Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 100 trang )


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật




Thịnh Quang Thắng





Người bị hại trong luật tố tụng hình sự việt nam




Luận văn thạc sĩ luật học










Hà nội – 2010









Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Thịnh Quang Thắng





Người bị hại trong luật tố tụng hình sự việt nam


Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


luận văn thạc sĩ luật học


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí




Hà nội – 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM 9
1.1. Khái niệm về người bị hại. 9
1.2. Phân biệt khái niệm người bị hại với một số khái niệm có liên quan. 14
12.1. Phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm nạn nhân. 14
1.2.2 Phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm đối tượng tác động của tội phạm.
14
1.2.3. Phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm người có quyền, nghĩa vụ liên
quan. 15
1.2.4. Phân biệt khái niệm người bị hại và khái niệm nguyên đơn dân sự. 19
1.3. Vị trí, quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong luật TTHS. 22
1.4. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự một số nước. 26
1.4.1. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Đức. 26
1.4.2. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga. 27
1.4.3. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự nước Công hoà nhân dân Trung hoa. 31
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ THỰC TRẠNG THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. 33
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị hại. 33
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị hại từ 1945 đến
trước năm 2003. 33
2.1.2. Quy định về người bị hại của Bộ luật TTHS năm 2003. 38
2.2. Thực trạng tham gia tố tụng của người bị hại trong những năm gần đây. 44

2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Toà án trong những năm gần
đây. 44
2.2.2.Thực tiễn và những vướng mắc tham gia TTHS của người bị hại trong những
năm gần đây. 48
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TTHS VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO SỰ THAM GIA CÓ HIỆU QUẢ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN. 67
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về người bị hại 67
3.2. Những giải pháp đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của người bị hại trong quá trình
giải quyết vụ án. 78
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
















1
Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài.
Người tham gia tố tụng là người có quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định
của BLTTHS, họ tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ án, đồng thời
nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ liên quan đến hành vi phạm tội.
BLTTHS hiện hành có quy định về người tham gia tố tụng thành một
chương riêng như: Quy định về bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa, người
giám định, người làm chứng… BLTTHS năm 2003 đã quy định chi tiết, cụ thể
hơn BLTTHS năm 1988. Trong những người tham gia tố tụng thì có người tham
gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như: Bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án. Có người tham gia tố tụng để giúp đỡ những người có
quyền và lợi ích hợp pháp và có người tham gia tố tụng chỉ nhằm giúp CQTHTT
để xác định sự thật của vụ án như: người giám định, người phiên dịch, người làm
chứng.
Hiện nay trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có nhiều cách hiểu
khác, xác định khác nhau và không đầy đủ về những người bị hại trong TTHS
chẳng hạn như: trong BLTTHS quy định người bị hại chết thì người đại diện hợp
pháp của họ có quyền như người bị hại. Tuy nhiên BLTTHS chưa quy định
trường hợp người bị hại bị mất tích, người bị hại là người chưa thành niên, là
người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, thì ai là người đại diện hợp pháp
của họ tham gia tố tụng? Hay có những trường hợp người tham gia tố tụng tham

2
gia tố tụng với nhiều tư cách thì xác định tư cách nào là đúng và chính xác thì
thực tiễn áp dụng còn rất nhiều lúng túng và có nhiều quan điểm khác nhau… Từ
những vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng cũng như trong lý luận về
những người bị hại thì việc nghiên cứu làm rõ những quy định cụ thể về người bị
hại trong BLTTHS có vai trò ý nghĩa rất quan trọng trong cách hiểu và áp dụng

thống nhất, hơn nữa là nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của họ. Vì vậy, đây là lý
do tác giả chọn việc nghiên cứu đề tài “Người bị hại trong luật TTHS Việt
Nam”
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn
đề tranh tụng trong TTHS như: "Người bị hại trong TTHS" của tác giả Lê Tiến
Châu trong tạp chí khoa học pháp lý, trường Đại học luật; bài “người bị hại đã
yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tôi theo thủ tục nào?" của tác giả Hoàng Thị
Liên trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 8/2006; bài "Một số vấn đề cần chú ý
khi xác định tư cách tham gia tố tụng trong vụ án hình sự " đăng trong Tạp chí
Toà án nhân dân số 07/2009 của tác giả Đinh Văn Quế; Trong luận văn thạc sỹ
về đề tài: “Phân biệt các loại người tham gia tố tụng trong TTHS Việt Nam”của
tác giả Nguyễn Thị Phong - Đại học Luật Hà Nội Nhưng những bài viết đó chỉ
đề cập đến một số vấn đề nhất định liên quan đến chế định người bị hại và còn
khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý kiến, quan điểm khái niệm, các
quyền và nghĩa vụ về người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại.
Như vậy, có thể nói rằng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và sâu sắc về người bị hại trong TTHS với quy mô là một đề tài độc
lập, chuyên biệt về vấn đề này. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về người bị hại
trong Luật TTHS Việt Nam là cần thiết.

3
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
của luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề
lý luận và thực tiễn về người bị hại trong TTHS.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nước ta về
người bị hại có so sánh với quy định của luật TTHS một số nước trên thế giới về
vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt
Nam liên quan đến người bị hại, tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập từ đó

bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên
quan đến người bị hại và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đóng
góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận
văn cần giải quyết những vấn đề sau:
 Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về người bị hại trong
TTHS;
 Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và
luật TTHS của một số nước trên thế giới về người bị hại;
 Đánh giá thực tiễn hoạt động của các CQTHTT hình sự ở Việt
Nam liên quan đến người bị hại;
 Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật TTHS Việt
Nam về người bị hại và giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn áp
dụng những quy định đó của các CQTHTT hình sự ở Việt Nam.
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về người
bị hại trong TTHS. Nghiên cứu, so sánh những quy định của luật TTHS Việt

4
Nam và luật TTHS một số nước trên thế giới về người bị hại. Đánh giá thực
trạng hoạt động và những vướng mắc của các cơ quan THTT hình sự ở Việt
Nam liên quan đến người bị hại.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về người bị hại trong TTHS một cách
tổng thể trong phạm vi chung của tất cả các giai đoạn tố tụng: điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam, chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và
thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở chừng mực nhất định có liên quan đến khoa học
luật hình sự, tội phạm học. Nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam,
BLTTHS Liên bang Nga, BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, BLTTHS
Cộng hoà Pháp, BLTTHS Cộng hoà Đức về người bị hại. Đánh giá thực trạng
hoạt động và vướng mắc của các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan
đến người bị hại trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa
học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình sự
và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS
thực định và hoạt động giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan THTT cũng như
các văn bản hướng dẫn về hoạt động TTHS khi giải quyết vụ án.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân tích,
tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm

5
thực tiễn liên quan đến những vấn đề người bị hại trong TTHS, từ đó làm sáng
tỏ nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về người bị
hại trong TTHS.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về người
bị hại. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan THTT hình sự
Việt Nam liên quan đến người bị hại, tìm ra những nguyên nhân của những
thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của
luật TTHS Việt Nam về người bị hại và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định của luật TTHS về người bị hại.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể
được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các CQTHTT
hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS và

một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến người bị hại để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các CQTHTT có thể khai thác vận dụng những kết
quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lượng, hiệu quả tham gia TTHS
của người bị hại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn gồm 3 chương với 8 mục.

6
Chương 1:
Những vấn đề lý luận về người bị hại
trong Tố tụng hình sự Việt nam
1.1. Khái niệm về người bị hại.
Pháp luật TTHS của các nước không có sự thống nhất trong việc sử dụng
thuật ngữ người bị hại. Chẳng hạn luật TTHS của Cộng hoà Pháp, Liên bang
Nga hay Việt Nam dùng thuật ngữ “người bị hại”, trong khi đó luật TTHS Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị
hại còn được gọi là “người bị thiệt hại” , hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự
nguyên cáo”. Việc sử dụng thuật ngữ như thế nào phải thể hiện được bản chất,
nội dung, các điều kiện và sự chặt chẽ của thuật ngữ, theo quan điểm của chúng
tôi cho rằng trong mối quan hệ mà luật TTHS Việt Nam điều chỉnh thì dùng
thuật ngữ “Người bị hại” là phù hợp hơn cả.
Theo Từ điển tiếng việt có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể trong
xã hội, chịu sự tác động tiêu cực của việc, hành vi hoặc sự bất kỳ sự tác động
nào khác dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất
nhiên là sự tác động trái ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một các thụ
động. Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật
chất và không cần phải giới hạn mức độ thiệt hại [34].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người bị hại là người bị
thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị

hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần
hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân [14, tr 98].

7
Luật TTHS Việt nam coi người bị hại là con người cụ thể bị hành vi trực
tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản [18, tr 127].
Pháp luật một số nước cũng có quy định chỉ coi người bị hại là con người
cụ thể bị tội phạm gây thiệt hại về thể chất, tinh thần tài sản, chẳng hạn khoản 1
điều 43 BLTTHS của Tiệp Khắc trước đây quy định: “người bị hại là người bị
tội phạm gây thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản, tinh thần hoặc những thiệt hại
khác”. BLTTHS Rumani cũng có quy định tương tự. Như vậy, Luật TTHS Việt
Nam và một số nước đều có định nghĩa người bị hại là con người cụ thể bị tội
phạm xâm hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản. Tuy nhiên, cũng có quan điểm
cho rằng nên coi cơ quan tổ chức cũng là người bị hại vì nên hiểu “người bị hại”
theo nghĩa rộng [12, tr 77-78] và một số nước cũng quy định người bị hại là cá
nhân, hoặc pháp nhân, tổ chức mà quyền mà lợi ích hợp pháp bị xâm hại như tại
khoản 1 Điều 40 BLTTHS Ba Lan quy định người bị hại là người hoặc pháp
nhân mà lợi ích hợp pháp của họ bị hậu quả của tội phạm trực tiếp xâm hại hoặc
bị đe doạ. Điều 53 BLTTHS Hungari cũng có quan điểm tương tự hay tại khoản
1 điều 42 BLTTHS Liên bang Nga thì người bị hại là thể nhân, bị thiệt hại về thể
chất tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra, cũng như pháp nhân trong trường hợp
bị thiệt hại về tài sản và uy tín do tội phạm gây ra.
Theo quan điểm của chúng tôi là ngoài cá nhân là người bị hại, trong
trường hợp tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải xem tổ
chức hoặc pháp nhân đó là người bị hại. Cần quan niệm khái niệm người bị hại
theo nghĩa rộng của từ này. Những người theo quan điểm này cho rằng trong
thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây thiệt hại cho cá nhân mà hành vi phạm
tội trong thực tế còn nhằm đến để gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức. Thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra cho cơ quan, tổ chức là rất đa dạng, không thuần tuý là


8
thiệt hại về tài sản. Trong thực tế, tổ chức, pháp nhân có thể bị thiệt hại về vật
chất và tinh thần, chẳng hạn như một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị
vu không làm mất uy tín trong kinh doanh
Do đó, ý kiến cho rằng người bị hại chỉ có thể là cá nhân, vậy tổ chức,
pháp nhân bị tội phạm trực tiếp xâm hại, pháp nhân, tổ chức đó sẽ tham gia tố
tụng với tư cách gì? Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì trong trường hợp
này cơ quan hay tổ chức bị tội phạm xâm hại thì tham gia tố tụng bởi tư cách là
nguyên đơn dân sự khi có đơn yêu cầu. Theo tôi quy định này chưa được hợp lý,
bởi lẽ:
Thứ nhất: Đối với các tổ chức, pháp nhân mà tài sản thuộc về sở hữu nhà
nước khi bị tội phạm gây thiệt hại tổ chức, pháp nhân đó không có đơn yêu cầu
thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì? Tài sản của nhà nước liệu được đảm
bảo? Vậy khi tham gia tố tụng Toà án có đưa họ vào tham gia tố tụng không và
với tư cách gì?
Thứ hai: Đối với các doanh nghiệp mà tài sản thuộc sở hữu cá nhân, của
một nhóm người cùng góp vốn vào kinh doanh trong quá trình hoạt động lại bị
kẻ phạm tội gây thiệt hại, vậy để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình
chủ sở hữu tài sản đó chỉ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, liệu
có hợp lý? Liệu có đảm bảo sự bình đẳng trong khi về thực chất tài sản đó đều
của cá nhân.
Thứ ba: Nếu cho rằng tổ chức, pháp nhân bị người phạm tội trực tiếp xâm
hại về tài sản sẽ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự thì sẽ không
có sự phân biệt thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội gián tiếp gây ra

9
Thứ tư: Nếu quan niệm rằng hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức
là thiệt hại về tài sản như định tại điều 51 BLTTHS Việt Nam thì chúng ta giải
thích như thế nào khi thiệt hại do tội phạm gây ra cho tổ chức, pháp nhân là thiệt
hại về thương hiệu, về uy tín trong kinh doanh

Từ các quan điểm trên cho thấy Luật TTHS Việt Nam và một số nước đều
có quan điểm người bị hại phải là đối tượng bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại hay phải xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
được pháp luật bảo vệ. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại về sức khoẻ (do bị gây
thương tích, gây tai nạn hay bị người phạm tội vi phạm quy tắc nghề nghiệp gây
ra…), cũng có thể thiệt hại về tính mạng (bị giết, bị gây tai nạn…), thiệt hại về
tinh thần (như bị lăng nhục, bị xúc phạm đến danh dự nhân phẩm…). Do đó,
trong khoa học luật hình sự coi người bị hại là đối tượng tác động của tội phạm.
Người bị hại không những bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân
phẩm mà còn bị thiệt hại về tài sản như bị đánh cắp, bị chiếm đoạt tài sản… cũng
là thiệt hại về tài sản nhưng nếu người bị thiệt hại về tài sản là cá nhân thì họ
được coi là người bị hại.
Để xác định người bị hại thì thiệt hại mà tội phạm gây ra phải là thiệt hại
trực tiếp. Điều đó thể hiện: thể chất, tinh thần hoặc tài sản phải là đối tượng của
sự xâm hại. Nếu đối tượng tác động tác động chưa bị xâm hại thì không có thiệt
hại xảy ra. Đã không có thiệt hại xảy ra thì không có người bị hại. Nhưng thiệt
hại xảy ra phải là hậu quả của hành vi phạm tội thì mới được coi là thiệt hại trực
tiếp. Trong trường hợp này sự thiệt hại gây ra cho người bị hại phải là những
thiệt hại cụ thể, thiệt hại đó phải có tính hiện tại và xác định; sự thiệt hại không
thể không cụ thể, chưa xác định, hoặc có tính chất mơ hồ, chưa hoặc sắp xảy ra.
Sự thiệt hại đó phải là trực tiếp do chính tội phạm gây ra, thiệt hại có mối liên hệ

10
nhân quả với hành vi phạm tội. Điều cơ bản khi xác định thiệt hại của người bị
hại là sự thiệt hại do một tội phạm được luật hình sự quy định, xâm hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của người bị thiệt hại, các quyền được
pháp luật bảo vệ. Đồng thời sự thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không
phải có nguồn gốc từ hành vi không phù hợp pháp luật của người bị thiệt hại.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc không chấp nhận quan điểm cho rằng thiệt
hại do tội phạm gây ra cũng là thiệt hại gián tiếp, thiệt hại đó có thể không có

mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
Đối với thiệt hại về tinh thần thì thường thiệt hại đó không cụ thể, không
có thể định lượng được. Vì vậy, không chỉ trong trường hợp phạm tội đã hoàn
thành, mà cả trong trường hợp phạm tội chưa đạt, khi chưa gây thiệt hại gì do
những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của kẻ phạm tội, người có nguy
cơ bị xâm hại cũng được gọi là người bị hại, người bị hại được coi là bất kỳ
người nào mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ là khách thể của tội phạm cho dù
tội phạm đó chưa hoàn thành do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ.
Người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra nhưng
phải được CQTHTT xác định là người bị hại thì người đó mới được coi là người
bị hại. Còn nếu người bị hại thiệt hại trực tiếp không được CQTHTT xác định là
người bị hại thì người đó chỉ là nguyên đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án. Từ việc được xác định là người bị hại thì họ có quyền và
nghĩa vụ tố tụng như họ có đưa ra yêu cầu, cung cấp các tài liệu chứng cứ để
giúp CQTHTT xác định sự thật của vụ án để xác định đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật hay họ có quyền thuê luật sư để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, hay được kháng cáo bản án của Toà án nếu họ không

11
nhất trí với một phần hay bản án về các vấn đề như dân sự, hình phạt đố với bị
cáo
Từ những phân tích trên theo quan điểm của tôi có thể đưa ra khái niệm về
người bị hại là: “Người bị hại là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về
thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra được CQTHTT công nhận”
Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của người bị hại như sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan Nhà
nước hoặc tổ chức khác;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về vật chất, thiệt
hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý hậu quả của sự thiệt
hại không phải là điều kiện bắt buộc trong các trường hợp.

- Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội
phạm, tức là phải có liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra
cho người bị hại.
- Thứ tư, người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người
bị hại khi và chỉ khi được CQTHTT công nhận.
1.2. Phân biệt khái niệm người bị hại với một số khái niệm có liên quan.
12.1. Phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm nạn nhân.
Có quan điểm cho rằng người bị hại chính là nạn nhận của tội phạm. Theo
quan điểm của chúng tôi điều đó cũng nhưng chưa đủ. Nội dung khái niệm của
người bị hại có nội hàm hẹp hơn khái niệm nạn nhân của tội phạm. Như đã biết,
hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại đáng kể cho các
quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Để gây ra những thiệt hại cho những

12
quan hệ này, hành vi phạm tội đã tác động gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Trong khi đó “nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi
phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể chất, về tinh thần, tài
sản hoặc quyền, lợi ích hợp pháp khác” [20]. Như vậy, nạn nhân của tội phạm
ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân, thiệt hại của nạn nhân không chỉ
về tinh thần, về thể chất, tài sản mà còn có thể bao hàm những quyền, lợi ích hợp
pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm thiệt hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ
khi tham gia vào quan hệ TTHS mới được xem là người bị hại. Còn nếu nạn
không tham gia vào TTHS hay không được cộng nhận thì họ không phải là
người bị hại trong TTHS.
1.2.2 Phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm đối tượng tác
động của tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của tội phạm bị
hành vi phạm tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại. Đối tượng tác
động của tội phạm không chỉ là con người mà còn bao gồm các đối tượng vật
chất khác và các hoạt động bình thường của chủ thể. Trong khi người bị hại là

người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra,
họ chính là một trong số các đối tượng tác động của tội phạm. Nhưng không phải
vụ án nào cũng có đối tượng tác động là con người, là tài sản. Mà đối tượng tác
động có thể là hoạt động bình thường của chủ thể, là trật tự nơi công cộng, trật tự
quản lý hành chính. Như vậy có thể khẳng định khái niệm người bị hại, đối
tượng tác động của tội phạm mặc dù có những điểm tương đồng, chồng lấn…
nhưng về bản chất, đặc trưng của chúng là hoàn toàn khác nhau. Khái niệm đối
tượng tác động của tội phạm rộng hơn khái niệm về người bị hại.

13
1.2.3. Phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm người có quyền,
nghĩa vụ liên quan.
Từ khái niệm phân tích ở trên, người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần tài sản do tội phạm gây ra. Song xét về hình thức, người bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại
trong TTHS khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận và thông qua việc
triệu tập họ đến khai báo với tư cách là người bị hại. Trong trường hợp hành vi
phạm tội không bị phát hiện xử lý hoặc không xác định được người bị thiệt hại
mặc dù trên thực tế có người thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi
phạm tội gây ra thì người đó cũng không trở thành người bị hại trong vụ án hình sự.
Đối với tội xâm phạm tình mạng sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con
người thì khi có vụ án xảy ra, việc xác định người bị hại không gặp mấy khó
khăn. Nếu người bị hại chết, người đại diện hợp pháp của họ được tham gia tố
tụng. Người đại diện hợp pháp của họ có đủ các quyền và nghĩa mà pháp luật
quy định cho người bị hại. Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu. Nếu tài sản bị
chiếm đoạt, bị hư hỏng thì chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản
đương nhiên được xác định là người bị hại. Nhưng không phải vụ án nào cũng có
đối tượng tác động là con người, là tài sản. Mà đối tượng tác động có thể là hoạt
động bình thường của chủ thể, là trật tự nơi công cộng, trật tự quản lý hành
chính.

Việc xác định tư cách người bị hại đối với những tội danh mà tên tội đã
thể hiện đối tượng tác động không gặp mấy khó khăn. Trong thực tế, thường nảy
sinh bất cập trong việc xác định tư cách người bị hại và người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan đến vụ án trong các vụ án liên quan đến các tội danh như: tội “Gây

14
rối trật tự công cộng” (Điều 245 – BLHS), tội “Chứa mại dâm” (Điều 254 –
BLHS), tội “mua bán phụ nữ” (Điều 119 – BLHS), tội “Chống người thi hành
công vụ”… Về vấn đề này, hiện vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trong các vụ án đã viện dẫn ở trên nếu
hành vi của người phạm tội gây thiệt hại cho người khác chưa đủ yếu tố cấu
thành một tội độc lập (như tội Cố ý gây thương tích, tội huỷ hoại tài sản…) thì
những người bị thiệt hại trong vụ án này chỉ được coi là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Lập luận của những người theo quan điểm này cho
rằng: thiệt hại về tính mạng, thể chất, tài sản đều là hậu quả do tội phạm gây nên.
theo lý luận mối quan hệ nhân quả thì chỉ được coi là hậu quả khi hậu quả đó
phải là tất yếu do nguyên nhân gây nên. Xét hành vi của người phạm tội phải có
mối quan hệ nhân quả với hậu quả do chính hành vi đó gây nên. Nếu hành vi gây
ra chưa cấu thành một tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự (có nghĩa không
cấu thành tội gây rối trật tự công cộng, tội vi phạm các quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ) tức là không có tội phạm xảy ra. Đã không có
tội phạm thì không có người bị hại, mặc dù có thiệt hại, nhưng thiệt hại của trách
nhiệm dân sự. Nên “người bị hại” của trách nhiệm dân sự chứ không phải “người
bị hại” của trách trách nhiệm hình sự. Do vậy, trong trường hợp này họ chỉ là
những người tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: Hành vi của người phạm tội đã gây ra thiệt
hại cho người khác nhưng chưa đến mức cấu thành một tội độc lập, riêng biệt
khác (như cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản…) vì đã có thiệt hại xảy ra nên
người bị hại về thể chất, tài sản vẫn được xác định là người bị hại.


15
Những người bảo vệ quan điểm này cho rằng: vận dụng lý luận về người
bị hại tại khoản 1 Điều 51 BLTTHS quy định “người bị hại là người bị thiệt hại
về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra”. Mặc dù hành vi gây
thiệt hại đó không cấu thành một tội riêng biệt, độc lập với tội danh mà người
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng rõ ràng hành vi của người bị truy
tố về một tội phạm khác cũng đã gây thiệt hại về thể chất, về tinh thần về tài sản
cho người bị thiệt hại. Nếu không xác định họ là người bị hại mà chỉ coi họ là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì sẽ dẫn tới không công bằng trong xử
lý, bởi họ không có quyền kháng cáo về hình phạt đối với người đã gây ra các
thiệt hại cho họ.
Không phải bất cứ người nào bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
cũng trở thành người bị hại. Họ có thể là người có quyền lợi. nghĩa vụ liên quan
đến vụ án. Khi những thiệt hại mà người phạm tội gây ra cho họ không phải là
kết quả trực tiếp của hành bi phạm tội đó.
Ví dụ: trong vụ án “Gây rối trật tự công cộng” người phạm tội ngoài việc
xâm hại khách thề là an toàn nơi công cộng đã gây thiệt hại tới sức khỏe, tài sản
của một công dân. Nhưng những thiệt hại này chưa đủ yếu tố cấu thành một tội
độc lập, riêng biệt. Do vậy, người bị thiệt hại chỉ được coi là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án”.
Các văn bản pháp luật trước đây cũng đã chỉ rõ. Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án là người không tham gia vào việc thực hiện tội phạm.
Song các CQTHTT vẫn triệu tập họ để giải quyết các vấn đề có liên quan đến vụ
án bao gồm:

16
- Người mà tài sản của họ bị người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương
tiện phạm tội. Khi họ chuyển giao tài sản cho người phạm tội, họ hoàn toàn
không biết hoặc không buộc phải biết, không thể biết được người đó mượn tài

sản sử dụng vào việc phạm tội như : Người cho người phạm tội mượn xe đạp,
nhưng người phạm pháp đó đã dùng xe đạp để chuyên chở hàng buôn lậu. Hoặc
người có vải giao cho hiệu may quần áo, nhưng chủ hiệu dã phạm tội đầu cơ. Do
đó vải của người đó cũng bị kê biên.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người “tuy có tham
gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc được miễn trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải xử lý những tài sản liên
quan đến việc phạm tội.
Như vậy, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
cũng có điểm giống nhau về quyền yêu cầu đối với những thiệt hại mà tội phạm
đã gây ra như quyền yêu cầu về vấn đề bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản bị xâm hại. Nhưng người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án còn có thể có yêu cầu CQTHTT giải quyết vấn đề
về tài sản khi tài sản của họ có liên quan đến việc giải quyết vụ án và tài sản này
không phải là đối tượng mà tội phạm tác động tới mà chỉ bị người phạm tội sử
dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc bị CQTHTT kê biên cùng tài sản
của người phạm tội. Thực tế, không có việc xác định sai tư cách của người bị hại
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong những trường hợp
này. Điều mà chúng tôi muốn phân biệt người bị hại và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án đối với những tội danh mà tên tội không thể hiện
đối tượng tác động của tội phạm.

17
* Tóm lại: trong những trường hợp cụ thể để xác định người bị hại và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đối với những tội danh mà
ngay tên tội đã thể hiện đối tượng tác động (là tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài
sản…) thì người bị thiệt hại được xác định là người bị hại.
Còn đối với những tội danh khác, để tránh sự nhầm lẫn trong việc xác định
tư cách của người bị hại với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
thường căn cứ vào mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với hành vi mà người

phạm tội đã thực hiện.
- Nếu thiệt hại là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội, phù hợp với mục
đích của người phạm tội thì người bị thiệt hại được xác định là người bị hại.
- Nếu thiệt hại không phải là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội, không
có mối liên hệ mật thiết với hành vi phạm tội, không phù hợp với mục đíchcủa
người phạm tội thì người bị thiệt hại được xác định là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án.
Có thể khái quát bằng sơ đồ sau:
Người bị thiệt hại
được xác định là


Người bị thiệt hại
được xác định là




Hậu
quả
- Có mối quan hệ
nhân quả với hành
vi phạm tội.
- Phù hợp với mục
đích của người
phạm tội.
- Không có mối
quan hệ nhân quả
với hành vi phạm
tội.

- Không phù hợp
với mục đích của
người phạm tội.


Người bị
hại
Người có
quyền,
nghĩa vụ
liên
quan

18
Sơ đồ 1: Phân biệt người bị hại với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.2.4. Phân biệt khái niệm người bị hại và khái niệm nguyên đơn dân sự.
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Để được
xác định là người bị hại thì thể chất, tinh thần, tài sản của một người phải là đối
tượng tác động của tội phạm. Cũng là đối tượng tác động của tội phạm, nhưng là
tài sản của cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức được xác định là nguyên đơn
dân sự.
Trước khi có sự sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 thì nguyên đơn dân
sự được xác định là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất và có đơn
yêu cầu. Nhưng thực tế cá nhân, cơ quan, tổ chức không chỉ bị thiệt hại về vật
chất mà cá nhân có thể bị thiệt hại về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Cơ quan, tổ
chức cũng có thể bị thiệt hại về uy tín do tội phạm gây nên. Như vậy, nguyên
đơn dân sự bao gồm: cá nhân, cơ quan, tổ chức; còn người bị hại chỉ là những
con người cụ thể.
Một tiêu chí khác để phân biệt hai chủ thể này là hành vi đưa đơn yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Người bị hại đương nhiên được tham gia tố tụng vì hậu quả

đối với họ trong một số trường hợp được coi là một trong những yếu tố cấu
thành tội phạm, trong trường hợp khác lại được coi là tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hậu quả này chính là đối tượng cần chứng
minh trong vụ án. Hơn nữa họ có thể là người chứng kiến hành vi phạm tội (như
người bị gây thương tích, bị cướp tài sản…) Họ tham gia tố tụng không chỉ giúp
CQTHTT làm rõ hành vi của người phạm tội mà còn tham gia vì quyền lợi của
chính họ. Khác với điều đó, nguyên đơn dân sự chỉ tham gia tố tụng khi có đơn

19
yêu cầu bồi thường. Hậu quả đối với nguyên đơn dân sự không phải là tình tiết
định tội, không có ý nghĩa với việc xem xét trách nhiệm hình sự cho bị cáo,
Phân biệt người bị hại với nguyên đơn dân sự là phân biệt hai loại người
tham gia tố tụng với hai tư cách khác nhau. Cơ quan, tổ chức bị thiệt hại không
thuộc phạm vi để xem xét trong luận văn, vì trong thực tế không có sự nhầm lẫn
đối với trường hợp này mà chỉ nhầm lẫn khi họ là cá nhân.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự chỉ tham gia tố tụng khi có thiệt hại xảy
ra. Thiệt hại của người bị hại là thiệt hại trực tiếp về thể chất, tinh thần, tài sản từ
hành vi phạm tội.
Ví dụ: Do có mâu thuẫn với nhau từ trước A đã dùng dao để chém B. Anh
C là người có mặt tại đó đã vào can ngăn. Trong lúc vật lộn với A để tước đoạt
con dao anh C đã vị vỡ chiếc đồng hồ. A bị truy tố về tội “cố ý gây thương tích”
anh B tham gia với tư cách người bị hại. Anh C có đơn yêu cầu bồi thường chiếc
đồng hồ bị vỡ, anh được xác định là nguyên đơn dân sự. Trong vụ án này, mục
đích của A là gây thương tích cho B, đối tượng tác động mà A nhằm hướng tới là
sức khỏe của B chứ không phải là tài sản của anh C. Tỷ lệ thương tích của anh B
là hậu quả mà CQTHTT xem xét để quyết định truy tố và có ý nghĩa nhất định
trong việc quyết định hình phạt đối với A. Còn thiệt hại về tài sản của anh C chỉ
là hậu quả cần phải khắc phục, không có ý nghĩa gì với việc xem xét tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo A. Bởi lẽ, nếu thiệt hại của anh C đã đủ
yếu tố cấu thành một tội phạm khác, độc lập với tội danh mà A bị xét xử thì A

ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích” còn phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội đã gây nên thiệt hại cho anh C. Lúc này hậu quả mà bị

20
cáo A đã gây ra đối với anh C sẽ được xem là một trong những yếu tố cấu thành
tội phạm.
Trong trường hợp khác, cá nhân được xác định là nguyên đơn dân sự do có
sự thiệt hại về tài sản mà sự thiệt hại này là hậu quả tiếp theo từ hậu quả mà
người phạm tội đã gây cho người bị hại: như một người phải nghỉ việc để chăm
sóc nạn nhân, những người thường xuyên được cấp dưỡng nay người cấp dưỡng
bị chết. Dấu hiệu để phân biệt người bị hại với nguyên đơn dân sự (là cá nhân)
có thể khái quát bằng sơ đồ sau:
Người Người bị thiệt hại
được xác định là


Người bị thiệt hại

được xác định là
Sơ đồ 2: Phân biệt người bị hại với nguyên đơn dân sự.
1.3. Vị trí, quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong luật TTHS.
Theo tinh thần cải cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: “xác định rõ
hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng theo hướng đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh”. Từ đó cho thấy
việc xác định người tham gia tố tụng trong đó có người bị hại có vị trí rất quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Việc xác định đúng và đưa họ
tham gia đúng tư cách sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ và sẽ






Hậu
quả
Là tình tiết định
tội hoặc tăng
nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình
sự cho bị cáo
-Không có ý nghĩa
với việc định tội
hoặc là tình tiết
tăng nặng giảm nhẹ
trách nhiệm hình
sự cho bị cáo
- là hậu quả tiếp
theo mà người bị
hại cần phải khắc
phục


Người bị
hại
Nguyên
đơn dân
sự.

21
nhằm giải quyết kịp thời nhanh chóng các thiệt hại do tội phạm gây ra đối với

người bị hại. Hơn nữa người bị hại còn cung cấp các tài liệu, chứng cứ để chứng
minh tội phạm. Từ đó xác định đúng hành vi phạm tội và góp phần giải quyết vụ
án nhanh chóng, khách quan.
Luật TTHS nước ta chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ
chức xã hội không được coi là người bị hại. Người bị hại là con người cụ thể bị
hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần tài sản của họ phải là đối
tượng tác động của tội phạm. Người bị hại chỉ trở thành người bị hại trong TTHS
khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua hành vi
triệu tập họ đến khai báo với tư cách là người bị hại.
Người bị hại là người bị người phạm tội trực tiếp xâm hại đến thể chất,
tinh thần hoặc tài sản. Vì vậy, họ là người có thể đưa ra các tài liệu, chứng cứ để
bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó pháp luật quy định người bị hại có các quyền
về tố tụng tương đối rộng để đảm bảo cho họ bảo vệ được những lợi ích hợp
pháp của mình trong tố tụng và đấu tranh chống tội phạm.
Theo quy định tại Điều 39 BLTTHS năm 1988, vấn đề người bị hại đã
được quy định trong một chương riêng về người tham gia tố tụng. Vị trí, quyền
và nghĩa vụ của người bị hại cũng được quy định cụ thể rõ ràng hơn. Lần đầu
tiên trong TTHS của Việt Nam cũng đưa được định nghĩa pháp lý thế nào là
người bị hại và được quy định trong luật. Người bị hại theo BLTTHS năm 1988
là người bị người phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản
đồng thời cũng là người có quyền yêu cầu bồi thường và họ có các quyền đó là:
đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội

×