Tải bản đầy đủ (.doc) (241 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN tố CHỦ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cấp cơ sở ở bà rịa VŨNG tàu HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.54 KB, 241 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi dân sinh sống, nơi diễn ra hoạt động
của đời sống xã hội. Do đó, cơ sở gắn liền mật thiết với quyền và lợi ích của
nhân dân. Hệ thống chính trị (HTCT) cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong
việc triển khai, tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ở cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát
huy mọi nguồn lực, khả năng của cơ sở; nơi nhạy cảm để phát hiện những mặt
đúng, sai và đề xuất, bổ sung đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với
các cấp lãnh đạo thông qua thực tiễn ở cơ sở... Cơ sở là địa chỉ cần phải tới, là
đích cần đạt được của tất cả mọi chỉ đạo chiến lược từ Trung ương đến địa
phương.
Gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, cùng với những
thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị (HTCT) nói chung và
cấp cơ sở nói riêng đã có nhiều sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đứng trước
yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
đất nước, HTCT nói chung và nhất là cấp cơ sở đang bộc lộ nhiều vấn đề bất
cập như: mở rộng quyền dân chủ của người dân nhưng chưa làm được bao
nhiêu; phát huy quyền tự chủ, tự quản địa phương nhằm huy động nguồn lực
trong cộng đồng còn rất to lớn nhưng còn hạn chế; bất cập giữa yêu cầu phát
huy nguồn lực địa phương với hạn chế của trình độ, năng lực của đội ngũ cán
bộ cơ sở v.v... Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vi
phạm dân chủ, quyền làm chủ của dân xảy ra ở nhiều nơi, có nơi nghiêm
trọng. Nội dung và phương thức hoạt động của HTCT cấp cơ sở chậm đổi
mới, còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, không
phù hợp với chuyển biến của xã hội [37, tr. 83].



2

Vì vậy, Đảng ta xác định xây dựng và củng cố HTCT cấp cơ sở vừa là
nhiệm vụ có tính cấp bách và chiến lược lâu dài, đây là đòi hỏi của công cuộc
đổi mới, đồng thời cũng là những yêu cầu bức xúc, sự mong mỏi của người dân
muốn phát huy quyền làm chủ của mình từ cơ sở.
Nghiên cứu về nhân tố chủ quan (NTCQ) và phát huy vai trò của nó
trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở cho ta xác định rõ những yếu tố trực
tiếp, có vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động của HTCT cấp cơ sở; từ
đó đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTCT
cấp cơ sở hiện nay, đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu
* Vấn đề chủ quan và khách quan đã được nhiều nhà triết học quan
tâm, nghiên cứu, vì đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động thực tiễn
của con người. Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này có thể phân ra theo
thời gian và vấn đề nghiên cứu như sau:
- Ở Liên Xô (trước đây): Vấn đề khách quan, chủ quan liên quan đến
việc vận dụng các quy luật xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH); do đó, thời kỳ trước "Perestroika" (1985) đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này, như "Phép biện chứng về điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản" của
G.E.Gleserman, Tạp chí Những vấn đề triết học, số 6/1965; tác phẩm "Cái
khách quan và cái chủ quan" của V.Ph.Cudơmin, Mátxcơva, 1976; "Biện
chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong sự biểu hiện của các quy
luật xã hội" của A.Ph.Iaxkevích, Minxcơ, 1982; "Biện chứng của cái khách
quan và cái chủ quan trong chủ nghĩa xã hội phát triển" của tập thể tác giả,
Kiep, 1980, "Cái khách quan và cái chủ quan trong các quá trình xã hội" của
B.A.Vôrônôvích, Tạp chí Khoa học triết học, số 3/1984… Trong những công
trình, bài báo của mình, các nhà triết học Liên Xô cũ đã xuất phát từ quan
điểm duy vật biện chứng để xem xét khách quan, chủ quan, NTCQ và điều



3

kiện khách quan (ĐKKQ), quan hệ biện chứng cái khách quan và cái chủ
quan, vấn đề phát huy vai trò của NTCQ trong quá trình xây dựng CNXH và
chủ nghĩa cộng sản v.v… Tuy là những tác phẩm, bài viết trong thời kỳ xây
dựng CNXH trước đây ở Liên Xô và Đông Âu, với hoàn cảnh lịch sử khác xa
bây giờ; song, những công trình, bài báo này vẫn có giá trị về mặt khoa học,
cung cấp cho chúng ta quan niệm mácxít về khách quan, chủ quan, nhân tố
chủ quan, về biện chứng cái khách quan và cái chủ quan...
- Ở Việt Nam, trong những năm gần đây cũng có một số công trình
nghiên cứu vấn đề ĐKKQ và NTCQ. Đề cập trực tiếp đến vấn đề phát huy vai
trò NTCQ trong hoạt động của chủ thể ở một số lĩnh vực liên quan đến HTCT
có thể kể đến một số luận án tiến sĩ và bài viết sau đây:
+ Luận án Phó tiến sĩ Triết học của Lê Hữu Xanh, Hà Nội, 1994 về
"Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên
nông thôn nước ta hiện nay". Tác giả luận án đã trình bày về NTCQ và vai trò
của nó trong xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên ở nông thôn hiện nay; trên cơ
sở xem xét ĐKKQ tác động đến NTCQ của đội ngũ đảng viên ở nông thôn,
thực trạng về NTCQ của đội ngũ đảng viên ở nông thôn, những vấn đề đặt ra;
đã đưa ra phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao vai trò NTCQ trong
việc xây dựng đội ngũ cán bộ nông thôn nước ta hiện nay. Trong các vấn đề
của tác giả đề cập đến có vấn đề về NTCQ của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở
nông thôn hiện nay [123].
+ Luận án Tiến sĩ Triết học của Phạm Ngọc Minh, Hà Nội, 1999: "Về
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở
nước ta hiện nay". Tác giả đã hệ thống lại một số quan điểm của các nhà nghiên
cứu về chủ thể, khách thể, chủ quan, khách quan, NTCQ, ĐKKQ, mối quan
hệ biện chứng của NTCQ và nhân tố khách quan, phân tích NTCQ và nhân tố

khách quan, những kinh nghiệm và vấn đề đặt ra trong việc xây dựng mối


4

quan hệ giữa chúng trong điều kiện cả nước tiến lên CNXH và nêu lên những
giải pháp nâng cao vai trò NTCQ trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm của các nhà nghiên cứu và tác giả luận án trên về NTCQ
có những điểm thống nhất, có những điểm khác biệt. Qua đó giúp cho việc kế
thừa một cách có chọn lọc các quan điểm về NTCQ để đi sâu vào nghiên cứu
vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT ở cơ sở.
+ Trên nhiều tạp chí lý luận, sách tham khảo cũng có nhiều bài viết đề
cập tới vấn đề NTCQ, chẳng hạn: "Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn tác
dụng năng động của nhân tố chủ quan" của Lê Hữu Tầng, trong cuốn "Đại
hội V, mấy vấn đề lý luận", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984; "Nhân tố chủ quan
trong cơ chế vận dụng và trong hoạt động của các quy luật xã hội" của
Lương Việt Hải, Tạp chí Triết học, số 4/1986; "Những yếu tố cơ bản tăng
cường chất lượng của nhân tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội" của
Trần Bảo, Tạp chí Triết học, số 3/1991; "Vị trí vai trò nhân tố chủ quan trong
cơ chế tác động của các quy luật xã hội" của Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học,
số 3/1989... Nhìn chung, những bài viết này xem xét nhiều khía cạnh của mối
quan hệ ĐKKQ và NTCQ, việc phát huy vai trò NTCQ trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta.
* Vấn đề thứ hai liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án là
HTCT cấp cơ sở ở nước ta.
+ Nghiên cứu về HTCT ở nước ta có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn
đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay; vì vậy, vấn đề này đã thu hút
được nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Chỉ tính riêng về các đề tài khoa học
nghiên cứu đổi mới HTCT cũng đã có khá nhiều. Trong đó, trước hết phải kể
đến công trình tiêu biểu là Chương trình khoa học cấp nhà nước KX05 nghiên

cứu về HTCT trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với nhiều
đề tài nhánh, tập hợp nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia về


5

lĩnh vực này tham gia. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện cả về lịch
sử, lý luận và thực tiễn của HTCT ở nước ta hiện nay. Hiện nay Ban tổ chức
Trung ương đang triển khai Chương trình khoa học cấp Nhà nước "Tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế", mã số KX.10.
Ngoài ra, còn rất nhiều cuốn sách, bài viết của các nhà nghiên cứu về HTCT,
như: "Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới",
GS. Nguyễn Đức Bình, GS.TS Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn Trọng Truyến,
Nguyễn Văn Thảo, PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999; "Giải pháp đổi mới của hệ thống chính trị ở các tỉnh
miền núi ở nước ta hiện nay", PGS.TS Tô Huy Rứa, PGS.TS Nguyễn Cúc,
PGS.TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003; "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới", GS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa, PGS.TS Trần Khắc
Việt (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004 v.v...
+ HTCT cấp cơ sở là vấn đề được đặc biệt quan tâm nghiên cứu trong
những năm gần đây. Điều này xuất phát từ thực tiễn của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề nảy sinh từ cơ sở, cho thấy vị trí, vai trò đặc biệt
của cơ sở trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Muốn phát huy sức mạnh
của HTCT cần phải bắt đầu từ cơ sở. Do đó, HTCT cấp cơ sở đã được Đảng và
Nhà nước quan tâm chỉ đạo sâu sát hơn. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ Năm (khóa IX) đã đề ra nghị quyết rất quan trọng về "Đổi mới, nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở xã, phường, thị trấn". Nhiều văn
bản của Đảng, Chính phủ đã ban hành liên quan đến chức năng, nhiệm vụ hoạt

động của các tổ chức trong HTCT cơ sở, chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức cơ sở v.v...
Vì vậy, vấn đề này càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu, cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở. Học viện Chính trị


6

Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: "Nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta hiện nay: quan
niệm, vấn đề và giải pháp". Hội thảo này góp phần triển khai đề tài cấp Nhà
nước "Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay". Sau hai năm
nghiên cứu (2000-2002), đề tài hoàn thành. Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
đã được xuất bản thành sách có tựa đề "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn
nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, GS.TS Hoàng Chí
Bảo (chủ biên). Đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về HTCT ở
cơ sở nước ta hiện nay với tính chất và quy mô một đề tài khoa học cấp Nhà
nước [12, tr. 9]. Trong công trình nghiên cứu, các tác giả đã luận chứng khoa
học về HTCT và HTCT ở cơ sở; lịch sử và lý luận về cơ sở và HTCT ở cơ sở
nông thôn nước ta; thực trạng tổ chức và hoạt động của HTCT ở cơ sở nông
thôn hiện nay; những phương hướng, quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục
đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở nông thôn. Những quan điểm
về cơ sở và HTCT ở cơ sở của các công trình khoa học trên giúp cho tác giả
luận án có thể kế thừa về lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu về vai trò NTCQ
trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở của Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT).
Ngoài các công trình nghiên cứu khoa học trên còn có những cuốn
sách chuyên khảo khác liên quan đến HTCT cấp cơ sở như: "Chính quyền cấp
xã và quản lý nhà nước ở cấp xã", Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Hà Nội,
1999; "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; "Quản lý xã hội nông
thôn nước ta hiện nay - Một số vấn đề và giải pháp", Phan Đại Doãn (chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng
chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", TS Nguyễn Văn Sáu, GS Hồ Văn
Thông (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003,"Hệ thống chính
trị cấp cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới", Bộ Nội vụ, Viện Nghiên


7

cứu khoa học tổ chức Nhà nước, TS Chu Văn Thành (chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004 v.v... Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến vấn đề
lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở ở nông thôn hiện
nay.
Trên một số tạp chí chuyên ngành gần đây có nhiều bài viết nghiên
cứu về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT cấp xã, phường, thị trấn, như:
"Quan điểm và giải pháp để củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ
sở" của PGS.TS. Hoàng Chí Bảo, (Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2002); "Hệ thống
chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết"
của Hồ Minh Đức (Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2002)...
+ Tỉnh BR-VT trong những năm qua cũng đã có một số đề tài nghiên
cứu liên quan đến HTCT cấp cơ sở như: "Mô hình và con đường hình thành
người cán bộ lãnh đạo chính trị ở phường, xã của Vũng Tàu", do Ngô Thành
làm chủ nhiệm, Vũng Tàu, 1992; "Cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ
chốt trong hệ thống chính trị huyện, thị, thành phố, xã, phường, thị trấn của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu", do Nguyễn Việt Nhân làm chủ nhiệm, Vũng Tàu,
1996.
Đề tài "Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa Vũng Tàu, đáp ứng yêu cầu giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Chủ
nhiệm đề tài Nguyễn Quang Phi, Nguyễn Hồng Lương, nghiên cứu từ 6/2003
đến 6/2005. Đây là đề tài khoa học cấp tỉnh đầu tiên có quy mô nghiên cứu

khá toàn diện về hoạt động của HTCT cấp cơ sở xã, phường, thị trấn của tỉnh.
Trên cơ sở xác định những tiêu chí cơ bản về chất lượng hoạt động của HTCT
cơ sở, đề tài đánh giá thực trạng hoạt động của HTCT ở xã, phường, thị trấn
của BR-VT và những vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp và
kiến nghị về nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở của BR-VT
đáp ứng yêu cầu giai đoạn CNH, HĐH. Đề tài cung cấp những tư liệu thực
tiễn về hoạt động của HTCT ở cơ sở, giúp cho luận án có thể khái quát về vai


8

trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở của BR-VT. Những phương
hướng, giải pháp của đề tài khoa học cũng là những gợi mở cho phương
hướng và giải pháp phát huy vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT ở cơ
sở.
Như vậy, mặc dù rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu liên quan
đến luận án, tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào trực tiếp nghiên
cứu về vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT ở cơ sở. Đây là cách tiếp cận
riêng của luận án để nghiên cứu về HTCT ở cơ sở, nó cho phép xem xét toàn
diện những yếu tố tác động (ĐKKQ) và những yếu tố trực tiếp, "là nguyên
nhân" tạo ra sự tích cực, năng động, sáng tạo của các chủ thể trong HTCT ở
cơ sở. Từ nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ trong
hoạt động của HTCT cấp cơ sở sẽ giúp cho ta đánh giá thực trạng và đề ra
những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng HTCT cấp cơ sở hiện nay. Do
đó, nghiên cứu vấn đề: "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong hoạt động
của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay" sẽ có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của
HTCT ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới, nhất là đối với tỉnh BR-VT.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích

Trên cơ sở nhận thức về vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp
cơ sở và thực trạng việc phát huy vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT
cấp cơ sở ở BR-VT, luận án đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết sau:


9

- Phân tích NTCQ và vai trò của nó trong hoạt động của HTCT cấp cơ
sở.
- Đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò NTCQ trong hoạt động của
HTCT cấp cơ sở ở BR-VT hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Luận chứng cơ sở khoa học phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở ở BR-VT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp
cơ sở ở BR-VT qua khảo sát ở xã, phường, thị trấn của tỉnh BR-VT và một số
tỉnh khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam hiện nay. BR-VT nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, có rất nhiều mặt tương đồng với các tỉnh này về
mặt địa lý, tự nhiên, lịch sử và quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên cứu
HTCT cấp cơ sở của BR-VT có sự phân tích, so sánh với các tỉnh vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam sẽ giúp cho việc hiểu được những nét chung và nét đặc thù
của BR-VT; trên cơ sở đó đề ra những giải pháp và kiến nghị vừa có tính thiết
thực với BR-VT và vừa có thể tham khảo vận dụng với các tỉnh khác trong vùng
cũng như cả nước.
Nước ta là nước nông nghiệp, do đó khi nói đến cơ sở thì xã ở nông thôn
là chủ yếu. Ở BR-VT xã cũng chiếm khoảng 3/4 trên tổng số các xã, phường,

thị trấn của tỉnh. Các phường, thị trấn ở BR-VT cũng chỉ mới hình thành
không lâu do quá trình đô thị hóa, vì vậy vẫn mang đậm nét của xã. Do đó,
luận án khái quát vai trò NTCQ chung của HTCT cả ba loại hình xã, phường,
thị trấn ở BR-VT, nhưng chủ yếu khái quát từ loại hình xã, có xem xét sự
khác biệt của phường và thị trấn.
5. Cái mới về mặt khoa học


10

Luận án góp phần làm rõ vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT
cấp cơ sở; từ góc nhìn khách quan, chủ quan, luận án phân tích, đánh giá thực
trạng việc phát huy vai trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở ở BRVT, đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò NTCQ
trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở ở BR-VT hiện nay.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về HTCT ở cơ sở; kế thừa có chọn lọc quan điểm của các tác
giả trong và ngoài nước về vấn đề NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp cơ
sở.
- Cơ sở thực tiễn: Chủ yếu nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn hoạt động
của HTCT cấp cơ sở ở BR-VT hiện nay, có tham khảo ở một số tỉnh khu vực
kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, kết hợp các phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp, điều tra xã hội học... để phân tích, đánh giá thực trạng việc phát huy vai
trò NTCQ trong hoạt động của HTCT cấp cơ sở của BR-VT và đề ra phương
hướng, giải pháp phát huy vai trò NTCQ.
7. Giá trị của luận án
- Dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu trong

lĩnh vực triết học ở các trường chính trị tỉnh và trung tâm giáo dục chính trị
cấp huyện;
- Phục vụ tham khảo trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn về xây
dựng HTCT ở cơ sở.


11

8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 3 chương, 7 tiết.


12

Chương 1
NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ

1.1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ

1.1.1. Nhân tố chủ quan
1.1.1.1. Quan niệm về nhân tố chủ quan
Khái niệm "nhân tố chủ quan" có mối quan hệ chặt chẽ trong hệ thống
các khái niệm "chủ thể", "khách thể", "khách quan", "chủ quan", "cái chủ quan",
"cái khách quan"... và được hình thành, phát triển trong quá trình nghiên cứu
hoạt động của con người. Vì thế, để hiểu "nhân tố chủ quan" trước hết cần bắt
đầu nghiên cứu các khái niệm trên.
Từ thời triết học cổ đại đến nay, vấn đề chủ thể - khách thể, chủ quan khách quan... đã được đề cập và nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, bởi

nó liên quan trực tiếp đến vấn đề cơ bản của triết học. Tuy nhiên, chưa có nhà
triết học nào trước C.Mác nghiên cứu trực tiếp các vấn đề trên với tư cách là
những khái niệm mang nội dung duy vật khoa học như hiện nay. Các nhà triết
học trước C.Mác chỉ xem chúng trong khuôn khổ hoạt động nhận thức của
con người hoặc tách rời với hoạt động thực tiễn. Khác với các quan điểm đó,
C.Mác cho rằng đây không chỉ là vấn đề của nhận thức luận, mà trước hết là
vấn đề của hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đều không
dành riêng một tác phẩm, một bài viết, hoặc chuyên luận nào nghiên cứu các
khái niệm trên. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy những chỉ dẫn hết sức quan trọng
về mặt phương pháp luận trong tác phẩm của các ông.
Theo quan niệm của C. Mác, khách thể, chủ thể và mối quan hệ của
chúng không đồng nhất với vấn đề cơ bản của triết học, song, để giải quyết


13

đúng đắn quan hệ giữa chủ thể, khách thể... cần phải đứng trên lập trường duy
vật triệt để, khoa học. Con người, theo Mác, chỉ trở thành chủ thể khi tham
gia vào hoạt động nhằm cải tạo và nhận thức thế giới. Còn khách thể là một
bộ phận của hiện thực khách quan chịu sự tác động của chủ thể.
Quan niệm mácxít về khách thể và chủ thể được tiếp tục phát triển và
cụ thể hóa trong các tác phẩm của V.I.Lênin, như "Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán" và "Bút kí triết học". Theo V.I.Lênin, quá trình
nhận thức từ những giai đoạn đầu đã được nhằm vào khách thể. Người chỉ rõ,
ngay trong cảm giác, cái được đem lại cho chủ thể không phải là bản thân chủ
thể mà là thực tại khách quan đối lập với chủ thể. Đồng thời sự vận động của
tri thức đi vào chiều sâu của khách thể có thể được hiểu là sự vận động từ ý
niệm chủ quan đến chân lý khách quan [58, tr. 215].
Lênin hiểu tri thức chủ quan trong trường hợp này không phải là "sự
tự ý thức thuần túy" tách khỏi thế giới hiện thực và không phải là kết quả của

óc tưởng tượng thất thường của chủ thể ánh xạ vào thế giới hiện thực. Gắn sự
vận động từ cái chủ quan đến cái khách quan với quá trình vận động biện
chứng của nhận thức đến chân lý khách quan, V.I.Lênin coi tư tưởng chủ
quan là tri thức mà nội dung của nó do khách thể quy định, nhưng trong đó
các quan hệ khách quan giữa các yếu tố của nội dung chưa được phát hiện đầy
đủ, chưa được thực tiễn kiểm nghiệm. Nhận thức là một quá trình vô tận được
đặc trưng bằng sự nâng cao tính khách quan của tri thức.
Như vậy, mặc dù trong các tác phẩm kinh điển Mác-Lênin không trực
tiếp đề cập đến khái niệm NTCQ, nhưng đã cho chúng ta phương pháp luận
duy vật biện chứng để hiểu các vấn đề khách thể, chủ thể, khách quan, chủ
quan và mối quan hệ biện chứng của chúng trong hoạt động của con người. Đây
là cơ sở quan trọng để chúng ta có thể đi sâu tìm hiểu quan niệm về NTCQ.
Các nhà triết học Mác - Lênin hầu hết đều thống nhất về những vấn đề
cơ bản trong các khái niệm chủ thể - khách thể, khách quan - chủ quan,


14

NTCQ, ĐKKQ... Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn những ý kiến khác nhau về
một số vấn đề.
Trước hết, về khái niệm chủ thể - khách thể. Các nhà triết học mácxít
đều cho rằng "chủ thể" của hoạt động nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội đó
là con người. Do vậy, khi nói đến "chủ thể" là nói đến con người, đến tổ chức
và xã hội tham gia vào trong hoạt động nhận thức, cải tạo thế giới và cải tạo
chính bản thân mình. Tuy nhiên, "chủ thể" không phải là con người, hay một
tổ chức nói chung, mà là con người hay tổ chức cụ thể đang tham gia vào
những hoạt động cụ thể, tác động vào giới tự nhiên, xã hội. Chỉ trong quá
trình nhận thức và cải tạo thế giới con người mới bộc lộ mình với tư cách là
chủ thể của lịch sử. Vì vậy, có thể đồng ý với quan điểm cho rằng "chủ thể" đó là con người hoạt động với những cấp độ tồn tại khác nhau đã, đang thực
hiện sự tác động đến khách thể [75, tr. 10]. Đặc trưng chủ yếu nhất của con

người với tư cách là chủ thể là năng lực hoạt động sáng tạo, là "khuynh hướng
tự mình thực hiện mình, tự cho mình, qua bản thân mình, một tính khách quan
trong thế giới khách quan và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mình" [58, tr. 228229]. Điều đó có nghĩa là con người chỉ trở thành "chủ thể" khi tự bộc lộ năng
lực sáng tạo của mình, tự thể hiện bản chất của mình thông qua hoạt động.
Tùy theo cấp độ mà "chủ thể" có thể là cá nhân, một tổ chức (như Đảng, Nhà
nước, đoàn thể), một cộng đồng xã hội (như giai cấp, dân tộc...) hay xã hội
loài người khi tham gia vào hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới khách
quan.
Trong quá trình hoạt động, con người với tư cách là chủ thể tác động
vào hiện thực khách quan (bao gồm cả trong tự nhiên và đời sống xã hội) như
là đối tượng bên ngoài, mà con người cần nhận thức và cải tạo, nhằm thỏa
mãn nhu cầu và lợi ích của mình. Hoạt động là một phương thức đặc thù của
con người quan hệ với thế giới, một quá trình qua đó con người nhận thức và cải
tạo thế giới, do đó làm cho bản thân mình trở thành chủ thể hoạt động [103, tr.


15

493]. Bộ phận của hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận thức
và cải tạo là khách thể. Tuy nhiên, khái niệm khách thể khác với khái niệm đối
tượng - chỉ là một phần của khách thể mà chủ thể trực tiếp tác động đến. Khách
thể bao gồm những hiện tượng không chỉ thuộc lĩnh vực vật chất, mà còn có
thể thuộc cả lĩnh vực tinh thần. Nó là tất cả những gì mà chủ thể hướng tới
nhận thức và cải tạo. Như vậy, có thể đồng ý với quan điểm cho rằng, "khách
thể" là tất cả những gì mà chủ thể trong hoạt động của mình tác động vào nó
[75, tr. 12]. Tùy từng cấp độ xác định về chủ thể và hoạt động của nó mà có
các khách thể tương ứng. Do hiện thực khách quan hết sức phong phú, nên sự
tác động của chủ thể vào nó cũng tạo ra khách thể đa dạng. Có khách thể là
những hiện tượng, quá trình thuộc giới tự nhiên; có những khách thể là những
hiện tượng, quá trình thuộc về lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, những

đối tượng vật chất, quan hệ kinh tế, những quan hệ chính trị - xã hội, kể cả
những quan hệ tư tưởng cũng có thể đóng vai trò là khách thể của những chủ
thể tương ứng.
Khách thể và chủ thể thống nhất biện chứng với nhau. Không thể nói
tới một khách thể cụ thể, nếu không nói tới một chủ thể tương ứng và ngược
lại. Khách thể và chủ thể luôn gắn liền với nhau, không có khách thể, chủ thể
trừu tượng. Điều này cho thấy, con người chỉ trở thành chủ thể khi tác động
vào hiện thực khách quan, và biến nó thành khách thể của quá trình hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Trong mối quan hệ chủ thể - khách thể, chủ thể luôn
tìm cách nhận thức và cải tạo khách thể theo mục đích của mình, tức là chủ
thể có tính tích cực, sáng tạo. V.I.Lênin viết: "Đối với chủ nghĩa duy vật thì,
khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và được phản ánh vào trong ý thức của
chủ thể một cách chính xác nhiều hay ít" [56, tr. 93]. Tuy nhiên, đây là mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Mặc dù chủ
thể có vai trò nhận thức và cải tạo khách thể, nhưng khách thể lại quy định
nhận thức và hành động của chủ thể. Chừng nào chủ thể nhận thức đúng quy


16

luật vận động của khách thể, thì chủ thể có thể vận dụng quy luật đó để tác
động một cách tích cực và sáng tạo vào khách thể. Trong sự tương tác lẫn
nhau ấy, khách thể được cải tạo, được "nhân tính hóa" bởi chủ thể, còn chủ
thể cũng được "khách thể hóa".
Khái niệm chủ thể và khách thể có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm
khách quan và chủ quan. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng,
khái niệm "chủ quan" và "khách quan" nói lên thuộc tính chung của chủ thể và
khách thể bộc lộ trong quá trình hoạt động của con người. Theo Iu.K.Pletnicôp,
"giải thích một cách chung nhất, chủ quan và khách quan là những thuộc tính
của chủ thể và khách thể" [126, tr. 228]. Như vậy, có thể đồng ý với quan

điểm của nhiều tác giả rằng: Những tính chất, yếu tố phụ thuộc vào chủ thể và
thuộc về chủ thể là chủ quan; những tính chất, yếu tố không phụ thuộc vào
chủ thể, tồn tại ngoài chủ thể là khách quan. Tuy nhiên, không thể đồng nhất
khái niệm cái khách quan với khái niệm hiện thực khách quan hay thế giới vật
chất nói chung. Vật chất bao giờ cũng có tính chất khách quan, nhưng mọi cái
khách quan lại không thể quy về vật chất được. Bởi vì, cái khách quan ở đây
được xem xét trong tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể còn được hiểu
bao hàm cả những cái thuộc về ý thức, đóng vai trò là những khách thể mà con
người tác động vào và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể.
Như vậy, tính khách quan của những hiện tượng tinh thần trên không thể chỉ
hiểu như tính khách quan của vật chất đối với ý thức, mà phải hiểu nó là khách
quan đối với một chủ thể cụ thể. Lênin khi phân tích tình thế cách mạng đã cho
rằng "nỗi bất bình và lòng phẫn nộ của giai cấp bị áp bức... tính tích cực của
quần chúng dần dần được nâng lên rõ rệt" là những yếu tố "không phụ thuộc
vào ý chí của một tập đoàn này hay của một đảng kia mà còn không phụ thuộc
vào ý chí của giai cấp này hay giai cấp khác" [57, tr. 268]. Như vậy, theo
Lênin thì cái khách quan không chỉ là những hiện tượng vật chất, mà còn là
những hiện tượng tinh thần, tồn tại ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ


17

thể.
Hiện nay cũng vẫn còn những ý kiến khác nhau về khái niệm cái chủ
quan. Có tác giả cho rằng, cái chủ quan chỉ thuộc về ý thức, chỉ có trong chủ
thể; có tác giả đồng nhất "cái chủ quan" với ý niệm, hoặc với chủ thể; cũng có
tác giả lại mở rộng khái niệm "cái chủ quan" và cho rằng "cái chủ quan" bao
hàm cả những cái nằm ngoài chủ thể. Rõ ràng, hoạt động của con người nói
chung, cũng như toàn bộ sản phẩm của hoạt động đó bao giờ cũng chứa đựng,
mang dấu ấn của cái chủ quan. Tuy nhiên, không thể coi tất cả những cái

mang dấu ấn chủ quan (nằm ngoài chủ thể) là thuộc về cái chủ quan. Mặt
khác, chủ quan cũng không chỉ là những hiện tượng ý thức mà còn bao hàm
cả những yếu tố thuộc về thể chất, cùng bản thân hoạt động của chủ thể. Bởi
vì, những yếu tố về thể chất và hoạt động của chủ thể không tồn tại ngoài chủ
thể mà luôn gắn với chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể. Quả là ý thức là yếu tố
quan trọng, song, nếu chỉ có ý thức, tư tưởng, như C.Mác đã nhận xét, không
thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ. Ông viết: "Tư tưởng căn bản
không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn" [64, tr. 181]. Như vậy, chủ quan không
chỉ bao gồm ý thức mà còn bao gồm cả thể lực và những yếu tố thuộc về hoạt
động của chủ thể tác động vào khách thể.
Khái niệm NTCQ và nhân tố khách quan. Trong hoạt động của chủ
thể, không phải toàn bộ các yếu tố khách quan đều chịu tác động của chủ thể
ở mức độ như nhau và đóng vai trò như nhau. Một bộ phận của cái khách
quan mà chủ thể tác động trực tiếp vào đó là nhân tố khách quan. Như vậy, có
thể đồng ý với ý kiến chung của các tác giả rằng "nhân tố khách quan" là tất
cả những gì tồn tại bên ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của
chủ thể và trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể, là đối tượng của chủ
thể. Mỗi chủ thể trong hoạt động của mình tác động vào những khách thể cụ


18

thể, những khách thể ấy đóng vai trò là nhân tố khách quan, còn những yếu tố
khác là điều kiện khách quan. Nhân tố khách quan chỉ là một bộ phận của
điều kiện khách quan tham gia vào hoạt động của chủ thể. Nhân tố khách
quan là toàn bộ những yếu tố tự nhiên và xã hội có quan hệ với một chủ thể
hiện thực nhất định, thể hiện với tư cách là những yếu tố không phụ thuộc vào
ý thức của chủ thể và quyết định ý thức, hoạt động của nó [41, tr. 17].
Trong hoạt động của con người không phải những gì thuộc về chủ thể

đều được sử dụng trong quá trình tương tác với khách thể cụ thể. Những
thuộc tính, phẩm chất, năng lực tham gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể
mới được coi là NTCQ. Ở đây có thể phân biệt khái niệm "yếu tố" và khái
niệm "nhân tố". Mặc dù " yếu tố" và "nhân tố" có nghĩa cơ bản là giống nhau,
nhưng cũng có nhiều quan điểm cho rằng, nên phân biệt khái niệm "yếu tố"
chỉ cái bộ phận, cái hợp phần cấu thành các sự vật, hiện tượng, còn khái niệm
"nhân tố" chỉ cái trực tiếp gây ra sự biến đổi. Theo L.I.Trinacova, "nhân tố là
một bộ phận của nguyên nhân trọn vẹn, là một trong những hoàn cảnh tham
gia vào việc quy định một hiện tượng nhất định và tác động với những hiện
tượng khác" [127, tr. 37]. Như vậy, nhân tố là một bộ phận của nguyên nhân,
và điều kiện trực tiếp gây ra sự biến đổi. Do đó, không thể đồng nhất "nhân tố
chủ quan" với tất cả các yếu tố tạo thành "cái chủ quan". Nhân tố chủ quan
chỉ là một bộ phận của "cái chủ quan" được sử dụng trực tiếp trong quá trình
tương tác với khách thể cụ thể. Nhân tố chủ quan cũng không phải là bản thân
chủ thể, mà là những thuộc tính, những phẩm chất của chủ thể được huy động
trực tiếp tạo ra khả năng tích cực, sáng tạo, cùng hoạt động của chủ thể nhằm
biến đổi khách thể.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất cần đưa hoạt động của chủ
thể vào NTCQ. Có thể đồng ý kiến với quan điểm rằng, NTCQ bao gồm cả hoạt
động của chủ thể, từ hoạt động nhận thức đến hoạt động thực tiễn [10, tr. 21].
Tuy nhiên, xem trong hoạt động của con người những yếu tố nào thuộc về


19

NTCQ còn yếu tố nào thì không, vẫn có sự khác nhau. Chúng tôi đồng ý với
quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hoạt động của con người là phạm
trù rộng, không chỉ bao hàm NTCQ, mà còn bao hàm cả NTKQ [122, tr. 63].
Do đó, NTCQ không thể đồng nhất với toàn bộ hoạt động của chủ thể (con
người) mà nó chỉ là một phần của hoạt động đó. C.Mác trong bộ "Tư bản",

khi nghiên cứu NTCQ của quá trình lao động, đã chỉ ra rằng "... nhân tố chủ
quan của quá trình lao động, nghĩa là sức lao động đang hoạt động". Ở một chỗ
khác C.Mác viết: "Sức lao động đang hoạt động, tức lao động sống" [61, tr.
308]. Như vậy, vận dụng tư tưởng của C.Mác, chúng ta có thể hiểu, hoạt
động sống là hoạt động tham gia trực tiếp vào NTCQ, còn phần lao động đã
"vật thể hóa" không thuộc NTCQ mà thuộc về nhân tố khách quan. Điều đó
có nghĩa là trong hoạt động của chủ thể, NTCQ là hoạt động sống trực tiếp
của chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể, còn nhân tố khách quan là hoạt động của
chủ thể đã được đối tượng hóa, bởi vì nó không còn phụ thuộc vào chủ thể. Ví
dụ, những sản phẩm mà con người làm ra chứa đựng lao động quá khứ, thuộc
về nhân tố khách quan. Như vậy, không phải toàn bộ hoạt động của chủ thể
đều thuộc NTCQ: NTCQ chỉ là mặt hoạt động sống trực tiếp, phụ thuộc vào
chủ thể, gắn liền với chủ thể; còn mặt hoạt động đã được đối tượng hóa thuộc
về nhân tố khách quan. Tuy nhiên, "hoạt động sống" tham gia trực tiếp vào
NTCQ trong hoạt động của con người cũng vẫn phụ thuộc vào quy luật khách
quan. Đồng nhất NTCQ với hoạt động của con người sẽ dẫn đến quan niệm
"chủ quan hóa" hoạt động của con người.
Cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về
NTCQ. Có tác giả đồng nhất khái niệm "nhân tố chủ quan" với hoạt động nói
chung của con người. Một số ý kiến đồng nhất NTCQ với hoạt động có ý thức
của con người; hoặc giới hạn NTCQ với hoạt động tự giác. "NTCQ trong việc
phát triển xã hội đó là hoạt động có ý thức của con người, của giai cấp, của


20

các đảng để tạo ra lịch sử" [42, tr. 2]. Theo chúng tôi, hoạt động có ý thức,
hay tự giác đều tham gia vào NTCQ.
Có quan điểm của một số tác giả lại đồng nhất NTCQ với ý thức của
chủ thể. Phê phán quan điểm này, A.K.Uledốp đã khẳng định rằng, NTCQ

không phải là ý thức nói chung mà là cái ý thức đã trở thành sự chỉ đạo
phương châm hoạt động của chủ thể [122, tr. 67]. Như vậy, NTCQ chỉ bao
gồm những bộ phận ý thức của chủ thể tham gia vào chỉ đạo hoạt động của
chủ thể tác động đến khách thể. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Nội
dung của ý thức bao gồm tri thức, tức là sự hiểu biết của chủ thể về tự nhiên
và xã hội được hình thành từ cuộc sống, từ quá trình học tập và nghiên cứu.
Cùng với tri thức là những quan điểm, tư tưởng tạo thành niềm tin của chủ thể
trong hành động, là ý chí quyết tâm của chủ thể trong hoạt động cải tạo thế
giới. Tri thức, quan điểm, tư tưởng, niềm tin và ý chí của chủ thể hòa quyện,
thống nhất biện chứng với nhau tham gia vào chỉ đạo hoạt động của chủ thể,
tạo thành những yếu tố của NTCQ.
Thuộc về "nhân tố chủ quan" còn là năng lực thể chất của chủ thể, ý
thức của chủ thể tham gia vào việc định hướng cho hoạt động và chính bản
thân hành động của chủ thể. Sở dĩ "nhân tố chủ quan" bao hàm cả mặt hoạt động
của chủ thể là vì bản thân ý thức, tư tưởng nếu thiếu hoạt động của con người
thì không làm thay đổi được hiện thực, không thể trở thành "nhân tố chủ quan".
Ngoài ra, cũng có những ý kiến khác nhau về việc đưa những hoạt
động nào vào NTCQ. Một số chỉ đưa hoạt động tinh thần; một số khác đưa
hoạt động tinh thần, chính trị và tổ chức; một số khác đưa cả những mặt xác
định của hoạt động sản xuất vào NTCQ. Theo chúng tôi, nhân tố khách quan
và NTCQ là hai mặt đối lập và thống nhất của bất kỳ hoạt động nào: dù là
hoạt động sản xuất vật chất, hay hoạt động chính trị và tinh thần; hoạt động tự
giác hay tự phát. Điều đó có nghĩa NTCQ là một phần của bất kỳ hoạt động
nào của chủ thể.


21

Một số ý kiến khác cho rằng, khái niệm "nhân tố chủ quan" đồng nhất
với khái niệm "nhân tố con người". Theo chúng tôi, điều đó không hoàn toàn

đúng. Mặc dù, đây là hai khái niệm cùng cấp độ, đều chỉ những thuộc tính của
con người. Tuy nhiên, khi nói đến nhân tố con người là nói đến tất cả những
cái thuộc về con người trong quan hệ với tự nhiên và xã hội, còn NTCQ chỉ là
những thuộc tính, những yếu tố trực tiếp tham gia vào hoạt động cụ thể. NTCQ
bao gồm những gì thuộc về con người trong hoạt động cải tạo xã hội, tự nhiên
và cải tạo chính bản thân mình. Còn nhân tố con người - đó là tất cả những cái
gì thuộc về con người trong quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Tóm lại, kế thừa các quan niệm về NTCQ một cách có chọn lọc,
chúng tôi đồng ý với nhiều tác giả rằng: NTCQ là những thuộc tính của chủ
thể tham gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể cùng bản thân hoạt động
của chủ thể tác động vào khách thể. Ở đây cần phân biệt rằng, thuộc về
NTCQ không phải là toàn bộ các yếu tố trong hoạt động của chủ thể. NTCQ
là những thuộc tính, những phẩm chất tham gia trực tiếp vào hoạt động của
chủ thể, tạo ra khả năng tích cực, sáng tạo trong hành động của chủ thể, cùng
bản thân hoạt động của chủ thể nhằm cải tạo các khách thể xác định. NTCQ
chỉ là một phần hoạt động của chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể, gắn liền với
chủ thể xác định, tức là hoạt động sống, còn phần trong hoạt động đã được
đối tượng hóa là nhân tố khách quan.
Với quan niệm về NTCQ như trên, chúng tôi đồng ý với nhiều tác giả
[75], cấu trúc NTCQ bao gồm các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, NTCQ là một phần ý thức của chủ thể. Không phải toàn bộ
ý thức nói chung của chủ thể mà chỉ bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ đạo,
sự kích thích và là phương châm của hoạt động, tức là cái ý thức đã biến thành
động lực của hành vi, của hoạt động của chủ thể mới tham gia vào NTCQ [122,
tr. 69]. Tất nhiên đây là sự khác biệt rất mong manh, nhiều khi khó xác định,
nhưng rõ ràng cần có sự phân biệt giữa toàn bộ ý thức và một bộ phận của ý


22


thức tham gia trực tiếp vào trong hoạt động của chủ thể.
Thứ hai, nói tới NTCQ là nói tới hoạt động có ý thức của chủ thể
(con người cụ thể, giai cấp, chính đảng...) để tác động (nhận thức, cải tạo)
vào khách thể xác định. Như vậy, NTCQ không chỉ thuần túy là một bộ phận
của ý thức chủ thể mà còn bao gồm cả bản thân quá trình hoạt động có ý
thức của chủ thể tác động vào khách thể. Hoạt động của chủ thể tham gia
vào NTCQ là hoạt động có ý thức gắn với chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể,
còn một phần hoạt động đã "vật hóa", tồn tại ngoài chủ thể tham gia vào
nhân tố khách quan.
Thứ ba, NTCQ còn bao gồm cả những phẩm chất, những trạng thái
thuộc về năng lực thể chất của chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động của
chủ thể. Bởi vì, trạng thái về năng lực thể chất của chủ thể là nhân tố trực tiếp
ảnh hưởng đến hoạt động của chủ thể trong quá trình tác động vào khách thể.
Tuy nhiên, không phải tất cả những trạng thái thể chất của con người thuộc về
NTCQ, mà chỉ là một phần thể chất được huy động trực tiếp trong quá trình
hoạt động mới trở thành NTCQ. Khi chủ thể là con người cụ thể thì năng lực
thể chất là khả năng hoạt động thần kinh và sức lực của cơ thể con người. Còn
chủ thể là tổ chức, lực lượng xã hội thì "năng lực thể chất" được hiểu là tính
tổ chức, sự phối hợp giữa những bộ phận cấu thành tổ chức hay lực lượng xã
hội.
Khái niệm NTCQ có quan hệ mật thiết với khái niệm ĐKKQ. Bất cứ
một chủ thể lịch sử - xã hội nào trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với
một hoàn cảnh cụ thể - đó là ĐKKQ. Những ĐKKQ đóng vai trò là tiền đề
của hoạt động của chủ thể. Các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận khác
nhau về điều kiện khách quan, song nhìn chung cơ bản ý kiến thống nhất với
nhau. Kế thừa quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi đồng ý với quan
điểm rằng: ĐKKQ là tổng thể các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở


23


bên ngoài chủ thể, độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực,
thường xuyên tác động, quy định hoạt động của chủ thể trong mỗi hoạt động
xác định [81, tr. 12]. ĐKKQ trước hết là những điều kiện vật chất tạo nên
hoàn cảnh hiện thực, độc lập với chủ thể và quy định hoạt động của chủ thể
đó. Tuy nhiên, ĐKKQ không phải chỉ là điều kiện vật chất mà có thể còn cả
những yếu tố thuộc lĩnh vực ý thức, tư tưởng, khi nó tồn tại khách quan, độc
lập với một chủ thể cụ thể và đóng vai trò quy định hoạt động của chủ thể ấy.
1.1.1.2. Quan hệ giữa nhân tố chủ q

uan với điều kiện khách

quan
Vai trò của NTCQ được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng
giữa ĐKKQ và NTCQ.
- Thứ nhất, ĐKKQ quy định NTCQ. Trong hoạt động thực tiễn của
con người, ĐKKQ quy định mục đích, phương tiện và phương pháp hành
động của chủ thể.
ĐKKQ thuộc về cái khách quan, tồn tại bên ngoài chủ thể, vận động
theo quy luật khách quan không phụ thuộc vào chủ thể. Hoạt động của chủ thể
là quá trình thực hiện mục đích nhận thức và cải tạo khách thể. Vai trò quy
định của ĐKKQ đối với NTCQ thể hiện ở chỗ, mục đích của chủ thể đặt ra
phải xuất phát từ những tiền đề của ĐKKQ. Lênin đã chỉ rõ: "Mác xét sự vận
động xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên, phục tùng những quy luật
không những không lệ thuộc vào ý thức của con người, mà trái lại, còn quyết
định ý chí, ý thức và những dự định của họ" [52, tr. 200]. Rõ ràng đối với cá
nhân, hay đối với tổ chức, lực lượng xã hội nói chung, không thể đặt ra mục
đích tùy tiện, mà phải xuất phát từ khả năng hiện thực của ĐKKQ thì hoạt
động của chủ thể mới có khả năng thành công. Nếu mục đích, dự định chỉ dựa
vào ý muốn chủ quan thì hoạt động của con người chắc chắn sẽ thất bại.

ĐKKQ quy định NTCQ còn thể hiện ở chỗ, trong hoạt động thực tiễn,


24

thì những phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể đều bị
quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Mác đã từng chỉ ra rằng, nhân
loại bao giờ cũng đặt ra cho mình những nhiệm vụ có thể giải quyết được, điều
đó có nghĩa, trong nhiệm vụ mà con người đặt ra đó, thì ĐKKQ đã ít nhiều mách
bảo khả năng của hiện thực, mách bảo phương tiện và phương pháp để có thể
thực hiện được mục tiêu ấy. Những phương pháp, phương tiện tác động của
chủ thể đến khách thể phải phù hợp với ĐKKQ cụ thể.
Tính quy định của ĐKKQ còn thể hiện ở chỗ, nó còn sinh ra NTCQ
phù hợp yêu cầu phát triển của nó. Các phẩm chất của chủ thể tạo thành NTCQ
đều được nảy sinh, phát triển trên những tiền đề từ những ĐKKQ nhất định. Khi
ĐKKQ thay đổi thì NTCQ cũng bị thay đổi theo cho phù hợp với đòi hỏi của
ĐKKQ mới. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy, đội ngũ cán
bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, không
ngừng nâng cao trình độ mới có thể đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ của cách
mạng.
- Thứ hai, NTCQ có vai trò tác động tích cực đối với sự biến đổi của ĐKKQ.
Tuy bị ĐKKQ quy định, nhưng NTCQ không phải hoàn toàn thụ
động, mà nó có tính tích cực; tính độc lập tương đối của nó. Vai trò tích cực,
sáng tạo của NTCQ thể hiện trước hết ở chỗ, chủ thể có thể nhận thức, cải tạo
ĐKKQ, trên cơ sở nhận thức và vận dụng quy luật khách quan. Thực chất vai
trò NTCQ ở đây là sự phát hiện ra khả năng khách quan, trên cơ sở những
điều kiện, phương tiện vật chất của hoàn cảnh khách quan để tác động và biến
đổi nó theo quy luật vốn có của nó. Như vậy, vai trò NTCQ chính là tính tích
cực, sáng tạo của chủ thể trong quá trình nhận thức và cải tạo khách thể. Việc
phát huy vai trò NTCQ chính là phát huy tính tích cực, sáng tạo của chủ thể,

trong việc vận dụng quy luật khách quan, tác động vào ĐKKQ; ngăn ngừa
hai khuynh hướng đó là: chủ thể thụ động, ỷ lại, trông chờ vào hoàn cảnh
khách quan mà không tích cực nhận thức và hành động tích cực, chủ động;


25

hoặc hành động duy ý chí, bất chấp hoàn cảnh khách quan, không tôn trọng,
hoặc không vận dụng sáng tạo quy luật khách quan vào hoàn cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, việc phát huy vai trò NTCQ được thể hiện
con người không thụ động trông chờ sự chín muồi của ĐKKQ theo lối "há
miệng chờ sung", mà chủ động chuyển hóa nhân tố khách quan, ĐKKQ tạo ra
sự chín muồi đó. Trong sự vận động, phát triển của hiện thực, có rất nhiều khả
năng xảy ra. NTCQ luôn thực hiện sự lựa chọn khả năng nào đáp ứng nhu
cầu, lợi ích của mình và phù hợp với tiến trình lịch sử. Trước quy luật khách
quan, NTCQ có vai trò điều chỉnh hình thức, trật tự tác động của quy luật;
thậm chí tạo ra những ĐKKQ mới, làm xuất hiện những quy luật mới. Hơn
nữa, trong sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật, NTCQ có thể điều chỉnh
một cách tự giác sự tác động tổng hợp ấy, nhằm đạt kết quả cao nhất cho hoạt
động của mình. Trong sự tác động trở lại nhân tố khách quan, vai trò của
NTCQ sẽ ngày càng tăng lên trong quá trình phát triển của lịch sử. Đây là vấn
đề mang tính quy luật. Tuy nhiên, NTCQ có vai trò to lớn đến đâu cũng
không được xa rời khách quan trong việc xem xét và giải quyết vấn đề.
Nghiên cứu quan hệ giữa ĐKKQ và NTCQ nói trên, chúng tôi đồng ý
với quan điểm của nhiều tác giả về một số kết luận sau:
- Thứ nhất, khách quan và chủ quan có mối quan hệ biện chứng. Cái
khách quan quy định cái chủ quan về nội dung, phương hướng và tính chất.
Cái chủ quan tác động trở lại cái khách quan thông qua hoạt động tích cực của
chủ thể. Hoạt động tích cực sáng tạo của NTCQ chỉ có hiệu quả khi xuất phát
từ cái khách quan. Ngược lại, cái khách quan chỉ biến đổi theo đúng mục đích

và nhu cầu đặt ra khi thông qua hoạt động tự giác, sáng tạo của NTCQ.
Không thể dùng ý chí chủ quan tùy tiện tác động đến cái khách quan, cũng
không thể lấy ý chí chủ quan thay thế cho ĐKKQ. Nói cách khác, trong hoạt
động, con người phải lấy khách quan làm điểm xuất phát, tôn trọng và hành


×