Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Hinh tuong nguoi phu nu viet nam trong xa hoi cu qua tu tinh II va thuong vo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.87 KB, 20 trang )

Ngữ văn 11: Dàn ý hình ảnh người phụ nữ việt nam qua bài thơ Tự Tình II và
Thương Vợ
Mở bài:
- Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung
- Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương.
Thân bài:
* Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả:
+ Ở bài " Thương Vợ" là hình ảnh người phụ nữ chịu thương chịu khó, lặn lội sớm khuya, vất
vả quanh năm vì những gánh nặng cơm áo gạo tiền của gia đình.
+ Ở bài "Tự Tình II" là nỗi buồn về thân phận, về chuyện tình duyên, về hạnh phúc gia đinhnhưng điều rất quan trọng và vô cùng có ý nghĩa đối với những người phụ nữ.
* Người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp và khao khát yêu thương:
+ Trong bà thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh phụ nữ còn hiện lên nỗi bật với niềm khao khát
yêu thương và khao khát được yêu thương mạnh mẽ.
+ Ở bài 'Thương Vợ", hình ảnh bà Tú nổi bật với vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt
Nam nhân hậu, đảm đang, giàu đức hi sinh, yêu chồng thương con hết mực.
Kết bài
- Người phụ nữ xưa phải chịu nhiều bất hạnh và sự hạn chế của ý thức xã hội
- Nhắc nhở con người phải biết trân trọng hạnh phúc của ngày hôm nay
Bài mẫu 1: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm
hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói
riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với “Tự Tình II” (II) và Tú Xương với “Thương Vợ”.
Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm gia đình. Xong cuộc
đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái
chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ
không phải con người trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không
muốn từ những hủ tục lạc hậu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ


không có quyền hành gì trong gia đình.
Trước hết, thơ của Hồ Xuân Hương là những lời than thân từ nỗi niềm riêng của một cá thể,
chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận người phụ nữ. Hay nói cách khác,
bằng việc viết lên tiếng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương làm sống lên hình ảnh người phụ nữ Việt
Nam xưa. “Tự Tình II” (II) nằm trong chùm thơ Tự Tình II gồm ba bài viết bằng chữ Nôm. Đó
là sự đau khổ vì không là chủ được thân phận mình. Trong khung cảnh lúc nửa đêm nổi bật chỉ
là âm thanh “văng vẳng” của trống canh dồn, tiếng trống dồn dập, gấp gáp như hối thúc dội vào
lòng người. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận bằng thính giác mà còn
là cảm nhận của xúc giác về thời gian. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Nhức nhối một
tâm sự “trơ cái hồng nhan với nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm trơ trọi, im ắng,
gợi lên hình ảnh “hồng nhan” trở nên rẻ rúng, không có giá trị. Chắc hẳn ai trong tình cảnh của
Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền. Hình ảnh “cái hồng nhan” với
“nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè
nặng lên con người nhỏ bé trong xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người
rất mạnh mẽ, bà không cam chịu và muốn thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương
tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất vào lúc này. Tìm quên
trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một
vòng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng
mong tìm người bạn tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa tròn” lại còn “bóng xế”.
Ngoại cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới tròn. đến
bao giờ người mới có được tình yêu cho mình. Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn, tuổi xuân
qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang chơi vơi giữa một thế giới mênh mông,
hoang vắng, muốn thoát khỏi nhưng bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi với chính mình.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Đến với Tú Xương là đến với những bài thơ tràn đầy tình yêu thương, cảm động viết về người
vợ đang còn sống. Bài thơ “Thương Vợ” thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một
người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có

niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu
cuộc sống khó khăn vất vả. Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác không có lấy một
ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng, Bà Tú lam lũ buôn bán trên một mảnh đất nhô lên ở
lòng sông. Cái nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú.
“Quanh buôn bán ở mom sông”. Cái nền không gian, thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn
của bà Tú được ông Tú phác họa. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Hình ảnh “thân cò” là hình
ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông Tú đã dùng hình ảnh đó để nói về nỗi
vất vả của bà Tú, đồng thời cũng gợi lên số kiếp, nỗi đau thân phận. Thân cò “lặn lội” trong
một khoảng không gian “khi quãng vắng” vừa chỉ ra cái rợn ngợp của thời gian, vừa chỉ ra cái
rợn ngợp của không gian. Hình ảnh bà Tú trở nên rõ nét hơn về sự vật lộn với cuộc sống. “Eo
sèo mặt nước buổi đò đông”. Cảnh bươn chải, chen chúc nhau của những người buôn bán rất
khó khăn. “Buổi đò đông” đâu có giống như “khi quãng vắng”. Nó không chỉ có những lời cãi
cọ, mè nheo, sự chen lấn xô đẩy mà còn có những bất trắc nguy hiểm. Biết là vậy nhưng bà Tú
vẫn đi trên chuyến đò đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đông bà Tú
cũng thui thủi một “thân cò”.
Tuy rằng số phận ràng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được
hiện diện.
Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh
lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi
cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên
trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ.
“Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt
đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi
tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ.
Tuy lòng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức
sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại”. Cái vòng quẩn quanh đáng ghét
của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái
tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một
tình yêu trọn vẹn.
Dù có vất vả, đau xót, chán chường đến thế nào thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những
con người có phẩm chất đẹp đẽ. Không chỉ vẻ bề ngoài mà còn cả bên trong. Đó là lòng yêu
thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng vì con. “Nuôi đủ năm con với một chồng”.
“Nuôi đủ năm con” là việc hiển nhiên của một người mẹ nhưng còn chồng, cớ sao lại phải đếm
“một chồng”? Là vì chồng, bà Tú cũng phải nuôi và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cần thiết cho ông
Tú. Bà Tú phải thắt lưng buộc bụng nuôi dưỡng năm đứa trẻ vất vả, vậy mà phải nuôi thêm một
ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng đè lên đôi vai nhỏ của bà tăng gấp đôi. Sự khéo léo. Đảm
đang của bà thể hiện ở việc lựa chọn ông Tú mà sống, khéo léo chiều sự khó tính khó nết của
ông để trong ấm ngoài êm. Bà Tú nhẫn nhục chịu đựng cái nợ đời như một sự tất yếu không thể
không chấp nhận. “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Điều kì diệu là người mẹ, người vợ này
không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Sự vất vả “năm nắng mười mưa” càng thể hiện được đức
tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự
nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm
chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam?
Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hoàn cảnh. Nhưng trong cuộc
thoát thân họ còn cô đơn quá, vì thế mà thất bại. Một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống
ngột ngạt. Một người cam chịu , nhẫn nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ.
Một người được đồng cảm, sẻ chia. Một người cô đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm
hiu. Chỉ khi những người phụ nữ biết đoàn kết, biết đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng họ
mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình.
Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công, ngang trái và bị hạn chế bởi xã hội
phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn
tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời. Họ không còn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ
ngày xưa có cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ không bao giờ bị mất đi. Dù hoàn

cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến ta luôn tự hào về
người phụ nữ Việt Nam.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Bài mẫu 2: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ
Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập vào
vũng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, một xã hội “trọng nam khinh nữ”, một
chế độ đa thê…. Họ gặp nhiều đau khổ, tình duyên trắc trở, số phận hẩm hiu. Trong kho tàng
văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Họ
không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với
thân phận và phẩm chất của người phụ nữ, hình ảnh đó đã được thể hiện rất tài tình qua hai bài
thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Họ là những người phụ nữ có tài có sắc, có phẩm chất cao đẹp nhưng thân phận của họ lại vô
cùng nhỏ bé, cuộc đời của những người phụ nữ này long đong lận đận. Họ phải sống trong một
chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, không có chỗ đứng và địa vị trong xã
hội.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn nói
lên nỗi lòng của những người phụ nữ xưa. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện
khát khao hạnh phúc. Ở bài thơ Tự Tình II II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc
cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã
hội phong kiến.
Đây là một cảnh trong đêm khuya, vắng lặng, yên tĩnh, bà một mình không ngủ, thiếu thốn yêu
thương. Đó là sự khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy,
tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên
cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là

thời điểm hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng
liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm
trạng đang mang nặng một nỗi đau? Bà khắc khoải đợi chờ, tâm trạng khi đó thật rối bời, lo âu,
buồn bã. Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự bẽ bàng của duyên phận. Chính trong bối cảnh ấy
đã hiện ra một con người cô độc, trơ trọi. ''Hồng nhan'' là cách gọi chỉ người con gái đẹp, rộng

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


hơn là chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng
với những vật vô tri vô giác khác. ''Trơ'' trơ trọi, cô đơn, trơ đến mất cả cảm giác. Câu thơ cùng
thể hiện một tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người trong 1 không gian rộng lớn.
Tưởng như nghe được từ 2 câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận
hẩm hiu của một người phụ nữ đa tài đa tình.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thấy trống vắng cô đơn, để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu mượn chút hương
nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh. ''Say lại tỉnh'' gợi vòng luẩn quẩn, bế tắc của số phận xót
xa của tác giả. Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét.
"Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén
rượu như thế đến hết đêm, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà có thấy sự
đồng cảm ở đâu đó? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng
trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những
ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa
tròn”, tuổi xuân đã qua mà hạnh phúc không hề trọn vẹn,một cuộc đời còn dang dở với những
éo le, trắc trở trong tình duyên. Bà cảm thấy xót xa, cay đắng cho số phận dở dang, nhân duyên

lỡ làng. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng, đợi chờ, khao khát. Nhưng hp vẫn mù
tăm. Càng cô đơn, càng mong đợi thì đau buồn lại càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch
của người phụ nữ có thân phận hẩm hiu. Dù phải trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng
gượng với đời. Phản ứng của bà tuy mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát.
Phải sống trong 1 xã hội trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng, chẳng chút gì trân trọng
yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ ''lạnh lùng'' chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi
buồn đau riêng ấy của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới đều
được sống, được yêu thương, được 1 cuộc sống hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng,
bởi ngay chính bà vẫn phải đang gánh chịu 1 duyên phận hẩm hiu... Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn,
thân phận và duyên phận của bà không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


giữa đêm khuya. Nhưng dù bị phũ phàng hay quên lãng thì bà vẫn k tuyệt vọng, vẫn khao khát
sống, vẫn ước ao có một hạnh phúc tròn đầy.
Còn đối với bài ''Thương Vợ'' của Trần Tế Xương, ông đứng dưới khía cạnh một người đàn
ông, cảm thông cho người vợ của mình, luôn chịu cơ cực gian truân nhưng không dám phản
kháng. Họ luôn sống cam chịu, hi sinh cho chồng con:
“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Những câu thơ trên có thể coi là 1 chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam đó là hình tương người phụ nữ
chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống,

tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để ''nuôi đủ 5 con với 1 chồng''. Câu
thơ đã nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà, làm việc vất vả suốt cả năm, không
kể mưa nắng trên mom sông- cái đất nhô ra chênh vênh, đầy nguy hiểm. Đông con, nuôi lũ con
đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Nhưng nuôi đủ
vẫn hiểu là vừa đủ, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng
chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của
vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò
trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con tội nghiệp hơn. Con cò
trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là rợn ngợp của thời
gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò
cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu
sắc, thấm thía hơn. Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều nhưng ''âu đành
phận'', ''dám quản công'' bà vẫn chấp nhận không hề kêu ca, phàn nàn, than thân trách phận hay
oán hận. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài, bà sẵn sàng, tự nguyện gánh khổ cực vì
chồng con. Nổi lên là đức hi sinh thầm lặng cao quý, giàu đức hi sinh, bà là người đảm đang,

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


tháo vát, chu đáo vs chồng con. Dù có vất vả, đau xót đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam
xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở
tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng, một dạ vì chồng, vì con. Qua đó, ông Tú cũng tự
trách mình, tự nhận mình làm chồng mà vô tích sự, tự mắng mình là gánh nặng của vợ. Ông
còn chửi thói đời bạc bẽo, chửi cả xã hội trọng nam khinh nữ. Vì quá Thương Vợ, có lẽ ông Tú
đã hóa thân vào vợ mình để thông cảm và thấu hiểu bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy
dựa, lấy phải ông chồng hờ hững thì quả thật có cũng như không mà thôi.
Cả 2 bài thơ, 2 người phụ nữ, họ đều cảm nhận được thân phận, số phận của mình 1 cách rõ
ràng. Cùng ý thức được về bản thân và cuộc sống của mình. Song cuộc đời lại lắm éo le trắc
trở. Họ phải chịu số phận hẩm hiu. Họ đều là những người phụ nữ tần tảo, nhẫn nại, cam chịu
duyên phận, biết mà không thể làm gì được để thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt đến bế

tắc ấy. Họ mất tự do, không được sống cho chính mình... 2 bài thơ cùng 1 đề tài và cùng toát
lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
xưa
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh
của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là
hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng
ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làm tốt bổn phận của một người phụ
nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình
hằng khao khát.
Bài mẫu 3: Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự Tình II II và
Thương Vợ
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”
Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhiều qua những câu ca dao với
những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều có chung đức tính truyền thống đẹp đẽ
mà dân tộc Việt Nam đã tích luỹ được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


cũng được thể hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ
của Trần Tế Xương.
Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình tương
người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất
vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã
nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm,
không kể mưa nắng trên mom sông - cái doi đất nhô ra đầy nguy hiểm. Thấm thía nỗi vất vả,
gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều

hình ảnh con cà trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con tội
nghiệp hơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là
rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân
của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn:
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ,
sự cạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông
đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng mà đó còn là sự chen lấn, xô đẩy chứa đầy
bất trắc, nguy hiểm. Những câu thơ đã làm nổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà Tú và
người phụ nữ Việt Nam xưa phải chịu đựng, trải qua.
Còn với bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương thì đó là sự khổ đau vì không làm chủ được
số phận của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy,
tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm vắng, nếu không có nó thì đem khuya sẽ
trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đôi,
ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người
phụ nữ đã không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi
đau? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến
một điều đáng sợ đối với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc, đó là tuổi già. Tuổi già
càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng.
Tiếng trống dồn dập cứ xoáy sâu vào tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm

vang trong suy nghĩ không tài nào dứt được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm
lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và tự hỏi: đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong
thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống
ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng nhan” ngày một trơ ra
với đời. “Hồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà
bất cứ người phụ nữ nào cũng hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với
“hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì khi nữa đêm
phải tĩnh giấc trong cái trống trãi, lặng lẽo đến đắng cay? “Hồng nhan” để làm gì khi nó đâu
phải là vĩnh cữu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn. Câu thơ như lời đay
nghiến, mỉa mai chính bản thân mình, đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè
nén, áp bức với những thủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan.
Đó còn là nỗi đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi, không người yêu thương, thông
cảm.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi niềm tác giả. Một người
phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ
là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên
sầu là lúc người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có ai để có thể chia
sẽ nỗi niềm và ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén
rươu có thể làm quên đi bảo nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương uống rượu mà

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


như uống đi bao giọt sầu mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt
vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính trong tâm trí mình. Ở đây cảnh
tình Xuân Hương được thể hiện chứa đựng bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không

được trọn vẹn. Trăng vốn là biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hi
vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn” - một hạnh
phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở, éo le với những trắc trở trong tình duyên.
Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết trước ngày mai trăng sẽ
khuyết tiếp hay tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong đó một nỗi cô đơn,
trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ
trước tuổi xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của
Xuân Hương đang mất đi mà tình duyên chưa được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn
dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng
bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong bà.
Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là
những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu
thương, lòng nhân hậu, một lòng, một dạ vì chồng, vì con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh năm chẳng nề hà như vậy là để
nuôi cả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con với một
chồng là sáu người. Một phải gánh sáu, thế là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang.
Nhưng nuôi đủ vẫn hiểu là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả
quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, đã gắng
hết sức rồi. Vậy mới thật là đảm, nặng đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn.
Câu thơ thể hiện sự vất vả, gian lao đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con
của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Còn với Tự Tình II II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù yếu ớt đến
đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu
tranh thay đổi cuộc sống của mình:

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động như tính cách buớng bỉnh, không chịu khuất
phục điều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên
những phản ứng tích cực, bà không buông xuôi, đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách thay đổi
vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tưởng như chỉ
miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm cuả cảnh vật đó đã được dùng để
bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt những động từ mạnh đầy sắc thái biểu cảm như xiên,
đâm được đảo lên đầu câu. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn, còn hèn mọn hơn cả “nội cỏ hoa
hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà là “xiên ngang mặt
đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật
đảo ngữ trong hai câu dã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự
phẫn uất của tâm trạng. Chỉ những cảnh vật bình thường không có gì đặc biệt như rêu và đá,
nhưng qua cách nhìn đấy bất mãn, ấm ức của tác giả, chúng trở nên vô cùng sống động. Cự
động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những gì gò bó đẻ dược tự do vùng vẫy giữa đất trời,
thiên nhiên hoà hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm nhân vật. Và ta
cũng thấy được tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những tục lệ phong kiến, cũng
như những số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà; những uất hận ấy
bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến mức không chịu nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn
đập tung tất cả, muốn đập đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng chỉ
là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến
đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa. Mặc dù vậy, ta phải
công nhận đây là một cách suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trứoc thời đại, một tính
cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân
Hương đáng trân trọng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi
rồi xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa
là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi, mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây,
nhưng với con người tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ lại thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai
nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật
tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình-san sẻ-tí con con. Mảnh tình đã bé lại
còn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có
thể là tâm trạng của người mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ
được chia năm xẻ bảy, nhận dược duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng
những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức độ tội nghiệp. Tình duyên như thế có để
làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã
cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng, thách thức đầy nổi loạn trên là thế,
nhưng cuối cùng tất cả vẫn chỉ chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường, mệt
mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi phận của bà vốn đã là một bi kịch và
mãi mãi chỉ là bi kịch mà thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc
cho tất cả số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hi vọng. “Giọt nước mắt em... âm thầm buông rơi,
đêm sầu đơn côi... trong tim em ôm trọn một nỗi sầu bơ vơ... đành khóc vậy thôi…” Liệu Hồ
Xuân Hương có thể vượt qua tất cả để trở lại là một người phụ nữ yêu đời mạnh mẽ, không sợ
gì cả như ngày nào? Đó vẫn là câu hỏi còn dở dang của người phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận
người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như mảnh gương vỡ. Câu thơ
diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của người phụ nữ thời bấy
giờ.
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh
của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là
hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng
ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làn tốt bổn phận của một người phụ nữ
trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng
khao khát.
Bài mẫu 4: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ mẫu

Trong những năm từ thế kỉ mười bảy đến cuối thế kỉ mười chín, dưới sự suy tàn mục nát của
chế độ phong kiến, số phận người phụ nữ bị gần như bị vùi dập trong vũng bùn đau khổ bởi lễ
giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” hà khắc. Họ phải chịu chói buộc trong chế độ xã hội
nam quyền độc đoán, đa thê… cùng với sự áp đặt của lễ giáo phong kiến: “Tam tòng, tứ đức”
( tam tòng là: tại gia tòng phụ), xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; tứ đức là: công, dung, ngôn,

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình mà phải an phận, phục tùng và
cam chịu. Vì thế, họ gặp rất nhiều đau khổ trong cuộc sống, tình duyên thì lận đận, phải chịu
cuộc đời làm lẻ, làm thiếp cho người ta… Cảm thông với số phận của người phụ nữ trong xã
hội cũ, nhiều nhà văn nhà thơ đã thay họ đứng lên nói lên tiếng lòng của mình. Trong đó có Hồ
Xuân Hương với “Tự Tình II” và Trần Tế Xương cùng “Thương Vợ”.
Hai tác phẩm trên là lời khẳng định về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ xưa.
Họ đều là những con người đa tài, đa sắc như Hồ Xuân Hương đã gọi “hồng nhan” hay là tảo
tần, thủy chung, và giàu đức hi sinh như Tú Xương lên tiếng.
Nếu như Bà chúa thơ Nôm với cái tài và cái ngông của mình dám thách thức với cả trời đất,
thiên nhiên để nói lên cái đẹp cái tài hoa của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
(Tự Tình II II)
Thì đến với Tú Xương lại thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ hiền một người vợ đảm.
Vì chồng, thương con mà bà cam chịu với cuộc sống khó khăn, vất vả:
“Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
(Thương Vợ)
Nhưng dân gian ta đã có câu: “Hồng nhan bạc phận”. Hồ Xuân Hương càng thể hiện cái tài, cái
hồng nhan bao nhiêu thì lại càng làm nổi lên tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc trong đêm
khuya vắng. Sự bẽ bàng, tủi hổ của Hồ Xuân Hương nói riêng cũng chính là của người phụ nữ

Việt Nam trong thời đại ấy nói chung.
Những con người hạnh phúc ít ỏi, duyên nợ hẩm hiu: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Tuổi xuân thì qua đi mà hạnh phúc vẫn không trọn vẹn như vầng trăng đến lúc xế bóng mà vẫn
chưa tròn. Mang than phận của một người vợ lẻ, tình yêu thì bị chia năm sẻ bảy chỉ còn lại tí
con con: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xuân Hương đã nói lên nỗi lòng của mình trước cái
bất công của xã hội phong kiến. Còn với Tú Xương, ông đứng trên phương diện từ người đàn

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


ông, người chồng, người con để thể hiện sự cảm thông, thương xót cho số phận của người phụ
nữ:
“Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng, mười mưa dám quản công”
Câu thơ vừa nói lên đức hy sinh cao quý của người phụ nữ mà cụ thể hơn ở đây là bà Tú, lại
vừa thể hiện sự cam chịu trước số phận của mình. Nếu như đứng ở góc độ đạo lý, ta thấy rằng
sự cam chịu của bà Tú chính là việc bà đang tuân thủ theo bổn phận làm vợ, làm mẹ của mình.
Thế nhưng, theo góc độ tình cảm, ta thấy, việc bà Tú cam chịu, hi sinh tất cả vì chồng vì con thì
ở bà lại hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó chính là sự đảm đang,
chịu thương chịu khó, đức hi sinh âm thầm vì chồng vì con.
Cảm thông trước sự vất vả của người vợ, Tú Xương đã lên tiếng oán trách thói đời, trách xã hội
bất công:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Nói là trách đời nhưng thực ra qua hai câu sau ta thấy rằng ông đang trách mình. Mình đã
không làm đúng vai trò của một người chồng. Câu thơ nói lên tiếng lòng của Trần Tế Xương
đối với người phụ nữ. Vừa là lời cảm thông, vừa là sự bênh vực. Còn với Hồ Xuân Hương, ta
lại thấy có lời oán trách táo bạo, giận cuộc sống đã đưa người phụ nữ vào chỗ lẻ loi, cô đơn, hiu
hắt : “Oán giận trông ra khắp mọi chòm” (Tự Tình II I). Hay phê phán cái xã hội thối nát, người
đời bạc bẽo vô tâm: “Sau giận vì duyên để mỏi mòn” (Tự Tình II I). Đằng sau sự oán trách đó,

là sự khát vọng và vươn lên, không để bị số phận làm khuất phục:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
(Tự Tình II II)
Bằng những động từ mạnh như “xiên”, “đâm”, kết hợp với bút pháp tu từ đảo ngữ càng nhấn
mạnh sức phản kháng mãnh liệt và khát vọng bung tỏa bản lĩnh cá nhân. Và điều này cũng là
nét đặc sắc của thơ Hồ Xuân Hương.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Tuy đứng ở hai khía cạnh, hai góc nhìn khác nhau về người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm “Tự
Tình II” và “Thương Vợ” đều là những bài ca ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam. Nếu như Hồ Xuân Hương đem đến cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ tài sắc,
thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất hạnh về cuộc sống và duyên phận thì Tú Xương mang đến
cho chúng ta hình ảnh về đức hi sinh, sự can đảm chịu thương chịu khó của người phụ nữ. Hơn
nữa, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ càng đậm nét hơn khi chính họ là những con người
bất hạnh nhưng luôn ngời sáng lên những ước mơ. Hai tác phẩm đều phản ánh khát vọng vươn
lên làm chủ của người phụ nữ, bênh vực quyền sống, khát vọng hạnh phúc, thể hiện tính nhân
văn sâu sắc. Phẩm chất truyền thống đẹp đẽ đó đã trở thành nét đẹp đương đại với phụ nữ Việt
nam ngày nay: “Giỏi việc nước – đảm việc nhà”.
Bài mẫu 5: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ mẫu
Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homer đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng
cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn
với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh). Có thể nói, đó chính là sự trường tồn bất
diệt của thơ văn.
Và ta càng thấy sức lan tỏa của nó mạnh mẽ hơn khi đến với ngòi bút nhân đạo của người nghệ
sĩ trong thơ ca trung đại. Nổi bật lên trong những trang viết thấm nhuần tư tưởng ấy chính là
hình ảnh người phụ nữ.
Bằng sự đồng cảm nơi sâu thẳm tâm hồn, nhiều tác phẩm ra đời chính là sự lên tiếng của nhiều

nhà thơ nói thay cho tâm sự thầm kín của người phụ nữ mà tiêu biểu là hai bài thơ “Tự Tình II
II” của Hồ Xuân Hương và “Thương Vợ” của Trần Tế Xương.
Đọc những vần thơ ấy, độc giả không khỏi rung động trước tình cảnh éo le, trớ trêu, những bi
kịch đau thương họ phải gánh chịu. Và có lẽ chính bởi từ đó, ta hiểu thêm về một nửa nhân loại.
Mỗi bài thơ đều được thể hiện bằng phong cách riêng nhưng nổi bật lên là hình ảnh người phụ
nữ tiềm ẩn bao vẻ đẹp, tài năng và phẩm chất đáng trân trọng. Nhưng trong xã hội phong kiến
mục nát ấy, mọi quyền lợi mà họ đáng được hưởng lại bị tước đoạt.
Có thể khẳng định rằng, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa đẹp người, đẹp nết. Họ mang
một vẻ thuần khiết, trắng trong, có nhan sắc:

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Và ta cũng bắt gặp hình ảnh một người vợ đảm đang, yêu thương gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Bà Tú là người rất mực chăm lo cho chồng con, bà nuôi cả gia đình nhưng cuộc ssống luôn đầy
đủ, không để ai phải đói rách. Mọi người được ăn no mặc ấm, tiêu pha đủ. Qua đó, ta thấy bà
đã làm tròn trách nhiệm với cương vị là người vợ, người mẹ trong gia đình.
Đọc đến đây, hình ảnh “Vũ Nương” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ một lần nữa khắc sâu trong tâm trí mỗi người với phẩm chất cao đẹp của nàng: một người
vợ yêu thương chồng con và hiếu thuận với mẹ. Dường như đây cũng là sự đồng điệu giữa hai
tâm hồn của hai thế hệ nhà thơ Nguyễn Dữ và Tú Xương. Qua đó càng làm nổi bật lên vẻ nết
na, đảm đang của người phụ nữ.
Nhưng bên cạnh đó là những khổ cực, vất vả mà đôi vai yếu mềm phải gánh chịu. Đối với
người con gái, tuổi xuân là thứ đáng quý nhất trong cuộc đời nhưng Hồ Xuân Hương chưa có
được một hạnh phúc trọn vẹn thì nó đã qua đi nhanh chóng, hao mòn theo thời gian:
“Đêm khuya vẳng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đã đêm khuya mà bà vẫn thao thức. Tâm trạng rối bời trước nhịp đập của tiếng trống dồn dập
hay cũng chính là bước đi của thời gian. Cái cô đơn lạnh lẽo cứ bủa vây và dường như mỗi giây
phút đi là tâm trạng được đẩy lên một bậc.
Càng đau đớn xót xa biết bao khi người con gái đã quá lứa, lỡ thì mà tình duyên vẫn chưa trọn
vẹn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Cuộc đời chính bản thân của bà đã trải qua bao truân chuyên, sóng gió, hai lần phải làm lẽ và
không những chỉ có vậy mà cả hai lần chồng bà đều chết. Từ đó ta càng không thể phủ nhận
một qui luật trong xã hội xưa: tài hoa bạc mệnh. Một người có tài năng như bà lại vướng phải
bi kịch tàn khốc, đau thương.
Bởi thế, bà chỉ còn biết nhớ đến “chén rượu”. Vì men rượu – hương nồng đắng cay sẽ làm cho
người ta say mà quên đi cay đắng! Đến một người phụ nữ cũng phải độc ẩm trong đêm khuya
quả là một niềm đau xót. Nhưng “say rồi lại tỉnh”, đâu có thoát khỏi vòng quẩn quanh, bế tắc
của tâm trạng. Tỉnh ra càng chua xót, đắng cay hơn bội phần.
Cả cuộc đời bà, cuộc đời của một người luôn khao khát sự trọn vẹn, yên lành trong hạnh phúc
lứa đôi nhưng nào bao giờ có được “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Trăng đã “bóng
xế”- cuộc đời_ mà vẫn “khuyết” chưa tròn. Qua đó càng khiến nỗi lòng của người cô phụ se
thắt lại- nỗi buồn dai dẳng, xa vắng lan tỏa khắp tâm hồn.
Người phụ nữ chịu bao khổ đau, bị xã hội đưa đẩy mà không tự quyết định được cho số phận
của mình:
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
(Bánh trôi nước)
Với cương vị là một người vợ, người phụ nữ cũng không tránh khỏi khổ cực mà xã hội suy tàn

ấy mang đến:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
(Thương Vợ)
Lấy chồng duyên chỉ “một” mà nợ thì nhiều. Người vợ phải gánh vác công việc trong gia đình.
Với thân phân nhỏ bé, đơn chiếc nhưng họ luôn bất chấp nguy hiểm, cực khổ để nuôi sống gia
đình.
Người vợ lại đóng vai trò là trụ cột. Họ vì mưu sinh cuộc sống mà phải lam lũ, vất vả, dãi nắng
dầm mưa, lặn lội kiếm ăn:

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bà Tú một mình thân gái nhỏ bé, yếu ớt phải lặn lội khắp nơi, bươn bả trên sông nước không có
ai trợ giúp, đỡ đần cho bà nơi hiểm nguy sông nước, chứa đầy bất chắc. Bởi thế kiếp sống long
đong lận đận của người phụ nữ ấy, tác giả đã đồng nhất với hình ảnh thân cò lặn lội.
Nhưng có thể nói, người phụ nữ Việt Nam mang trong mình một sức sống mãnh liệt, nghị lực
vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Sau bao đau xót, tủi nhục dường như vẫn trỗi dậy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Ở đây, thiên nhiên cũng bừng lên với tâm trạng con người. “Rêu” vốn là sinh vật nhỏ bé, yếu
mềm và “đá” là sự vật vô tri nhưng dưới con mắt của mình, “Bà chúa thơ nôm” cũng thấy
chúng muốn chứng tỏ sức sống của mình bằng cách “Xiên ngang”, “đâm toạc” mặt đất, chân
mây. Sự vật mà còn có thể huống chi là người? tại sao con người lại bi quan như thế?
Và ta cũng nhận thấy được sự táo bạo trong thơ Hồ Xuân Hương:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”

Bà luôn khẳng định mình, bất chấp số phận giàng buộc của xã hội phong kiến.
Người vợ trong thơ Tế Xương cũng vậy, bất chấp hoàn cảnh mà vươn lên. Không lời phàn nàn
trách móc, oán hận mà giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Vâng! người phụ nữ Việt Nam là thế. Ở họ chứa đựng những cảm xúc suy tư từ cuộc đời thực
của mình. Nhưng tất cả đều mang những phẩm chất, tài năng đáng quí.
Họ bày tỏ sự phẫn nộ uất ức trước duyên phận, đồng thời khát khao được hạnh phúc, tình
duyên trọn vẹn.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Qua hai bài thơ ta càng thấy ánh lên những hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ thời xưa. Họ
như những tia sáng hào quang lan tỏa đến tâm hồn bạn đọc ở bao thế hệ. Và như thế, thơ ca đã
bắc nhịp cầu kết nối những trái tim cùng đồng cảm, cùng sẻ chia.
Văng vẳng đâu đây, dường như ta vẫn nghe được dư âm:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Nỗi đau của người phụ nữ, nỗi buồn của một kiếp người. Nhưng ánh sáng lan tỏa từ phẩm chất
cao đẹp của họ sẽ len lỏi đến trái tim độc giả muôn đời.
VnDoc xin giới thiệu tới các em bài Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự
Tình II II và Thương Vợ. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em ôn luyện và đạt kết quả
cao. Các em có thể xem thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 11 do VnDoc tổng
hợp và đăng tải như: Trắc nghiệm Tiếng Anh 11, Trắc nghiệm Sinh học 11, Trắc nghiệm Hóa
học 11,...

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí




×