Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.21 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐÌNH THIỆN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐÌNH THIỆN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH)

Chuyên ngành

: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 8380101.03


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu nêu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Đình Thiện


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN

HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ............................ 8

1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện........................................... 8
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ..................................................... 8
1.1.2. Phân biệt hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong
giai đoạn điều tra với hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai
đoạn tố tụng khác.................................................................................................19
1.1.3. Căn cứ của việc quy định thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự .......................................................................................................... 21
1.1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự .................................................................................................................... 31
1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự..34
1.2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................................................ 34
1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về kiểm sát điều tra vụ án
hình sự .................................................................................................................... 51
Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ....................................................... 59


2.1. Một số đặc điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của tỉnh Bắc Ninh ........................ 59
2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện .............................. 61
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ................................... 66

2.4. Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự và nguyên nhân ........................................................... 73
2.4.1. Những tồn tại, hạn chế ................................................................................ 73
2.4.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.................................................... 76
Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ....... 80

3.1. Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự ............................................................................................................... 80
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ................ 84
3.2.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện................................................................................. 84
3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, nâng
cao trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra ............ 88
3.2.3. Chủ động công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp, trình độ và năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán
bộ, Kiểm sát viên cấp huyện .................................................................................... 92
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho Viện kiểm sát cấp
huyện và hoàn thiện chính sách đãi ngộ phù hợp với đặc thù của ngành Kiểm sát
nhân dân ................................................................................................................. 94
KẾT LUẬN........................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả hoạt động THQCT trong khởi tố vụ án hình sự của Viện
kiểm sát cấp huyện tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 - 2017 ............................ 63
Bảng 2.2. Số liệu so sánh tổng số kết thúc điều tra trên tổng số khởi tố vụ án

và khởi tố bị can giai đoạn 2012 - 2017 ........................................................ 64
Bảng 2.3. Số liệu Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ
sung giai đoạn 2012 - 2017 ........................................................................... 65
Bảng 2.4. Số vụ án Toà án trả hồ sơ Viện kiểm sát để điều tra bổ sung giai
đoạn 2012 - 2017 ........................................................................................... 65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là đặc trưng riêng
có của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là một trong những thiết chế kiểm
soát quyền lực nhà nước. Ở nước ta, Hiến pháp năm 1959 đã quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà
nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân” và đến nay
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Trải qua từng giai đoạn lịch sử, chức
năng, nhiệm vụ của VKSND đã được điều chỉnh, nhưng chức năng thực hành
quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp là không thay đổi
(mặc dù được quy định ở phạm vi khác nhau), phản ánh nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cũng là sự tin tưởng của Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao trọng trách cho VKSND. Nhìn lại chặng đường
cải cách tư pháp, VKSND đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng. Đó là
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, đồng thời đã khẳng định được vị trí, vai trò là cơ quan trọng
yếu không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Trước yêu cầu ngày càng cao của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà nước liên tục yêu
cầu Viện kiểm sát (VKS) phải tăng cường trách nhiệm công tố. Điều này
được thể hiện ngay từ những năm đầu VKSND mới thành lập, năm 1967,

đồng chí Trường Chinh đã kết luận: “... Không có cơ quan nào có thể thay thế
ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét
xử, có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát

1


phải trông nom, bảo đảm, làm tốt...” [23]. Đến giai đoạn tiến hành công cuộc
cải cách tư pháp, ngày 21/3/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 53CT/TW trong đó đã xác định: “Tăng cường trách nhiệm pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân với công tác bắt, giam, giữ, việc bắt, giam phải được xem
xét phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể; đối với trường
hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng được thì không bắt,
giam. Sai sót trong việc giam giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện kiểm
sát nhân dân ở địa phương đó phải chịu trách nhiệm” [6]. Tiếp đến các Nghị
quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
đều nhấn mạnh vai trò công tố, tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam,
giữ đảm bảo đúng luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm,
người phạm tội, VKS phải chịu trách nhiệm về những oan, sai theo quy định
của pháp luật. Đặc biệt, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã yêu cầu Viện kiểm sát “...bảo đảm tốt hơn các
điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tăng cường trách nhiệm
công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra...” [10]. Điều này thể hiện Đảng
và Nhà nước rất quan tâm đối với công tác kiểm sát, trong đó yêu cầu phát
huy vai trò, trách nhiệm công tố trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần Nghị quyết của Đảng
trước yêu cầu cải cách tư pháp, ngành Kiểm sát cần phải tiếp tục đổi mới,

khắc phục những tồn tại, hạn chế, mà thực tiễn cho thấy thời gian qua đã xảy
ra việc bỏ lo ̣t tô ̣i pha ̣m, làm oan, sai người vô tô ̣i ở mô ̣t số nơi, tại một số thời
điể m, trong đó có lỗi của VKS. Một trong những nguyên nhân là do việc
nghiên cứu lý luận về quyền công tố và THQCT trong tố tụng hình sự

2


(TTHS), trong đó có THQCT và kiểm sát điề u tra (KSĐT) các vụ án hình sự,
còn chưa được quan tâm đúng mức. Bên ca ̣nh đó những vấ n đề về THQCT và
KSĐT các vụ án hình sự cũng còn nhiều vấn đề cần đượ

c giải quyế t như :

Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa THQCT và
KSĐT, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và KSĐT... Nhất là tránh sự thụ
động trong hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự khi những đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước đã được luật hoá trong BLTTHS năm
2015, bổ sung về nhiệm vụ và trách nhiệm đối với Viện kiểm sát.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT
các vụ án hình sự của VKSND, đồng thời làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận
và thực tiễn thông qua hoạt động của VKSND cấp huyện, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng của hoạt động này theo quy định của BLTTHS năm 2015,
tác giả chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Bắc Ninh)” làm Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng
hiến định của VKSND. Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đặt ra cho

VKSND, pháp luật đã quy định cụ thể thẩm quyền của VKSND các cấp trong
từng giai đoạn để thực hiện chức năng hiến định này. Về vấn đề này, đã có
nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau đã được công bố. Đáng
chú ý là các công trình sau:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Quyền công tố ở Việt Nam”, của Lê Thị
Tuyết Hoa, 2002.
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra”, của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.

3


- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân”, của Trịnh Duy
Tám, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội”, của Hà Thị
Minh Hạnh, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân”, của Phan Thị Thuý Lan, Học viện Hành chính Quốc gia, 2007.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước
ta”, của Lương Thuý Hà, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”, của Cao
Việt Cường, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên cơ sở nghiên

cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, của Dương Thị
Thu Hoà, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”, của Phạm
Thị Thuý, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội”, của Nguyễn
Ngọc Ánh, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016.

4


- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội”, của Nguyễn Mạnh Tùng,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016.
Ngoài ra, còn có các bài viết của các tác giả khác với các ý kiến và
quan điểm khác nhau được đăng trên các báo và Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí
Luật học, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ...
Trong Luận văn, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những
công trình nghiên cứu có trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần
làm sáng tỏ vấn đề khi BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiệm vụ và trách
nhiệm của VKSND đối với hoạt động này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý
luận về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa THQCT và
KSĐT, những quy định của BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi THQCT và KSĐT, tìm hiểu thực trạng của hoạt động này ở VKSND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, đánh giá chất lượng của
công tác này, những kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, tồn tại và làm

rõ nguyên nhân của chúng, đồng thời đề xuất các giải pháp khắc phục để nâng
cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT, làm rõ một số vấn đề lý luận
về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa THQCT và
KSĐT của VKSND, những quy định của BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi THQCT và KSĐT.

5


- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT của Viện
kiểm sát cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời phân tích làm rõ
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và
KSĐT các vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra, mối quan hệ giữa THQCT và KSĐT, những
quy định của BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT
và KSĐT, thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của
VKSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2012 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung về cải cách tư pháp
nói riêng, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta trong TTHS, Luận
văn sử dụng các phương pháp logic và lịch sử, kết hợp lý luận và khảo sát
thực tiễn, phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh...

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Điểm mới của đề tài: Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự.
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề
lý luận có liên quan đến THQCT và KSĐT của VKSND cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, đánh giá kết quả cũng như thiếu sót, tồn tại và đề ra các
giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chức năng này
của VKSND cấp huyện.

6


- Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần nhận thức đúng đắn vai trò công
tố, THQCT, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, chủ động
hơn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện
Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và kiến nghị nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự đối với Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện.

7



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1.1.1.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là hai chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân trong đó có Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Việc nhận thức đúng đắn về khái niệm, đặc điểm, phạm vi của hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn, bảo đảm tính khách quan, truy tố đúng người, đúng
tội, góp phần chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm.
Trước khi tìm hiể u về khái niê ̣m , đă ̣c điể m , phạm vi của THQCT trong
giai đoa ̣n điề u tra các vu ̣ án hình

sự, chúng ta cần phải xác định được khái

niê ̣m và phạm vi của thực hành quyền công tố.
- Quyền công tố
Để hiểu rõ về thực hành quyền công tố, trước hết cần tìm hiểu về quyền
công tố: Khái niệm, nội dung và phạm vi của nó cả trên phương diện lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam.
Trong khoa học luật TTHS, việc xác định khái niệm quyền công tố và
THQCT có ý nghĩa xác định chính xác vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước.


8


Khái niệm quyền công tố trong khoa học luật ở Việt Nam được các
nhà nghiên cứu đưa ra trong các công trình nghiên cứu và có nhiều quan
điểm khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội, quyền công tố chỉ
có trong lĩnh vực TTHS. Được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ sau khi
kết thúc việc điều tra tội phạm và vụ án hình sự được chuyển sang VKS để
truy tố người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm
trước Tòa án kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc quyết định
đình chỉ của Toà án) đối với người đó, tức là trong hai giai đoạn của TTHS,
truy tố bị can và buộc tội bị cáo của VKS tại phiên tòa xét xử của Tòa án.
Theo nghĩa rộng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội, quyền công tố chỉ
có trong lĩnh vực TTHS. Được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ khi tiếp
nhận giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra
Toà, tranh tụng tại phiên toà và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp
luật (hoặc quyết định đình chỉ của Toà án) đối với người hoặc pháp nhân
thương mại đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm,
tức là tất cả các giai đoạn của TTHS; khởi tố, điều tra tội phạm, truy tố bị can
và buộc tội bị cáo của VKS tại phiên tòa xét xử của Tòa án.
Tác giả đồng tình với cách phân tích, quyền công tố là quyền đại diện
cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người hoặc pháp nhân
thương mại có hành vi phạm tội, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng
hình sự; phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp nhận giải quyết nguồn
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra Toà, tranh tụng tại phiên
toà và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc quyết định đình
chỉ của Toà án). Trong hoạt động TTHS luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ


9


bản đó là chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội và chức năng xét xử. Buộc tội
là một chức năng tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Cơ quan thực hiện chức năng
buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc cụ thể đối với cá
nhân cụ thể và có nhiệm vụ đưa ra những tài liệu, chứng cứ cụ thể cho sự
buộc tội đó. Bởi các lý do sau:
Thứ nhất, quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống nghiên
cứu lịch sử nhà nước và pháp luật về quyền công tố: “Quyền công tố là
quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi
vi phạm pháp luật hình sự”
Thứ hai, các quy định pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ khác
nhau về quyền công tố phù hợp với quan điểm này, cụ thể:
- Hiến pháp và pháp luật nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố…”[15, 16].
- Khi nói về vai trò, nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã kết
luận: “Không có cơ quan nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền
công tố. Bắt, giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử, có đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật hay không, đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay
không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm, làm tốt” [23].
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ:
“Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp” [7, tr. 2].
- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều 3 quy định:
“Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi

tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [29].

10


- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 159, 161, 165, 236, 266 quy
định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố
trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; trong việc khởi tố vụ án hình sự;
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; trong giai đoạn truy tố; trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự” [30].
Như vậy, theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 và BLTTHS năm 2015 thì phạm vi quyền công tố xuất hiện từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc khi có quyết định
đình chỉ vụ án).
Qua các phân tích nêu trên, tác giả đi đến kết luận: Quyền công tố là
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước, cơ quan được nhà
nước giao cho quyền này (ở nước ta là VKSND) thực hiện các hoạt động
nhằm phát hiện tội phạm, truy tố người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.
Về nội dung quyền công tố vẫn có ý kiến còn nhầm lẫn với nội dung
THQCT, đó là: Nội dung của quyền công tố được hiểu là tổng hợp các quyền
năng pháp lý do luật định nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được
phát hiện và xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan
người vô tội [37, tr. 85-87]. Theo tác giả, nội dung của quyền công tố là sự
buộc tội còn việc tiến hành những biện pháp gì do luật định và cơ quan nhà
nước nào được giao nhiệm vụ thực hiện các biện pháp pháp lý ấy để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội lại là THQCT.
- Thực hành quyền công tố
Cũng như khái niệm về “quyền công tố”, khái niệm “thực hành quyền

công tố” cũng như đặc điểm, phạm vi của nó còn ít được đề cập đến và chưa
rõ ràng.

11


“Thực hành” theo nghiã tiế ng Viê ̣t đươ ̣c hiể u là “làm để lý thuyế t áp
dụng vào thực tế” [50, tr. 897]. Như vâ ̣y, thực hành quyề n công tố thực chấ t là
hoạt động đưa những quy định của pháp luật về quyền công tố thuộc chức
năng của VKS vào thực tế nhằ m truy cứu trách nhiê ̣m hiǹ h sự người thực
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước để
phát hiện tội phạm , truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tòa, nên có quan điể m cho rằ ng “ Thực hành quyền công tố chính
là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội
ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó” [11].
Có thể đưa ra khái niệm về thực hành quyề n công tố như sau

: Thực

hành quyền công tố là viê ̣c Viê ̣n kiểm sát /Viê ̣n công tố sử dụng các quyề n
năng pháp lý mà pháp luật quy đi ̣nh để đưa người phạm tội hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội ra truy tố và buộc tội trước Tòa án.
BLTTHS năm 2015 đã xác lập nội dung THQCT kể từ khi xét phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện
pháp hạn chế quyền công dân, quyền con người. Thời điểm này chưa khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, mới là giải quyết nguồn tin về tội phạm. Đây chính là yêu cầu
của pháp luật giao cho VKSND trong việc kiểm sát và xử lý tin báo tội phạm.
Bởi vì, bản chất việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc phê chuẩn bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chính là việc bắt và tạm giữ hình sự.
Việc vào cuộc sớm của công tố chính là sự khẳng định vai trò, vị trí của Viện
kiểm sát trong việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Nếu không phân loại,
xử lý đúng nguồn tin về tội phạm từ đầu thì dễ xảy ra oan, sai. Có trường hợp
hành vi không cấu thành tội phạm, có yếu tố dân sự nhưng lại bị tạm giữ hình sự
và ngược lại, hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng lại tiến hành xử lý hành chính.

12


- Kiểm sát điều tra
Kiểm sát điều tra có nguồn gốc từ thuật ngữ “Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật”. Tuy nhiên, kiểm sát việc tuân theo pháp luật có phạm vi rộng hơn.
Kiểm sát điều tra được hiểu là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
của VKSND theo luật định để kiểm tra, giám sát hoạt động của CQĐT và cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (giai đoạn điều
tra) cũng như toàn bộ các hoạt động khác xảy ra khi các cơ quan này điều tra
vụ án hình sự có đúng quy định của pháp luật không, nhằm đảm bảo pháp chế
thống nhất, chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp; góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [16].
Theo khoản 3 Điều 41 của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp trong phạm vi địa phương mình” [29].
Như vậy, VKSND cấp huyện có đầy đủ hai chức năng cùng với
VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh và VKS quân sự các cấp

đó là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.1.1.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Hoạt động công tố của VKS được thực hiện xuyên suốt quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trong giai đoạn điều tra, hoạt động công tố của

13


VKS có ý nghĩa hết sức quan trọng, có tính chất quyết định việc buộc tội, gỡ
tội, đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, không để xảy ra oan, sai, không để
lọt tội phạm. Trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư
pháp hiện nay, hoạt động công tố của VKS càng phải được tăng cường, đổi
mới mạnh mẽ hơn nữa.
Trước khi tim
̀ hiể u về khái niê ̣m , đă ̣c điể m , phạm vi của THQCT trong
giai đoa ̣n điề u tra các vu ̣ án hiǹ h sự , chúng ta cần phải xác định được khái
niê ̣m và phạm vi của giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một trong các giai đoạn TTHS trong
đó CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành các biện pháp
cần thiết nhằm thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, nghiên
cứu các tình tiết của vụ án hình sự, nhằm phát hiện nhanh chóng, kịp thời và đầy
đủ tội phạm, cũng như người hoặc pháp nhân thương mại có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm, tạo điều kiện cần thiết giải quyết đúng đắn vụ án.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự được xác định thời điểm bắt đầu khi có
quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT hoặc cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và kết thúc khi có một trong các quyết

định tố tụng đánh dấu kết thúc giai đoạn này như: Kết luận điều tra đề nghị truy
tố hoặc kết luận điều tra đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, có một số hoạt động điều
tra được tiến hành trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, do có những
yêu cầu cấp bách, cần thiết như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, giám định pháp y, định giá tài sản. Do đó, đây cũng chính là một số hoạt
động điều tra trong TTHS.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là căn cứ cho hoạt động
truy tố, trong hoạt động xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc

14


phạm tội và người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm đều phải dựa
trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT và cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp do
BLTTHS quy định để chứng minh tội phạm và người hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định
nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp, các ngành thực
hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực
hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của
BLTTHS, góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và
đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là một trong các giai
đoạn của TTHS được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho
đến khi CQĐT hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc kết luận điều tra đình chỉ
vụ án. Trong đó CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra được sử dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để thu thập

chứng cứ chứng minh tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội và
những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc truy tố tô ̣i pha ̣m
của VKS ra trước Tòa án . Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định
nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện
pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [3, tr.102].
Mục đích của hoạt động THQCT trong hoạt động điều tra là để chứng
minh tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, đảm bảo mọi hành
vi phạm tội đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, không làm oan pháp nhân thương mại vô tội.

15


Xuấ t phát từ khái niê ̣m thực hành quyề n công tố đã đươ ̣c phân tić h



trên và khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự, tác giả đưa ra khá i niê ̣m
THQCT trong giai đoa ̣n điề u tra như sau: Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố để xem xét quyết định truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội , được
thực hiện từ khi khởi tố vụ án đế n khi kế t thúc điề u tra , đề nghị truy tố hoặc
đến khi kết thúc điều tra, đình chỉ điề u tra.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có những đặc
điểm cơ bản sau:
Một là, trong khi hoạt động điều tra có nhiệm vụ chứng minh toàn bộ
sự việc phạm tội một cách khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội thì hoạt động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự, quyết định việc buộc tội , việc gỡ tội ; quyết định hạn chế các

quyền con người như bắt , tạm giữ , tạm giam và các biện pháp ngăn chặn
khác; kế t luâ ̣n điề u tra , đề nghị truy tố hoă ̣c đình chỉ điề u tra. THQCT trong
giai đoa ̣n điề u tra luôn phải gắ n liề n với nhiê ̣m vu ̣ của giai đoa ̣n điề u tra và thể
hiê ̣n rõ ở nhiê ̣m vu ,̣ quyề n ha ̣n của VKS trong TTHS. Đó là viê ̣c phát hiê ̣n kip̣
thời, nhanh chóng tô ̣i pha ̣m , thu thâ ̣p chứng cứ chứng minh tô ̣i pha ̣m , người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.
Hai là, THQCT bao gồm hành vi và các quyết định tố tụng mang tính
công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng do pháp luật quy định. Các
quyết định trong THQCT thể hiện dưới dạng văn bản của người có thẩm quyền
như: Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án; Quyết định không khởi tố vụ
án của CQĐT; Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can... Các quyết định tố tụng của
VKS đều được gửi cho người có liên quan theo quy định của pháp luật.

16


Ba là, hoạt động công tố là nhân danh quyền buộc tội Nhà nước, chịu
sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. VKS cấp
trên có quyền rút, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
VKS cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật. Điều này khác với tổ
chức hoạt động điều tra, CQĐT cấp trên không có quyền rút, hủy bỏ các
quyết định tố tụng của CQĐT cấp dưới.
Bốn là, THQCT có đặc điểm khác với hoạt động kiểm sát điều tra. Tuy
cùng một chủ thể tiến hành là VKS nhưng THQCT chủ yếu nhằm vào việc
buộc tội, yêu cầu bắt, giam giữ và áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác đối
với người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, còn hoạt động kiểm
sát điều tra hướng đến sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra; nếu phát
hiện có hành vi vi phạm pháp luật, VKS có quyền kiến nghị, yêu cầu các chủ
thể chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm.

Năm là, mục đích của hoạt động THQCT tuy vẫn phải xem xét, đánh
giá cả những chứng cứ gỡ tội đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại
phạm tội nhưng thực hiện quyền buộc tội vẫn là chủ yếu. Mọi hành vi phạm
tội đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội.
Như vậy, phạm vi hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của VKS bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT
kế t luâ ̣n điề u tra , đề nghị truy tố hoặc khi có kết luận điều tra và quyết định
đình chỉ điề u tra.
Đối tượng của hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hính ự
nói riêng cũng như đối tượng của hoạt động THQCT nói chung đó là tội phạm
và người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.
Nội dung của hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội

17


dung quyền công tố để xem xét quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.
Kiểm sát điều tra là kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự
để phát hiện vi phạm trong hoạt động điều tra, kiến nghị, yêu cầu kịp thời
khắc phục vi phạm, kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, chủ thể tiến hành
hoạt động điều tra, đảm bảo việc điều tra được tuân thủ theo trình tự, thủ tục
của pháp luật. Làm tốt công tác kiểm sát điều tra sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện cho
hoạt động THQCT được phát huy.
Như vậy, có thể rút ra khái niệm kiểm sát điều tra vụ án hình sự như
sau: Kiểm sát điều tra vụ án hình sự là hoạt động của VKS kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các chủ thể tiến hành hoạt động điều tra và các chủ thể
khác tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát sinh trong giai đoạn điều tra bắt

đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT hoặc cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố hoặc kết luận điều tra đình chỉ vụ án, nhằm đảm bảo cho
quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có những đặc điểm và đặc trưng
cơ bản sau:
Thứ nhất, kiểm sát điều tra bắt đầu từ khi cơ quan tiến hành tố tụng ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ
án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định
đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, kiểm sát điều tra là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
chủ thể tiến hành hoạt động điều tra và các chủ thể khác tham gia quan hệ
pháp luật TTHS phát sinh trong giai đoạn điều tra. Các tài liệu được các chủ
thể tiến hành tố tụng thu thập phải theo đúng quy định của pháp luật mới được
sử dụng là những chứng cứ trong vụ án hình sự.

18


×