Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÀ THÀNH

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÀ THÀNH

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY

Ngành: Chính trị học
Mã số: 8 31 02 01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TSKH. LƢƠNG ĐÌNH HẢI

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp
thực hiện. các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa được ai công bố trong luận văn nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hà Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG ................... 11
CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ............................................................................. 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản ....................................................................... 11
1.2. Những nhân tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực trong
hệ thống chính trị cấp cơ sở ......................................................................... 19
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN LẬP
THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC ...................................................................... 24
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát
triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................................................. 24
2.2. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống chính trị cấp cơ
sở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc........................................................... 34
2.3. Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc ................................................................................. 43

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở
HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY ........................ 56
3.1. Chính sách đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã, thị trấn ............. 56
3.2. Nâng cao chất lượng đầu vào, tạo nguồn nhân lực cán bộ, công chức
cấp xã, thị trấn .............................................................................................. 59
3.3. Đổi mới nội dung, chương trình phương pháp đào tạo bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ công chức cấp xã, thị trấn .......................................................... 61
3.4. Cơ sở đào tạo bồi dưỡng ....................................................................... 65
3.5. Trình độ kỹ năng đội ngũ giảng viên .................................................... 67
3.6. Ngân sách đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ......... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BTV

: Ban thường vụ

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HĐND, UBND

: Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân

MTTQ


: Mặt trận tổ quốc


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Cơ cấu độ tuổi trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã huyện
Lập Thạch ................................................................................................. 36
Bảng 2.2. Số lượng công chức các xã huyện Lập Thạch năm 2016......... 43
Bảng 2.3. Trình độ văn hóa của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã .. 45
Bảng 2.4. Trình độ văn hóa của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
theo từng chức danh giai đoạn 2010 - 2016.............................................. 45
Bảng 2.5. Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức cấp xã ............... 45
Bảng 2.6. Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã theo từng chức danh giai đoạn 2010 - 2016 ......................................... 45
Bảng 2.7. Trình độ lý luận chính trị của cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ........................................................................................................ 47
Bảng 2.8. Trình độ QLNN của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ........................................................................................................ 47
Bảng 2.9. Trình độ QLNN của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã theo
từng chức danh giai đoạn 2010 - 2016 ..................................................... 47
Bảng 2.10. Trình độ Tin học của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ....... 48
Hình 2.1. Lao động phân theo trình độ ..................................................... 44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố giữ vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời sự phát triển của một
quốc gia cũng được đánh giá bằng trình độ phát triển của nguồn nhân lực
ở quốc gia ấy. Bởi vậy các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng sự phát
triển của nguồn lực then chốt này. Trong xu thế toàn cầu hóa hội nhập

quốc tế hiện nay, vai trò của nguồn nhân lực ngày càng được khẳng định
rõ nét. Để có được tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cao, bên cạnh những
yếu tố quan trọng cho mọi sự tăng trưởng như vốn, công nghệ thì sự phát
triển, chất lượng của nguồn nhân lực cũng trở thành một trong những yêu
cầu để hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy việc nâng
cao, phát triển nguồn nhân lực đối với các quốc gia trên thế giới đã và
đang trở thành vấn đề cấp bách, có tính chất chiến lược, sống còn đối với
mỗi quốc gia.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhận thức rõ được
vai trò và tầm quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực đội ngũ cán bộ
đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin từng khẳng
định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào” [50].
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đánh giá rất cao vai trò của
việc phát triển nguồn nhân lực đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
Người từng nhấn mạnh “Cán bộ là cái gốc của mọi việc”, “muôn việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người cũng khẳng
định: “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm
1


cốt cán. Cán bộ lấy đức làm cốt cán. Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện
con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con
người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho con người” [49].
Để tránh sự tụt hậu về kinh tế, bắt kịp với sự phát triển của thời đại,
trải qua các thời kỳ cách mạng, kế thừa và phát huy lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đánh giá
vấn đề bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị

cấp cơ sở là cực kỳ cần thiết, được xem là một trong những nhiệm vụ
chiến lược quan trọng.
Bởi tầm quan trọng đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu mới đã
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, ban hành nhiều chủ trương,
chính sách cần thiết. Đó là, Nghị quyết Trung ương V (khóa IX) về đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị
trấn, đặt ra nhiệm vụ phải “chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải
quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”; Hiến pháp năm
2013; Luật Cán bộ, công chức năm 2008 hay Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất
là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
cùng các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý để từng bước xây dựng,
kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã [71].
Ban thường vụ tỉnh ủy, ban thường vụ huyện ủy, Đảng bộ ở các địa
phương đã và đang ra sức phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính
trị cấp cơ sở từng bước phát triển về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, ở
không ít địa phương, trong nhiều vụ việc cụ thể cho thấy năng lực lãnh
đạo của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, thiếu

2


năng động, chủ động giải quyết công việc; thậm chí, có nơi vẫn để tồn tại
tình trạng thiếu dân chủ, không sâu sát thực tế, quan liêu, sách nhiễu, gây
phiền hà cho người dân… Vẫn còn không ít cán bộ, công chức cấp xã mới
chỉ dừng lại ở trình độ “cầm tay chỉ việc”. Công tác tuyển dụng và đào tạo
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn còn nhiều
hạn chế dẫn tới việc một số cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ không đúng chuyên ngành nên chưa am hiểu nhiều về lĩnh vực
chuyên môn mà vị trí công việc yêu cầu.
Lập Thạch là huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Vĩnh Phúc, dân
số trung bình năm 2016 là 118.772 người, mật độ dân số trung bình là 686
người/km2 [57].
Trong những năm qua huyện Lập Thạch đã có sự phát triển vượt
bậc về các mặt của đời sống kinh tế - xã hội; trong đó, có sự đóng góp
quan trọng và tích cực của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ
sở ở huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng kể đã đạt được,
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở vẫn còn tồn tại một số
những hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực còn chưa cao, chưa phát huy
được hết vai trò của mình trong tổ chức lãnh đạo quần chúng nhân dân.
Từ đó chưa khai thác, tận dụng được hết tiềm năng, thế mạnh của vùng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện Lập Thạch.
Với những lý do trên đây, tác giả lựa chọn đề tài “Phát triển nguồn
nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của hệ thống chính
trị cấp cơ sở, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chỉ thị, đường

3


lối, chính sách nhằm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cấp cơ sở, mà
trước hết coi việc phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cơ sở
là một nhiệm vụ quan trọng bởi chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức
cấp cơ sở được nâng cao sẽ tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng,
tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền, phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề tìm ra giải pháp để phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là một vấn đề được nhiều học giả
quan tâm. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố
có thể kể đến như sau:
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước", PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm đã
nghiên cứu lịch sử phát triển của các khái niệm về cán bộ, công chức,
viên chức; từ đó các tác giả đã lý giải và hệ thống hóa các căn cứ khoa
học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung.
Đồng thời đưa ra các kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm củng cố
và phát triển đội ngũ cán bộ công chức cả về số lượng, chất lượng và cơ
cấu [74].
Trong cuốn "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân", TS.
Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương đã nghiên cứu trên cơ sở
các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trò và vị trí của người cán bộ cách mạng, các
yêu cầu về đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Bên cạnh đó,
các tác giả đã tìm hiểu những bài học kinh nghiệm về việc tuyển chọn và

4


sử dụng nhân tài trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, những kinh nghiệm về xây dựng nền công vụ chính quy hiện
đại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua đó xác định hệ thống
các tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân [59].
Trong cuốn "Mẫu hình và con đường hình thành cán bộ lãnh đạo
chính trị chủ chốt cơ sở", GS.TS Đỗ Nguyên Phương đã phân tích những
lý luận và thực tiễn về hình mẫu của một người cán bộ chân chính, qua đó
tác giả cũng chỉ ra con đường để trở thành một người lãnh đạo chính trị
chủ chốt [60].
Luận văn thạc sĩ của ThS. Trần Ánh Dương về "Nâng cao năng lực
quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay". Theo tác giả, năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ cán
bộ, công chức chính quyền cấp xã được đánh giá dựa trên các tiêu chí sau:
phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, kỹ năng, phương pháp quản lý nhà
nước. Tác giả cho rằng tiêu chí phẩm chất chính trị là tiêu chí quan trọng
nhất, quyết định đến năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức.
Tuy nhiên khi đi sâu đánh giá về thực trạng năng lực quản lý nhà nước
của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh, tác giả
lại chủ yếu tập trung đánh giá năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ cán
bộ, công chức trên các tiêu chí về trình độ: trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ chính trị, trình độ quản lý nhà nướ c, kỹ
năng và phương pháp quản lý nhà nước; và đưa ra các yếu tố có ảnh
hưởng đến năng lực quản lý nhà nước khác như cơ cấu về độ tuổi, cơ cấu
về giới tính,... Như vậy, tác giả mới chỉ đánh giá năng lực quản lý nhà
nước dựa trên các tiêu chí cơ bản thuộc về đội ngũ cán bộ, công chức.
Trên thực tế năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức

5


chính quyền cấp xã còn được đánh giá từ các tiêu chí khác như: đánh giá
năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức cấp xã từ phòng, ban
của huyện; kết quả thực hiện công việc ở bộ phận một cửa; kết quả ban

hành các quyết định quản lý quyết định quản lý hành chính Nhà nước của
UBND xã,...[16].
Luận văn thạc sĩ của ThS. Nguyễn Thị Hậu về “Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện
nay”. Theo tác giả, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức được xác
định trên cơ sở các tiêu chí về phẩm chất đạo đức, về trình độ năng lực
phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức nói chung và của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã nói riêng, về
khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tác giả đã đi sâu phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng của các chức danh cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã, qua đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế. Từ thực trạng đó, tác giả đã đưa ra các giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
[45]. Tuy nhiên, trong quá trình đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã, tác giả chưa bám sát các yêu cầu, tiêu
chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo Quyết định số
04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ [2].
Bên cạnh đó có rất nhiều bài viết, nghiên cứu được đăng trên các
tạp chí như: Thông tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Tổ chức
Nhà nước, Nhà nước pháp luật,…
Bài viết “Bàn về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở xã,
phường, thị trấn” của tác giả Nguyễn Hữu Đức được đăng trên Tạp chí
Tổ chức Nhà nước số tháng 12/2008. Tác giả đã trình bày những hạn chế
về thực trạng số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã
hiện nay, nêu ra những bất cập về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán
6


bộ chuyên trách ở hệ thống chính trị cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn); trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện chế độ,

chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta [23].
Bài viết “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
đáp ứng yêu cầu của Luật cán bộ, công chức” của tác giả Nguyễn Văn
Đức được đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước số tháng 3/2011. Trong
bài viết này, tác giả đã phân tích những bất cập, thiếu sót của các chính
sách về quản lý nhà nước đối với đội ngũ cán bộ công chức cấp xã,
phường, thị trấn ở nước ta qua các giai đoạn từ năm 1975 đến nay. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra các đề xuất, kiến nghị góp phần xây dựng chính
sách quản lý nhà nước đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường,
thị trấn đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay [24].
PGS.TS Hà Quang Ngọc: "Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: thực
trạng và giải pháp", Tạp chí Cộng sản số 2/1999.
GS.TSKH Vũ Huy Từ: "Một số giải pháp tăng cường năng lực đội
ngũ cán bộ cơ sở", Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002.
Th.S Trịnh Văn Khánh: “Nâng cao năng lực thực thi công vụ của
công chức cấp xã”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số tháng 3/2011.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết nghiên cứu nêu
trên đều đề cập đến vấn đề đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp cơ
sở hoặc là ở dạng chung nhất hoặc đặt nó nằm trong phạm vi nghiên cứu
tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền nói chung. Các công trình , bài
viết nghiên cứu trên chủ yếu tập trung đánh giá về chất lượng cán bộ,
công chức dựa trên các tiêu chí như: trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn, trình độ quản lý nhà nước... Tuy nhiên chưa có sự đánh giá rõ nét về
kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chức hoặc có những đánh giá về kỹ
năng nhưng lại chưa gắn với hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, gắn với
7


yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, đánh
giá chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở và đề ra
các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở ở một địa phương cụ thể như đề tài luận văn lựa chọn ở đây. Tuy
nhiên, trong các công trình, bài viết nghiên cứu đã được công bố có những
nội dung liên quan đến đề tài sẽ được tác giả tham khảo có tính kế thừa,
chọn lọc.
Lập Thạch là một huyện miền núi của tỉnh Vĩnh Phúc có 20 đơn vị
hành chính cấp xã (02 thị trấn và 18 xã) [57]. Tỉnh ủy, HĐND, UBND
tỉnh Vĩnh Phúc luôn quan tâm và có nhiều chính sách ưu đãi đối với
huyện Lập Thạch về phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và nguồn nhân lực
nhằm đưa huyện phát triển trở thành một trong những trung tâm kinh tế văn hóa xã hội của tỉnh. Tuy nhiên do sự thiếu hụt và năng lực còn hạn
chế của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
nói riêng trong triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội nên hiệu quả thu được qua việc thực hiện các
chính sách này còn nhiều hạn chế. Trong những năm qua việc tổng kết,
đánh giá đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán
bộ, công chức viên chức cấp cơ sở (xã, thị trấn) ở huyện thực hiện còn
chậm, chưa có các giải pháp đồng bộ phù hợp với đặc thù đối với đội ngũ
cán bộ công chức viên chức của huyện nói chung, cán bộ, công chức
chính quyền cấp cơ sở (xã, thị trấn) nói riêng.
Đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về công tác phát
triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở (xã, thị trấn) trên
địa bàn huyện. Đề tài kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu trước

8


song không trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân
lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, đồng thời phân tích thực trạng công
tác phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện
Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp
tục phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện
Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta hiện nay.
Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính
trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua.
Luận giải một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc dưới góc độ
chính trị học.
4.2. Về phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở (xã, thị trấn) ở huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2016.

9


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Bên cạnh đó, luận văn
có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình đi trước có liên quan
đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê,
điều tra xã hội học, so sánh… nhằm giải quyết những nhiệm vụ mà đề tài
đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Qua kết quả nghiên cứu, dưới góc độ chính trị học, đề tài góp phần
phác thảo bức tranh khái quát về thực trạng và những vấn đề đang đặt ra
đối với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ
sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn khoa học, luận văn
góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần phát triển nguồn nhân
lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn mới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 chương và 11 tiết.

10


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Nguồn nhân lực

Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nguồn nhân lực là nhân tố
nòng cốt có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế. Do đó việc nhận thức rõ nội dung, tính chất đặc điểm của sự phát
triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là vấn đề lý luận quan trọng.
Nguồn nhân lực đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học khác nhau, và đã có nhiều phương cách khác nhau được sử dụng để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội.
Nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành trong quá trình
nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực
của sự phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như trong
nước, các tổ chức đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ
khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp.
Nhân lực là sức lực của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực),
trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân
(trí lực), những ham muốn hoài bão của bản thân người lao động hướng
tới một mục đích xác định (tâm lực)”. Như vậy, nguồn nhân lực được hiểu
là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức lực của con người trên đầy đủ các
phương diện cho lao động sản xuất [72].
Theo Liên Hợp quốc “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
11


năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ
tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Ngân hàng thế giới
cho rằng "Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí
lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân". Trong trường hợp này,
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn
vật chất khác như: vốn tiền tệ, vốn công nghệ, vốn tài nguyên thiên nhiên.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế "Nguồn nhân lực của một quốc gia là
toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động".
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, nguồn nhân
lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn
lực con người cho sự phát triển, do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ
dân cư có thể phát triển bình thường; theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là
khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham
gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham
gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ
được huy động vào quá trình lao động.
Dưới góc độ kinh tế phát triển: "Nguồn nhân lực là một bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động". Nguồn
nhân lực ở đây được biểu hiện trên hai mặt: mặt thứ nhất là về số lượng,
đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định
của nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; mặt thứ
hai về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và
trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những
người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang
tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt:
số lượng và chất lượng.

12


Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, với những nội hàm khác
nhau, trên phương diện kinh tế chính trị và để đáp ứng yêu cầu của luận
văn thì nguồn nhân lực được hiểu là: tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại
trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết
tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong

lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ
cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực
Ngày nay, con người được coi là “ nguồn tài nguyên đặc biệt”, là
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Do vậy, vấn đề phát triển con người,
phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí then chốt trong hệ
thống phát triển các nguồn lực. Quan tâm chăm lo toàn diện đến con
người là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm chắc chắn nhất cho
sự phồn vinh, thịnh vượng của một quốc gia, một dân tộc. Đầu tư cho con
người là đầu tư có tính chiến lược, lâu dài, là cơ sở nền tảng cho sự phát
triển bền vững của đất nước.
Cho tới ngày nay, do xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau,
nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về vấn đề phát triển nguồn
nhân lực. Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), phát triển nguồn nhân lực
bao hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ là kỹ năng lao động, vấn đề đào tạo
nói chung mà còn đề cập phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của
con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề
nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề của một người lao động ngày
càng được hoàn thiện nhờ có sự bổ sung và nâng cao kiến thức trong quá
trình sống và làm việc [66]. Theo quan niệm của Liên Hợp quốc "Phát
triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng
con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất

13


lượng cuộc sống" [66]. Có quan điểm cho rằng: "Phát triển nguồn nhân
lực là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả
trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở
thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp

ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh
tế - xã hội". Một số tác giả khác lại quan niệm: "Phát triển là quá trình
nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực,
đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn
nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm
để phát triển kinh tế - xã hội".
Từ những quan điểm trình bày trên, có thể hiểu phát triển nguồn
nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu
nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức
và kiến thức chuyên môn; nền văn hóa truyền thống lịch sử dân tộc, ý chí
của con người trong lao động (quá trình nâng cao thể lực, trí lực và nhân
cách).
Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chỉnh thể
gồm các thiết chế chính trị bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân (bao gồm Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) được tổ chức từ
Trung ương đến cơ sở, hoạt động theo một cơ chế nhất định, nhằm mục
đích bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

14


Hệ thống chính trị cấp cơ sở
Hệ thống chính trị cấp cơ sở (hay còn gọi là hệ thống chính trị cấp
xã, phường, thị trấn) là tổng thể bao gồm: Đảng bộ cơ sở, chính quyền,

các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cấp cơ sở.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở phạm vi huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc mà luận văn đang nghiên cứu là hệ thống chính trị cấp xã, thị trấn
của huyện bao gồm: Đảng ủy xã, thị trấn; Chính quyền (HĐND và
UBND) xã, thị trấn; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị (Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ)
Cán bộ cơ sở
Theo Luật Cán bộ Công chức, quy định về cán bộ cấp cơ sở như
sau: Cán bộ cơ sở (xã, phường, thị trấn) là công dân Việt Nam, được bầu
cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội [61].
Chức danh cán bộ cơ sở bao gồm:
+ Bí thư, phó bí thư đảng uỷ, thường trực Đảng ủy cấp xã (nơi
không có phó bí thư chuyên trách công tác Đảng); Bí thư, phó bí thư chi
bộ xã (nơi chưa thành lập đảng ủy cấp xã);
+ Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Phụ nữ;

15


+ Chủ tịch Hội Nông dân (áp dụng đối với những xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông

dân Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Công chức cơ sở
Công chức cơ sở (xã, phường, thị trấn) là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Chức danh công chức cơ sở bao gồm:
+ Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn), địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội.
Vai trò của cán bộ, công chức cơ sở (xã, phường, thị trấn) chính là
cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đội ngũ cán bộ công chức cơ
sở (xã, phường, thị trấn) đều trưởng thành từ thực tiễn sản xuất và trực
tiếp gắn bó với đời sống của nhân dân ở địa phương. Họ có mối liên hệ
mật thiết, gắn bó thường xuyên với quần chúng nhân dân, trực tiếp xử lý,
giải quyết mọi tình huống phát sinh ở cơ sở. Hơn ai hết, họ là những
người am hiểu đặc điểm tình hình địa phương, thấu hiểu những mong
muốn, tâm tư, nguyện vọng của người dân một cách nhanh nhất, chính xác
nhất. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là những
người trực tiếp đem các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và

16


Nhà nước giải thích, truyền tải cho nhân dân hiểu rõ và thi hành. Thông

qua việc nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối và
chính sách, pháp luật, cán bộ công chức cơ sở là những người phát hiện ra
những điểm còn hạn chế, thiếu sót của các chính sách khi triển khai trong
thực tế đời sống, đồng thời là kênh để chuyển tải những mong muốn,
nguyện vọng của nhân dân lên với Đảng và Nhà nước để từ đó Đảng và
Nhà nước có sự điều chỉnh, bổ sung cho đúng, phù hợp với thực tiễn và
thuận với lòng dân.
Cán bộ, công chức cơ sở (xã, phường, thị trấn) có vai trò trong việc
xây dựng, hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)
hoạt động thi hành nhiệm vụ, công vụ. Trong xây dựng bộ máy của chính
quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) chính đội ngũ cán bộ công chức là
những người bố trí, sắp xếp sao cho cơ cấu tổ chức của chính quyền trở
nên khoa học, tinh gọn, hợp lý, phân công đúng người, đúng việc, không
có sự cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa
các bộ phận, phòng ban. Tổ chức bộ máy ở cơ sở vững mạnh là nền tảng,
tiền đề để phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ công chức đồng thời góp
phần kiện toàn và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước. Trong hoạt động
thi hành nhiệm vụ công vụ, cán bộ công chức cơ sở là những người trực
tiếp tổ chức thực hiện và góp phần quyết định sự thành bại của đường lối
và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn đời sống.
Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
có được thực thi tốt hay không, có hiệu quả hay không một phần quyết
định là ở cấp cơ sở. Cán bộ, công chức cơ sở luôn phát huy những vai trò
của mình trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước, của các địa
phương; trực tiếp với quần chúng, tạo dựng phong trào cách mạng quần
chúng. Hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp cơ sở xét đến cùng chính

17



là được quyết định bởi phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của đội
ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở.
Đồng thời cán bộ, công chức cơ sở còn có vai trò quan trọng trong
quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở, phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm lợi ích của nhân dân địa phương. Tùy theo vị trí, chức danh
của mình, mỗi cán bộ, công chức cấp cơ sở sẽ đảm nhận và thực hiện
những nhiệm vụ nhất định, chẳng hạn: Công chức Trưởng Công an xã sẽ
có nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo chính quyền xã và có nhiệm vụ đảm
bảo, quản lý về tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn xã, công chức
văn hóa xã hội sẽ đảm nhận các hoạt động để quản lý và phát triển lĩnh
vực văn hóa - xã hội ở địa phương...Việc thực thi công vụ của họ có vai
trò trực tiếp bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự
do, dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
thông qua việc xử lý, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
kịp thời, hiệu quả, góp phần ổn định tình hình an ninh - chính trị, trật tự
an toàn xã hội tại từng địa bàn thôn, xóm.
Để thực hiện tốt những vai trò này đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã phải có khả năng tổ chức, sử dụng, tập hợp mọi người cùng
tham gia hoạt động; phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh ở cơ
sở, đó là các tình huống về tài chính, ví dụ: giải tỏa, đền bù đất đai; các
tình huống về thiên tai, địch họa; về xử lý vi phạm pháp luật, những va
chạm xóm giềng, dòng tộc hay những tình huống nảy sinh khi ra những
quyết định sai trái với cấp trên… Đồng thời cán bộ công chức phải có khả
năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình, của đồng nghiệp và khả năng
tổng kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách để góp phần
quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở.

18



Do vậy phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc chính là hoạt động đào tạo và bồi
dưỡng, phát triển về chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp
cơ sở (xã, thị trấn) để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi công vụ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, quy hoạch, phát triển đội ngũ cán bộ công
chức cấp cơ sở (xã, thị trấn). Cán bộ công chức cấp cơ sở (xã, phường, thị
trấn) được đào tạo, bồi dưỡng, qua đó họ sẽ biết tiếp thu và vận dụng
những kiến thức, kỹ năng được học vào công việc của mình, làm cho chất
lượng công việc được nâng lên, mang lại hiệu quả chung cho tổ chức nói
chung và cá nhân nói riêng.
1.2. Những nhân tố tác động đến quá trình phát triển nguồn
nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
Một là, Chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức
cấp cơ sở. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên, tạo nền móng và định hướng
cho việc xây dựng kế hoạch, triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức cấp cơ sở. Chính sách là phương tiện để thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Thông qua các
chính sách về đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở,
Đảng bộ và chính quyền địa phương sẽ xác định rõ chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của từng ngành, cơ quan trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức. Từ đó chính quyền địa
phương có thể xây dựng chiến lược, các kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng
phù hợp với đặc thù của từng ngành, địa phương, đáp ứng yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở đủ về số lượng,
nâng cao chất lượng và hợp lý về cơ cấu. Đồng thời chính quyền địa
phương sẽ thực hiện kiểm soát, thẩm tra công tác đào tạo và bồi dưỡng,

19



×