Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quyền bào chữa của bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ PHƢƠNG THẢO

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ PHƢƠNG THẢO

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN



Hà nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được
sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuân. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình
thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong phần luận văn cón sử dụng một số nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn
và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội không
liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra (nếu có).
Hà Nội, ngày 26 tháng 09 năm 2018


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX


Hội đồng xét xử

TAND

Toà án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

NBC

Người bào chữa


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CÁO TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............ 8
1.1.Khái niệm bị cáo và quyền bào chữa của bị cáo trong luật tố tụng hình

sự Việt Nam. ........................................................................................... 8
1.2.Khái quát lịch sử hình thành và sự phát triển của chế định bào chữa của bị
cáo ở Việt Nam................................................................................................ 13
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM. .................................................................................................................21
2.1.Quy định của pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam ............................................................................................ 21
2.1.1. Quyền tự bào chữa ................................................................................ 21
2.1.2. Quyền nhờ người khác bào chữa .......................................................... 30
2.2.Thực trạng và nguyên nhân hạn chế việc thực hiện quyền bào chữa của bị
cáo trong luật tố tụng hình sự .......................................................................... 40
2.2.1. Thực trạng thực hiện quyền bào chữa của bị cáo ................................ 40
2.2.2. Nguyên nhân hạn chế việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo ........ 49


CHƢƠNG 3: MỘT SỐ YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CÁO TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .......... 59
3.1.Yêu cầu cải cách tư pháp ............................................................................. 59
3.2.Những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam................................................................ 62
3.2.1. Giải pháp về pháp luật .......................................................................... 62
3.2.2. Những giải pháp khác ........................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1: Số lượng luật sư trên địa bàn cả nước giai đoạn 2013-2017 [59] ... 400

Bảng 2: Thống kê số liệu hoạt động hành nghề của luật sư giai đoạn 20122016 [59] ....................................................................................................... 401
Bảng 3: Tình hình số lượng vụ án hình sự và số vụ án có người bào chữa đã
xét xử sơ thẩm giai đoạn 2010 – 2015 [63] .................................................. 411
Bảng 4: Tình hình số lượng vụ án hình sự và số vụ án có người bào chữa đã
xét xử sơ thẩm tại Tòa án Nhân dân cấp quận/huyện trên phạm vi cả nước
(giai đoạn 2010 – 2015) [63]........................................................................... 42
Bảng 5: Tình hình xét xử phúc thẩm và số vụ án có người bào chữa, tỷ lệ số
vụ án có người bào chữa đã xét xử phúc thẩm trên phạm vi cả nước giai đoạn
2010 – 2015 [63] ............................................................................................. 42
Bảng 6: Tình hình số lượng vụ án hình sự và số vụ án có người bào chữa đã
xét xử phúc thẩm tại Tòa án Nhân dân cấp tỉnh/thành phố trên phạm vi cả
nước (giai đoạn 2010 – 2015) [63].................................................................. 42
Bảng 7: Tổng hợp tỷ lệ số vụ án có người bào chữa trên tổng số vụ đã xét xử
sơ thẩm và phúc thẩm ở các cấp tòa án trên toàn quốc [63] ........................... 43
Bảng 8: Tình hình số lượng vụ án hình sự và số vụ án có người bào chữa đã
xét xử sơ thẩm tại TAND các quận/huyện trên phạm vi các tỉnh/thành phố đã
khảo sát (2010 – 2015) [63] ............................................................................ 43


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một khái niệm mang tính chất toàn cầu và được sử

dụng ngày càng phổ biến trong các quan hệ quốc tế và được ghi nhận, bảo vệ
bởi pháp luật quốc gia. Có rất nhiều quy định quốc tế về quyền con người như
Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền con người năm 1945; Tuyên ngôn
nhân quyền quốc tế năm 1948; Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động
năm 1993… và các văn kiện về các quyền và tự do cơ bản của con người như:

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá năm 1966; Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Nghị định thư không bắt
buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
về huỷ bỏ án tử hình năm1989. Kế thừa trên tinh thần đó, tất cả các bản Hiến
pháp của Việt Nam từ trước đến nay đều đã ghi nhận về quyền con người và
những quy định để đảm bảo thực hiện quyền con người. Đặc biệt, Hiến pháp
năm 2013 đã có nhiều những ghi nhận tiến bộ hơn những bản Hiến pháp trước
về quyền con người, cụ thể như:
Hiến pháp quy định rõ ràng, đầy đủ quyền của người bị buộc tội. Nguyên
tắc suy đoán vô tội được quy định chính xác, đầy đủ hơn; người bị truy tố có
quyền được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công
khai; không bị kết án hai lần vì một tô ̣i pha ̣m ; người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa; quyền bình đẳng trước pháp luật…Đặc biệt, việc Hiến
pháp quy định nguyên tắc suy đoán vô tội với nội dung mới rất tiến bộ, đầy
đủ, phù hợp với quan niệm chung của pháp luật quốc tế. Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đây là thể hiện rất
quan trọng, có ý nghĩa lớn trong tố tụng hình sự, đòi hỏi phải được nghiên cứu
kỹ lưỡng để cụ thể hóa trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tố tụng.
1


Hiến pháp quy định chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp, nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người của Tòa án nhân dân. Việc Hiến
pháp quy định Tòa án nhân dân được tổ chức theo cấp xét xử, không quy định
Tòa án đặc biệt; quy định Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền tư pháp, phán quyết một người có tội và áp dụng trách nhiệm hình sự,
hình phạt đối với người phạm tội; quy định nhiệm vụ đầu tiên của Tòa án
nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; quy định các nguyên tắc

hoạt động của Tòa án nhân dân như xét xử công khai, độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm trong xét xử, hai cấp xét xử, tranh tụng trong xét xử… có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người nói chung, quyền của người
bị buộc tội nói riêng.
Nhìn chung, Hiến pháp năm 2013 về quyền con người đã có bước phát
triển vượt bậc trong tư duy cũng như thực tiễn về bảo đảm quyền con người ở
nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Các quy định về quyền
con người và bảo đảm quyền con người trong hiến pháp là cơ sở hiến định
quan trọng để xây dựng hệ thống pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở
nước ta. Từ góc độ luật tố tụng hình sự, các quy định của Hiến pháp lại càng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, hơn ở đâu hết, hoạt động tố tụng hình
sự là hoạt động phán quyết về hành vi tội phạm của người bị buộc tội và áp
dụng trách nhiệm hình sự, biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất
đối với người đó; kèm theo đó là hoạt động có thể tác động rất lớn đến quyền
con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng.
Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự được ghi nhận và bảo vệ
trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động tố tụng hình sự gắn liền với vi phạm pháp
luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức năng của Nhà nước là phát hiện
nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh người phạm tội; nhưng đồng thời
hoạt động tố tụng hình sự cũng liên quan rất nhiều tới các quyền con người.

2


Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự được thực hiện bằng các biện
pháp khác nhau, gồm các bảo đảm pháp lý, bảo đảm về tổ chức, bảo đảm về
con người và bảo đảm về trách nhiệm [74].
Từ góc độ bảo đảm pháp luật tố tụng hình sự, nghiên cứu các quy định
của BLTTHS 2015, cho thấy Bộ luật đã cơ bản thể hiện được các chuẩn mực
cơ bản quốc tế và tinh thần của Hiến pháp 2013 trong bảo đảm quyền con

người. Đó là:


Bộ luật đã quy định các nguyên tắc cơ bản liên quan đến bảo vệ quyền

con người. Trong đó có các nguyên tắc quan trọng như nguyên tắc tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Điều 8);
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 9); Nguyên tắc
bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 10); Nguyên tắc bảo hộ
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân (Điều 11);
Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
cá nhân (Điều 12); Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13); Nguyên tắc không
bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); Nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự (Điều 16); các nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân, trong đó có
các nguyên tắc như độc lập xét xử, đảm bảo hai cấp xét xử (Điều 1227)[63]…


Quy định tương đối rõ ràng địa vị tố tụng của các chủ thể tố tụng hình

sự; đặc biệt là địa vị tố tụng của người tham gia tố tụng nói chung, của người
bị buộc tội nói riêng. BLTTHS quy định khá cụ thể các quyền tố tụng của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhất là quyền bào chữa; quyền tranh tụng
(chứng minh, thẩm vấn chéo); quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm
pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng… - BLTTHS cũng quy định

3



các thủ tục tố tụng đảm bảo cho hoạt động tố tụng khách quan, dân chủ,
bảo đảm tăng cường yếu tố tranh tụng trong mô hình tố tụng xét hỏi; bảo
đảm để các chủ thể tố tụng có thể thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố
tụng của mình…
Việc ban hành Hiến pháp năm 2013, BLTTHS 2015 và các văn bản pháp
luật khác có liên quan là thành tựu rất quan trọng trong hoạt động lập hiến,
lập pháp của nước ta nói chung, từ góc độ bảo vệ quyền con người nói riêng.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự những năm qua cho thấy, vẫn còn tồn
tại tình trạng oan, sai gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, cụ thể là bị cáo. Từ những phân tích trên, việc nghiên cứu “Quyền bào
chữa của bị cáo trong TTHS Việt Nam” là cần thiết, phù hợp với chiến lược
cải cách tư pháp, đặc biệt là trong TTHS.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS Việt Nam đã được một

số tác giả đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình với nhiều
góc độ tiếp cận khác nhau như những nghiên cứu có tính lý luận chung có liên
quan: GS.TSKH. Nguyễn Cảm (2004) với bài viết “Một số vấn đề lý luận
chung về các giai đoạn tố tụng” đăng trên Tạp chí kiểm sát số 2/2004; “Bảo
vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện
pháp luật” đăng trên Tạp chí luật học số 1/2011 của tác giả Hồ Sỹ Sơn; TS.
Nguyễn Văn Tuân (2015) với cuốn sách “Một số vấn đề về luật tố tụng hình
sự Việt Nam”; PGS.TS Nguyễn Hòa Bình (2016) với cuốn sách “Những nội
dung mới trong BLTTHS năm 2015”; Bài tham luận của TS. Nguyễn Văn
Tuân (2016) tại Hội thảo Những điểm mới của BLTTHS năm 2015 do Đại
học Luật Hà Nội tổ chức tháng 06/2016 với tiêu đề “Những nguyên tắc cơ
bản trong BLTTHS 2015”.


4


Hay những nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa và địa vị pháp
lý của bị cáo như: “Quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” – Luận
văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thanh Thúy (2013); “Hoàn thiện quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo” – Luận án tiến sĩ
của tác giả Nguyễn Sơn Hà (2015); Hay những nghiên cứu trực tiếp như:
“Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội” của tác giả Phạm Hồng
Hải, NXB. Công an nhân dân năm 1999; “Thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả
Hoàng Thị Sơn (2003), “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS”Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo(2009); Luận văn thạc
sĩ luật học của Nguyễn Huy Cường(2015):“ Quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật TTHS Việt
Nam”…Ngoài ra còn rất nhiều đề tài, bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các
báo, tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Luật học; Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân.
Thực tế xét xử cho thấy, tình trạng oan, sai gây thiệt hại đến quyền và lợi
ích của bị cáo vẫn còn tồn tại. Theo báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, một số những nguyên nhân nổi bật dẫn đến tình trạng
này là do lỗi chủ quan của một số người tiến hành tố tụng hay việc vi phạm
quy định về việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo. Gần 80% vụ án hình sự
hiện nay chưa có luật sư tham gia bàochữa. Hay, mặc dù có sự tham gia của
người bào chữa nhưng lại bị người tiến hành tố tụng gây khó khăn trong việc
việc cấp Giấy chứng nhận bào chữa[79].
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.



Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm làm rõ một số vấn

đề lý luận về quyền bào chữa của bị cáo; làm rõ nội dung và sự thể hiện của

5


chế định này trong pháp luật TTHS hiện hành; nghiên cứu thực tiễn thi
hành quyền bào chữa của bị cáo, tìm ra những hạn chế, vướng mắc đó để
đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong thời
gian tới.


Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Làm rõ hơn về mặt lý luận về quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS.
Chỉ ra thực trạng, nguyên nhân những bất cập gặp phải trong công tác

bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Đưa ra những giải pháp phù hợp để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo
trên phương diện nâng cao chất lượng xét xử.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.


Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhứng vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị cáo

trong TTHS Việt Nam, các quy định của pháp luật TTHS và thực trạng quyền

bào chữa của bị cáo trong TTHS.


Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung phân tích quyền bào chữa của

bị cáo trong pháp luật TTHS Việt Nam. Phân tích đánh giá các quy định của
Bộ luật TTHS năm 2015, có so sánh đánh giá, đối chiếu với các quy định của
luật TTHS năm 2003. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng quyền bào chữa
của bị cáo trong các vụ án hình sự trong phạm vi toàn quốc trong khoảng thời
gian từ năm 2013 đến hết năm 2017.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra của luận văn, tác giả sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp so sánh… nhằm làm rõ vấn đề quyền bào chữa của bị cáo
trong pháp luật TTHS Việt Nam.

6


Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm làm rõ một số vấn đề
lý luận về quyền bào chữa của bị cáo; làm rõ nội dung và sự thể hiện của chế
định này trong pháp luật TTHS hiện hành; nghiên cứu thực tiễn thi hành quyền
bào chữa của bị cáo, tìm ra những hạn chế, vướng mắc đó để đưa ra một số giải
pháp nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong thời gian tới.
Những đóng góp của luận văn


6.

Những đóng góp của luận văn về đề tài “Bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo”.
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn đi sâu trả lời những câu hỏi sau:


Khái niệm quyền bào chữa của bị cáo là gì?



Quyền bào chữa của bị cáo có ý nghĩa gì?



Pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành quy định quyền bào chữa của bị

cáo như thế nào?


Những đánh giá, nhận xét về các quy định về quyền bào chữa của bị

cáo?


Thực tế thực hiện quyền bào chữa đó như thế nào? Có những hạn chế,

vướng mắc nào?

7.


Đưa ra những giải pháp để đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của bị cáo?
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần bở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị cáo trong
TTHS Việt Nam
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng về thực hiện quyền bào
chữa của bị cáo
Chương 3: Một số yêu cầu cải cách tư pháp và giải pháp nhằm bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.

7


CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm bị cáo và quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình

sự Việt Nam.
Tố tụng hình sự là một dạng hoạt động đặc thù của Nhà nước nhằm giải
quyết các vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có bị cáo [38]. Để có được kết quả
này là cả một quá trình tranh tụng công bằng, nơi mà quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia trong vụ án được xem một cách khách quan, chính
xác[58, tr.34].
Ở Việt Nam, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau

mà các quyền của người tham gia tố tụng đặc biệt là quyền bào chữa có lúc
chưa được chú trọng. Quyền bào chữa của bị cáo trong một số trường hợp
chưa được đảm bảo thực sự.
“Bị cáo” là thuật ngữ pháp lý được dùng khá nhiều trong các hoạt động
tư pháp. Trong sắc lệnh số 33C do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ban hành ngày 13/9/1945 đã chính thức đề cập đến thuật
ngữ bị cáo, theo đó, điều V quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bênh vực cho” về tổ chức các cơ quan tư pháp từ năm 1945 đã sử
dụng rất phổ biến thuật ngữ này. Đến năm 1974, trong bản hướng dẫn về trình
tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo thông tư số 16/TANDTC ngày
27/9/1974 của TANDTC mới đưa ra định nghĩa về bị cáo. Theo đó, “Bị cáo
là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân.Trong giai
đoạn xét xử TAND chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách là bị cáo nếu
VKSND đã truy tố người đó trước TAND, nếu VKS không truy tố thì TAND
không được xét xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người mà TAND
xét xử về hình sự nhẹ”.
8


Bộ luật TTHS năm 1988 ra đời đã thay đổi khái niệm bị cáo, tại Điều 50
BLTTHS năm 2003 quy định “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa
ra xét xử”[7],nhưng đến BLTTHS 2015 lại có quy định tại Khoản 1, Điều 61
là những quy định về bị cáo, có nội dung như sau:Bị cáo là người hoặc pháp
nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là
pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân theo quy định của Bộ luật này[15].Điểm mới dễ nhận biết nhất là Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành là việc quy định pháp nhân cũng phải chịu
trách nhiệm hình sự. Cũng theo quy định trên, kể từ thời điểm thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can
trở thành bị cáo và tư cách này tồn tại suốt giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử

phúc thẩm, và chỉ chấm dứt khi vụ án bị đình chỉ hoặc khi bản án, quyết định
của tòa án có hiệu lực pháp luật.
Thời điểm của giai đoạn xét xử được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ
sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo
trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định)
có hiệu lực pháp luật của Tòa án.Giai đoạn xét xử trong TTHS được coi là
giai đoạn trung tâm, nơi mà mọi tình tiết của vụ án được đưa ra đánh giá , xem
xét một cách toàn diê ̣n và trên cơ sở k ết quả tranh tụng giữa luật sư bào chữa
và đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, Tòa án ra bản án ,
quyế t đinh
̣ tuyên một người có phạm tội hay không .Trong giai đoạn này, Tòa
án thực hiện chức năng xét xử, áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định
để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự
sang Tòa án, nhằm loại bỏ những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai lầm
hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó
(khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung hoặc đình chỉ( hay tạm đình chỉ) vụ án.

9


Thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai
đoạn xét xử góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng
chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác [15].
Dù cách thức tìm kiếm sự thật vụ án là khác nhau giữa các mô hình tố
tụng của các quốc gia trên thế giới nhưng mục đích cuối cùng vẫn là đảm bảo
công bằng trong TTHS thông qua việc bảm đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Bởi vì, mục đích của TTHS không phải chỉ là trừng phạt người phạm tội mà

còn tìm ra đúng người thực hiện tội phạm.Đây là nguyên tắc xuyên suốt quá
trình TTHS. Tất cả các nguyên tắc TTHS khác đều gắn liền với nguyên tắc
này. Nó có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị
cáo, có tác động tích cực đến chất lượng xét xử và xác định sự thật khách
quan của vụ án[42].
Từ trước tới nay, quyền bào chữa trong pháp luật TTHS đã được nhiều
tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản chất
chủ thểcủa quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái
niệm quyền bào chữa của bị cáo trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với
quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng và phức tạp,
vừa mang tính lí luận, vừa mang tính thực tiễn, là một trong những quyền
quan trọng nhất của bị cáo và là quyền Hiến định. Quyền này của bị cáo được
khẳng định qua tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam. Hiến pháp năm 1946, bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định quyền tự
bào chữa tại Điều 67: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật
sư” [27]. Sau đó những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định nội dung này.

10


Cụ thể, tại Hiến pháp năm 1959 quy định tại điều 101 như sau: “Quyền bào
chữa của người bị cáo được bảo đảm”[28]. Hiến pháp năm 1980 và Hiến
pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quyền bảo chữa được bảo đảm lần lượt tại
Điều 133 và Điều 132. Như vậy, Hiến pháp từ năm 1946 đến năm 1992 đều
ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo, người bị tình nghi phạm tội. Sự tình nghi
phạm tội này đã được cơ quan điều tra chứng minh xong, hồ sơ điều tra đã
chuyển sang Viện Kiểm sát và Viện kiểm sát đã đồng tình với kết quả điều tra

và truy tố người này bằng bản cáo trạng[24].
Hiến pháp năm 2013 cũng kế thừa từ các bản Hiến pháp trước đó quy
định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và quyền bào chữa
của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo
đảm”.Hiến pháp hiện hành đã quy định rõ hơn về quyền bào chữa, về nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử. Đây là lần đầu tiên nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử được ghi nhận tại văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện nội dung rất quan trọng trong
cải cách tư pháp ở nước ta. Sự thật chỉ được xác định, công lý chỉ được thiết
lập khi có sự tranh tụng giữa các bên trong tố tụng, nhất là trong xét xử các vụ
án [22]. Quyền bào chữa hình thành cùng lịch sử tố tụng hình sự, ở đâu có
hoạt động buộc tội thì ở đó phát sinh quyền gỡ tội. Dưới đây là những quan
điểm nổi bật của các tác giả về việc quy định thế nào là quyền bào chữa:
Quan điểm thứ nhấttrong cuốn giáo trình luật TTHS, Giáo sư
M.X.Xtrôgôvich người Nga cho rẳng: “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành
vi tố tụng đối với việc bác bỏ và xác định bị can không có lỗi hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm của bị can”và ông cho rằng: “Quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là tất cả những quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can, bị
cáo để bảo vệ mọi sự buộc tội và được bị can, bị cáo sử dụng để bãi bỏ sự
buộc tội, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc giảm nhẹ
TNHS của mình”[22].

11


Quan điểm thứ haicủa Ph. N. Phatkulin cho rằng: “Bào chữa không chỉ
thể hiện trong các hành vi tố tụng mà còn thể hiện trong các quan hệ tố tụng
phù hợp với chúng…bào chữa không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và
đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của người bị truy cứu TNHS. Nó
thậm chí còn được thể hiện trong cả việc bảo đảm các quyền và lợi ích được

pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan đến
việc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can trong vụ án” [22].
Theo hai quan điểm trên của các tác giả về quyền bào chữa của bị cáo là
chưa đầy đủ, bởi lẽ, chủ thể của quyền bào chữa ở đây chỉ là bị can và bị cáo.
Tuy nhiên, ngoài bị can, bị cáo người đang bị buộc tội bởi các quyết định
pháp lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những đối tượng khác như
người bị tạm giữ, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang… vẫn rất cần được bảo vệ, cụ thể là quy định
cho họ có quyền bào chữa, bởi dù ít hay nhiều, những đối tượng này vẫn bị
giới hạn một phần các quyền tự do cơ bản của con người, thậm chí trong
nhiều trường hợp, quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi một bộ phận cán
bộ đại diện cho quyền lực nhà nước.
Quan điểm thứ ba cho rằng các chủ thể thực hiện quyền bào chữa gồm:
“Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự
và người đại diện hợp pháp của họ. Thuộc nhóm này còn có thể là người
đang thi hành án hoặc người đã thi hành xong bản án trong trường hợp có
kháng nghi giám đốc thẩm (tái thẩm) đối với họ”[23].Quan điểm trên lại mở
rộng thêm quá nhiều chủ thể của quyền bào chữa, trong đó có cả bị đơn dân
sự và người đại diện hợp pháp của họ, người đang thi hành án hoặc người đã
thi hành xong bản án trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm đối với họ.

12


Quan điểm thứ tư cho rằng quyền bào chữa là: Tất cả các quyền mà
pháp luật quy định để chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Một cách cụ thể hơn, quyền bào chữa được quy định nhằm bảo đảm cho
người bị buộc tội trình bày quan điểm của mình đối với việc buộc tội, đưa ra
các chứng cứ cần thiết, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình tiết

minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định của
pháp luật [8].
Có thể thấy, khái niệm về quyền bào chữa được hiểu theo rất nhiều cách
khác nhau với các khái niệm tương đối thuyết phục. Tuy nhiên, tôi đồng ý với
quan điểm thứ tư, bởi lẽ quyền bào chữa là quyền tố tụng chỉ xuất hiện trên cơ
sở thực hiện một trong những chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, chỉ thuộc
về người bị buộc tội. Quyền bào chữa trong TTHS với quyền bào chữa ở trên
có mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng. Bào chữa cần gắn liền với buộc
tội, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa,tố tụng hình sự không thể được thừa
nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào
chữa…”[79].Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu:
Quyền bào chữa của bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định
cho bị cáo để sử dụng nhằm chống lại một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
bị cáo công khai tại phiên tòa, có sự tham gia đầy đủ của các bên tố tụng.
1.2.

Khái quát lịch sử hình thành và sự phát triển của chế định bào

chữa của bị cáo ở Việt Nam.
Cách mạng tháng 8 thành công dưới sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước đầu tiên của giai
cấp công nhân và nông dân ở Đông nam á được thành lập, dù biết bao nhiệm
vụ khó khăn cần giải quyết nhưng chính quyền dân chủ nhân dân rất quan tâm
đến nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công nhân, trong đó có

13


quyền bào chữa trước Tòa án. Ngày 13/9/1945, Nhà nước ban hành Sắc lệnh

33c về việc thiết lập các Tòa án quân sự. Đoạn 4, Điều 5 Sắc lệnh này quy
định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho”.
Ngày 10/10/1945, Sắc lệnh số 46-SL về việc quy định tổ chức các đoàn
thể luật sư ra đời. Theo Điều 2 Sắc lệnh này thì: “Các luật sư có quyền bào
chữa ở tất cả các Tòa án cấp tỉnh trở lên và các Toà án quân sự”.
Ngày 23/11/1945, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh thiết lập một ban
thanh tra đặc biệt, trong đó quy định, một Tòa án đặc biệt được thành lập để
xét xử những nhân viên của Ủy ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ
bị ban thanh tra truy tố (Điều III), và trước các Tòa án này, “Bị cáo có thể tự
bào chữa lấy hay nhờ luật sư bênh vực. Ông Hội thẩm thuyết trình có thể cử
một luật sư ra bào chữa không cho bị cáo” Điều 5.
Sắc lệnh số 13-SL ngày 24/01/1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch
Thẩm phán, tại Điều 44 quy định: “Trong việc đại hình, nếu trước tòa thượng
thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư để
bào chữa cho hắn”. Còn lại Điều 46: “Các luật sư có quyền biện hộ trước tất
cả các Tòa án trừ những Tòa án sơ cấp”.
Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I đã thông qua bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Với ý nghĩa là
luật cơ bản, Hiến pháp năm 1946 đã quy định nhiều nguyên tắc quan trọng
trong đó có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo: “ Người bị cáo
được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Khoản 2 Điều 67). Như vậy,
đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề bảo đảm QBC cho bị cáo
được quy định là một nguyên tắc Hiến pháp - quy định đầu tiên đặt nền tảng
cho sự phát triển và hoàn thiện chế định QBC trong TTHS Việt Nam sau này.
Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949 đã cho phép bị cáo (lúc đó gọi là bị can)
có thể nhờ một công dân khác không phải là luật sư để bào chữa cho mình.

14



Điều 1 sắc lệnh này quy định: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác trước các
Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tòa án
binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bào
chữa cho…” Điều 2 :” Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có
thể tự mình hay theo yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị
can”[62].
Ngày 20-6-1956 một văn bản quan trọng đã được thông qua tại Hội nghị
Tư pháp toàn quốc. Đó là “Đề án về quyền bào chữa của bị cáo”. Đặc biệt
trong đề án đã ghi nhận các quyền cụ thể của NBC khi tham gia tố tụng: NBC
có thể bắt đầu công tác từ khi mở cuộc thẩm cứu; được có mặt cùng với bị cáo
trong cuộc hỏi cung; được yêu cầu điều tra thêm nếu chứng cứ không đầy đủ,
không rõ ràng; sau khi công bố việc luận tội, NBC được trình bày lời bào
chữa của mình, đề ra những điểm không đồng ý với công tố viên và biện bác,
xuất phát từ quan điểm bảo vệ pháp luật, chính sách và quyền lợi của bị cáo;
được chống án thay cho bị cáo nếu bị cáo yêu cầu hoặc được sự đồng ý của bị
cáo; có quyền tiếp tục bênh vực cho bị cáo tọa Tòa án cấp trên. So với các văn
bản trước đây, đề án về quyền bào chữa của bị cáo đã quy định tương đối cụ
thể quyền của NBC khi tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho bị cáo thực hiện
QBC của mình một cách hiệu quả. Mặc dù QBC của công dân đã trở thành
nguyên tắc Hiến định và tổ chức luật sư, bào chữa viên nhân dân đã được duy
trì và hoạt động, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy quyền này không
được coi trọng cả về quan điểm lẫn thực tế từ phía các cơ quan tư pháp, trong
đó nổi lên là việc “chưa nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng của
quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân dân của ta nói chung và
trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ đạo Bộ Tư pháp lúc bấy giờ tự kiểm điểm lại việc thực hiện QBC của
bị cáo trong công tác điều tra và xét xử về hình sự. Người nói: “Công việc tư

15



pháp cũng như mọi công việc khác càng làm ta càng tiến bộ, nhưng càng tiến
bộ ta càng thấy rõ những sự trở ngại và những khuyết điểm nó còn sót lại. Và
ta phải càng cố gắng để giải quyết hoặc khắc phục những trở ngại và khuyết
điểm ấy”. Theo kiểm điểm của Bộ Tư pháp vào thời điểm năm 1956, những
biểu hiện của việc không coi trọng QBC của bị cáo thể hiện ở chỗ trong điều
tra thường có hiện tượng mớm cung, bức cung, trấn áp không để bị can được
tự do khai nại, “đến nỗi nhân chứng khai có lợi cho bị can cũng bị trấn áp
như bị can”, bị cáo ra trước Tòa không biết rõ nội dung buộc tội mình như thế
nào để chuẩn bị việc bào chữa và sau khi tuyên án cũng có Tòa án không báo
cho bị cáo biết họ có quyền kháng cáo; đoàn thể luật sư chưa được chú ý giúp
đỡ trong khi chế độ bào chữa viên nhân dân chưa được xây dựng đến nơi đến
chốn… Hơn nữa, chế định bào chữa là một chế định trọng yếu trong tố tụng,
giúp cho công tác xét xử tiến hành được toàn diện và khách quan, xét xử được
chính xác, bênh vực được quyền lợi hợp pháp cho bị cáo và bảo vệ pháp chế.
Từ nhận thức đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 2225/HCTP ngày
24-10-1956 khẳng định “nếu bị cáo không được sử dụng đầy đủ quyền bào
chữa thì không gọi là công lý” và xác lập nguyên tắc tranh tụng bình đẳng
giữa công tố viên và NBC trong việc làm sáng tỏ sự việc, mới bảo đảm
nguyên tắc tố tụng quan trọng là “trước khi tuyên án bị can phải được coi như
người vô tội”.
Hiến pháp 1959 ra đời, quyền bào chữa của bị cáo một lần nữa được ghi
nhận tại điều 101 với nội dung: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo
đảm”. Như vậy, nếu Hiến pháp năm 1946 chỉ dừng lại ở việc quy định quyền
bào chữa cho bị cáo thì Hiến pháp năm 1959 đã tiến bộ hơn, khẳng định cả cơ
chế đảm bảo quyền bào chữa cảu bị cáo.
Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND (1960) đã đánh dấu một
bước phát triển mới trong hoạt động, tổ chức tư pháp của Việt Nam. QBC của

16



bị cáo cũng đã được quy định tại Điều 7 Luật tổ chức TAND: QBC của bị cáo
được bảo đảm. Ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa
cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được đoàn thể nhân dân
giới thiệu hoặc được TAND chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết,
TAND chỉ định NBC cho bị cáo. Tuy nhiên, thế nào là trường hợp “cần thiết”
lại không được quy định cụ thể, do đó, việc áp dụng quy định này trở nên khó
khăn. Để xác định rõ hơn tư cách và quyền của bị cáo, Thông tư số 06-TC
ngày 9-9- 1967 của TAND tối cao đã hướng dẫn những trường hợp “Tòa án
cần chỉ định người bào chữa cho bị cáo trong những vụ án có ảnh hưởng
chính trị lớn, những vụ án mà bị cáo là người có nhược điểm về thể chất hoặc
tinh thần mà không thể tự bào chữa được và những vụ án mà bị cáo có thể bị
xử phạt tù chung thân hoặc tử hình”.
Hiến pháp 1980 ra đời, tiếp tục khẳng định QBC của bị cáo tại Điều 133:
“Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, tổ chức luật sư được thành lập
để giúp bị cáo và các đương sự về mặt pháp lý”[29].
Ngày 18/12/1987, một văn bản pháp luật quan trọng về công tác bào
chữa được ban hành, đó là Pháp lệnh tổ chức luật sư và tiếp theo đó là
quy chế Đoàn luật sư kèm theo Nghị định 15-HĐBT ngày 21/02/1989 đã
giải thích cụ thể quyền và nghĩa vụ cơ chế hoạt động của luật sư và tổ
chức luật sư.
Ngày 20/06/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội thông qua Bộ luật TTHS
đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, bộ luật này có hiệu lực thi
hành từ 01/01/1989. Đây là một bước tiến trong lịch sử lập pháp TTHS nói
chung và chế định bào chữa riêng của nước ta, nó đánh dấu sự thay đổi về
chất của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa. Điều 12 với tên gọi: “Bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, quy định: “bị can, bị cáo có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm


17


quyền bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 1988 đã thể hiện rõ 3 nội dung: thứ
nhất, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa; thứ hai, bị can, bị cáo có quyền nhờ
người khác bào chữa; thứ ba, CQĐT, VKS, TA có nhiệm vụ đảm bào cho bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.
Bảo đảm quyền bào chữa cũng được ghi nhận trong Điều 9 Luật tổ chức
TAND năm 1992 và năm 2002 với nội dung: “Tòa án bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo được thực hiện trên thực tế”.
Bộ luật TTHS 2003 so với những bộ luật TTHS trước kia đã được sửa
đổi, bổ sung một cách toàn diện, và ghi nhận thêm một số điều luật mới. Một
trong những nội dung sửa đổi quan trọng liên quan đến nguyên tắc bảo đảm
QBC được quy định tại Điều 11 với tên gọi: “Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Bộ luật TTHS 2003 một lần nữa khẳng định
việc bảo đảm QBC là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS, đồng thời mở rộng
đối tượng được hưởng QBC cả đối với người bị tạm giữ mà không chỉ đối với
bị can, bị cáo như các quy định trước đó. Việc bổ sung quyền này đối với
người bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm cho rằng người bị tạm giữ được xác
định là người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với VAHS, do vậy họ có
quyền được bào chữa. Theo đó, Điều 11 Bộ luật TTHS 2003 quy định:
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy
định của Bộ luật này.” Như vậy, theo Bộ luật TTHS 2003, chủ thể của QBC
được mở rộng bao gồm cả người bị tạm giữ.
Bộ luật TTHS Việt Nam quy định NBC là người tham gia tố tụng để
giúp đỡ người bị buộc tội về mặt pháp lý, làm sáng tỏ những tình tiết xác định
sự vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, đồng thời
góp phần bảo vệ pháp luật (khoản 3 Điều 58 Bộ luật TTHS 2003). Cơ sở pháp


18


×