph Vit Nam, Bỏo cỏo quc gia v tỡnh
hỡnh thc hin Cụng c CEDAW, bỏo cỏo 3 v 4.
(4). Ngun:
(5). Ngh quyt ca Hi ng thm phỏn To ỏn nhõn
dõn ti cao s 02/2000/NQ-HTP ngy 23/12/2000
hng dn ỏp dng mt s quy nh ca Lut hụn
nhõn v gia ỡnh nm 2000.
(6).Xem: iu 18, iu 19 B lut dõn s nm 2005.
(7).Xem: iu 57 B lut t tng dõn s nm 2004.
(8).Xem: Ngh quyt ca Hi ng thm phỏn To ỏn
nhõn dõn ti cao s 01/2005/NQ-HTP ngy 31/3/2005
hng dn thi hnh mt s quy nh trong phn th
nht Nhng quy nh chung ca B lut t tng dõn
s nm 2004.