Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Người thực hành trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.41 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM DUY HƢNG

NGƢỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ
THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM DUY HƢNG

NGƢỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Duy Hƣng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGƢỜI THỰC HÀNH
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...... 6
1.1. Những khái niệm có liên quan ........................................................... 6
1.1.1. Khái niệm đồng phạm ........................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm ngƣời thực hành trong đồng phạm ...................................... 8
Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của ngƣời thực hành trong
đồng phạm và phân loại ngƣời thực hành trong đồng phạm ....... 10

1.2.1. Dấu hiệu chủ thể của ngƣời thực hành trong đồng phạm ................... 10
1.2.2. Dấu hiệu hành vi khách quan của ngƣời thực hành trong vụ án
đồng phạm ........................................................................................... 13
1.2.3. Dấu hiệu lỗi của ngƣời thực hành trong đồng phạm........................... 14
1.2.4. Phân loại ngƣời thực hành trong đồng phạm ...................................... 15
1.3. Phân biệt ngƣời thực hành với những ngƣời đồng phạm khác .... 19
1.3.1. Phân biệt ngƣời thực hành với ngƣời tổ chức trong đồng phạm ........ 19
1.3.2. Phân biệt ngƣời thực hành và ngƣời xúi giục trong đồng phạm......... 21
1.3.3. Phân biệt ngƣời thực hành và ngƣời giúp sức trong đồng phạm ........ 22
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 26
1.2.

Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
NGƢỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM VÀ THỰC
TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ ...................... 28
Quy định của Luật Hình sự Việt Nam về ngƣời thực hành
trong đồng phạm ............................................................................... 28
2.1.1. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về ngƣời thực hành
trong đồng phạm ................................................................................. 28
2.1.


2.1.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về ngƣời thực hành
trong đồng phạm ................................................................................. 31
2.2. Thực tiễn xét xử ngƣời thực hành trong đồng phạm trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến năm 2017 và những khó
khăn, vƣớng mắc trong áp dụng pháp luật hình sự....................... 35
2.2.1. Tình hình xét xử ngƣời thực hành trong đồng phạm trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến năm 2017 ........................................... 35
2.2.2. Những khó khăn, vƣớng mắc khi áp dụng pháp luật hình sự xét

xử ngƣời thực hành trong đồng phạm ................................................. 38
2.2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vƣớng mắc khi áp dụng pháp
luật hình sự xét xử đối với ngƣời thực hành trong đồng phạm........... 60
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 62
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ ĐỐI VỚI NGƢỜI THỰC HÀNH
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .... 63
3.1. Một số giải pháp cơ bản tiếp tục hoàn thiện quy định của luật
hình sự về ngƣời thực hành trong đồng phạm ............................... 63
3.1.1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hƣớng dẫn áp dụng
quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về ngƣời thực hành trong
đồng phạm ........................................................................................... 63
3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về
ngƣời thực hành trong đồng phạm ...................................................... 66
3.2. Các giải pháp khác ............................................................................ 69
3.2.1. Giải pháp về tổ chức cán bộ ................................................................ 69
3.2.2. Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động xét xử và áp dụng pháp
luật khác có liên quan .......................................................................... 71
3.2.3. Tăng cƣờng giám đốc việc xét xử đối với vụ án có ngƣời thực
hành trong đồng phạm......................................................................... 71
3.2.4. Tăng cƣờng tổ chức các phiên tòa mẫu, phiên tòa rút kinh nghiệm
xét xử vụ án hình sự ............................................................................ 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng


Trang

Bảng 2.1

Tổng hợp số liệu xét xử của ngành Tòa án nhân dân
tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến năm 2017

36

Tổng hợp kết quả đặc điểm nhân thân của bị cáo do
ngành Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử từ năm
2013 đến năm 2017

37

Tổng hợp kết quả xét xử phúc thẩm vụ án có ngƣời thực
hành có kháng cáo, kháng nghị do ngành Toà án nhân
dân tỉnh Phú Thọ xét xử từ năm 2013 đến năm 2017

38

Bảng 2.2

Bảng 2.3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội của đất nƣớc và sự hội nhập

kinh tế quốc tế sâu rộng với thế giới, sự bùng nổ công nghệ thông tin với
nhiều tính năng thông minh, tình trạng thất nghiệp gia tăng do hình thành các
khu đô thị nhất là đối tƣợng thanh niên trong độ tuổi lao động, theo đó, tính
chất tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp, gia tăng về số lƣợng trên cả nƣớc,
trong đó có tỉnh Phú Thọ. Những vụ án do nhiều ngƣời (chủ yếu là ngƣời thực
hành) cùng thực hiện, mang tính chất liên tỉnh ngày càng nhiều với quy mô và
thủ đoạn phạm tội ngày tinh vi. Có thể thấy, so với tội phạm do một ngƣời
thực hiện thì tội phạm có đồng phạm thực hiện có tính chất nghiêm trọng hơn,
mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn, hậu quả gây ra nằng nề hơn các vụ án
do một ngƣời thực hiện.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ của các cơ quan tƣ pháp, việc xác
định chính xác từng loại ngƣời, bao gồm cả ngƣời thực hành trong đồng phạm
có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định rõ vai trò, trách nhiệm hình sự,
cá thể hoá hình phạt đối với mỗi bị can, bị cáo trong từng vụ án.
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ thì số vụ án
hình sự có từ 02 bị cáo trở lên tham gia đều thể hiện năm sau gia tăng, phức
tạp hơn năm trƣớc. Song quy định của pháp luật về vấn đề đồng phạm còn
chƣa đầy đủ, rõ ràng, đôi khi khó áp dụng nên các cơ quan tiến hành tố tụng
còn gặp nhiều khó khăn, bất đồng quan điểm trong việc điều tra, truy tố xét
xử đối với các vụ án có đồng phạm, đặc biệt là những vụ án có nhiều ngƣời
thực hành tham gia. Thời gian qua, có hiện tƣợng bản án bị huỷ, bị sửa, đình
chỉ do không thống nhất trong việc xác định đồng phạm, ngƣời thực hành
trong đồng phạm, điều đó ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng, hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm uy tín của ngành Toà án nhân

1


dân tỉnh Phú Thọ nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung đối với
nhân dân trên địa bàn.

Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề về dấu hiệu, đặc
điểm, trách nhiệm pháp lý của ngƣời thực hành trong đồng phạm theo quy
định của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và một số hạn chế trong
thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự Việt Nam trong công tác xét xử các vụ án
có ngƣời thực hành trong vụ án đồng phạm thời gian vừa qua là cần thiết, trên cơ
sở đó đƣa ra một số luận cứ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và
đƣa ra một số giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống các tội
phạm có đồng phạm; bảo đảm an ninh trật tự, toàn xã hội, góp phần phục vụ
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc nói chung. Đây là lý do chính để học
viên quyết định lựa chọn đề tài: "Người thực hành trong đồng phạm theo
luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ" làm luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, có thể nói, đây là vấn đề nhận đƣợc rất
nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình
sự và cán bộ trực tiếp thực thi nhiệm vụ. Đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu đƣợc công bố thể hiện ở một số luận văn, luận án, sách chuyên
khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình đại học nhƣ: GS.TSKH Đào Trí Úc
chủ biên, Mô hình lý luận về Bộ luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; GS.TSKH Lê Cảm, Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005; ThS.Trịnh Quốc Toản, "Đồng
phạm", Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể
tác giả do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội,

2


2001 (tái bản năm 2003 và 2007); Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong luật

hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
2000; Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần
chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2004; Trần Văn Biên và Đinh Thế
Hƣng, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017, Nxb Thế giới, 2017; Nguyễn Thị Thu Hòa, Người thực hành trong đồng
phạm theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2011;
Bên cạnh đó, vấn đề đồng phạm và ngƣời thực hành đồng phạm cũng
đƣợc đề cập ở nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của nhiều tác giả nhƣ:
Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
4/2003; Trần Quang Tiệp: Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự ở một
số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 11/1997; Lê Thị
Sơn: Về các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm, Tạp chí Luật học, số
3/1998. Trần Văn Hùng: Quy định về đồng phạm trong Bộ luật Hình sự năm
2015 và vài lưu ý trong quá trình giải quyết vụ án đồng phạm, trang thông tin
điện tử của Bộ Tƣ pháp ngày 24/6/2016…
Tuy nhiên, các công trình nói trên đa số có phạm vi nghiên cứu rộng,
hoặc nghiên cứu vấn đề đồng phạm dƣới một số góc độ, khía cạnh nhất định phòng ngừa trong luật hình sự Việt Nam; có công trình nghiên cứu về đồng
phạm nhƣng đã đƣợc tiến hành cách đây khá lâu, chƣa có nhiều những công
trình phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối với từng loại ngƣời
trong đồng phạm, đặc biệt là đối với ngƣời thực hành, trung tâm của hoạt động
phạm tội trong đồng phạm. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về ngƣời thực hành trong chế định
đồng phạm, cũng nhƣ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về chế định đồng phạm vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực

3


tiễn, đặc biệt là phục vụ trực tiếp cho quá trình xét xử, giải quyết các vụ án

hình sự của ngành Toà án nhân dân nói chung và ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Thọ nói riêng.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ
bản về ngƣời thực hành trong đồng phạm; phân biệt ngƣời thực hành với các
hình thức đồng phạm khác. Qua nghiên cứu thực tiễn một số khó khăn, vƣớng
mắc trong quá trình áp dụng pháp luật khi xử lý các vụ án hình sự có đồng
phạm (đặc biệt là nhiều ngƣời thực hành tham gia), luận văn đề xuất một số
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về xử lý các vụ
án có đồng phạm nói chung và xử lý ngƣời thực hành nói riêng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
về đồng phạm và ngƣời thực hành trong đồng phạm trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ. Thời gian nghiên cứu từ năm 2013 đến năm 2017.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
đƣợc triển khai nghiên cứu đề tài là: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội
học; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật;

4



nghiên cứu, điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề
khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần hoàn thiện hơn lý luận về
chế định đồng phạm, ngƣời thực hành trong đồng phạm trong khoa học luật
hình sự Việt Nam. Các nghiên cứu luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo, nghiên cứu, học tập các khoa, trƣờng có chuyên ngành luật; cung cấp
những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu, lập pháp và hoạt
động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến ngƣời thực
hành trong đồng phạm, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống các tội phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về ngƣời thực hành trong đồng phạm
theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về ngƣời thực hành
trong đồng phạm và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
xét xử đối với ngƣời thực hành trong đồng phạm.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGƢỜI THỰC HÀNH
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
Trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta, khái niệm đồng phạm đã hình thành

và phát triển qua nhiều thời kỳ. Trong thời kỳ phong kiến, cũng đã có các quy
định sơ khai về đồng phạm và vấn đề đồng phạm đã bƣớc đầu đƣợc đề cập tới
trong "Quốc triều hình luật" năm 1483. Mặc dù Bộ luật chƣa đƣa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm đồng phạm nhƣng đã có những quy định chung
về trách nhiệm hình sự cho những ngƣời tham gia phạm tội, đó là “kẻ đồng
mƣu” hay “ngƣời xúi giục”:
Những kẻ đồng mƣu với nhau đi ăn cƣớp nhƣng khi đi thì lại
không đi, ngƣời đi lấy đƣợc của về chia nhau, mà kẻ đồng mƣu ở
nhà cũng lấy phần, thì xử tội nhƣ là có đi ăn cƣớp (ăn trộm cũng
vậy) nếu không lấy đƣợc phần chia thì xử lƣu đi châu gần. Trƣớc
kia vẫn từng đi ăn cƣớp mà khi ấy không đi, dù không lấy phần
cũng xử tội nhƣ đi ăn cƣớp [60].
Tiếp đến Hoàng Việt hình luật đƣợc ban hành ngày 03/7/1933 (chỉ có
hiệu lực ở miền Trung) đã dành chƣơng IX quy định về đồng phạm. Tuy
nhiên, Bộ luật này vẫn chỉ dừng ở nguyên tắc trừng trị tội phạm:
Khi nào nhiều ngƣời đồng can một tội đại hình hoặc trừng trị
mà xét rõ là đáng tội, quan tòa án phải xét trong những ngƣời ấy
hoặc một ngƣời hoặc nhiều ngƣời là chánh yếu phạm, còn những
ngƣời khác thời là tùng phạm, mà nghĩ xử tội bằng phân nửa tội
ngƣời chánh yếu phạm [39, tr. 11].

6


Từ khi thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
liên quan đến đồng phạm. Phạm vi đồng phạm đƣợc quy định rộng bao gồm
cả hành vi oa trữ (tức là hành vi chứa chấp, tiêu thụ của gian, không phân biệt
có hứa hẹn trƣớc hay không): Ví dụ: Điều 2 Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/2/1946
quy định: "Những người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của tội phạm

trên cũng bị phạt như chính phạm". Thuật ngữ "đồng phạm" lần đầu tiên xuất
hiện trong Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 về truy tố các tội hối lộ, biển
thủ công quỹ: "Người phạm tội còn có thể bị xử, tịch thu nhiều nhất là đến 3/4
gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên". Sắc lệnh số
133-SL ngày 20/01/1959 và Pháp lệnh ngày 30/10/1967 về trừng trị những tội
phản cách mạng cũng quy định trƣờng hợp phạm tội của nhiều ngƣời trong đó
bao gồm; bọn chủ mƣu, bọn cầm đầu và bọn tham gia tổ chức phản cách
mạng [16, tr.12].
Cùng với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm đồng phạm
đã bắt đầu xuất hiện trong các tài liệu nghiên cứu và sách, báo pháp lý. Đến
năm 1963, khái niệm này đã đƣợc khẳng định trong báo cáo tổng kết ngành
Toà án: "Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và
hành động, nghĩa là hoặc tổ chức hoặc xúi giục hoặc giúp sức hoặc tham gia
thực hiện tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội" [40]. Giáo trình hình
luật của Trƣờng Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội đã nêu ra khái niệm hoàn chỉnh
hơn: "Hai hoặc nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện một tội phạm thì
gọi là cộng phạm" [52]. Pháp luật hình sự giai đoạn sau này có những bƣớc
tiến vƣợt bậc với sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 1985. Lần đầu tiên khái
niệm đồng phạm đã chính thức đƣợc sử dụng, Khoản 1 Điều 17 nêu rõ: "Hai
hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm" [23]. Khái
niệm này đã thay thế hoàn toàn khái niệm "cộng phạm" vẫn đƣợc sử dụng

7


trƣớc đây. Theo đó, yếu tố bắt buộc đối với đồng phạm là phải có lỗi cố ý, loại
trừ trƣờng hợp phạm tội do vô ý. Đa số pháp luật các nƣớc trên thế giới có
khái niệm về đồng phạm theo xu hƣớng quy định này. Tuy nhiên, Bộ luật
Hình sự của Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa năm 1979 lại có quy định cụ thể
khái niệm loại trừ những trƣờng hợp không phải là đồng phạm ngay trong

điều luật: "Hai hoặc nhiều người vô ý cùng thực hiện một tội phạm không
phải là đồng phạm" [19].
Sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 1999 một lần nữa khẳng định quan
điểm của luật hình sự Việt Nam về chế định đồng phạm trong Bộ luật Hình sự
năm 1985. Điều 20. Đồng phạm: Đồng phạm là trƣờng hợp có hai ngƣời trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Ngƣời tổ chức, ngƣời thực hành, ngƣời
xúi giục, ngƣời giúp sức đều là những ngƣời đồng phạm. Phạm tội có tổ chức
là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những ngƣời cùng thực
hiện tội phạm.” [26].
Từ đó, có thể đi đến khái niệm chung nhất về đồng phạm là: Đồng
phạm là sự cố ý của hai người trở lên cùng tham gia vào việc thực hiện một
tội phạm [16, tr.15].
1.1.2. Khái niệm người thực hành trong đồng phạm
Trong pháp luật hình sự nƣớc ta, ngƣời thực hành trong đồng phạm
cùng đã đƣợc ghi nhận với nhiều tên gọi khác nhau. Quốc triều hình luật gọi
ngƣời thực hành là thủ phạm. Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) đƣợc khắc
in lần đầu năm 1812 thì gọi là "thủ" [16, tr.30].
Sau Cách mạng tháng 8/1945, các văn bản pháp luật sơ khai của nhà
nƣớc ta lần đầu tiên đề cập đến ngƣời thực hành trong Sắc lệnh số 223-SL
(17/11/1946) về truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ: "Người phạm tội còn
có thể bị xử, tịch thu nhiều nhất là đến 3/4 gia sản". Tuy nhiên, các văn bản
pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến đồng phạm và ngƣời thực hành

8


trong thời kỳ này đều rất chung chung, đơn giản, ngôn từ chƣa chuẩn xác,
chƣa mang tính phổ biến cao. Do đó, khi vận dụng đa số các cơ quan hữu
quan phải tự liên hệ, vận dụng cho từng tình huống cụ thể nên tính thống nhất
thấp, đôi khi còn nhiều bất hợp lý, chƣa phù hợp với thực tế [16, tr.31].

Sau khi nƣớc nhà thống nhất năm 1975, Nhà nƣớc ta đã chú trọng hoàn
thiện hoạt động của bộ máy chính quyền mới trên mọi lĩnh vực, do đó, công tác
lập pháp và hành pháp cũng đƣợc quan tâm đầu tƣ và phát triển hơn, đặc biệt là
kỹ thuật lập pháp. Trong giai đoạn này, nhiều sách báo, công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý có liên quan đến đồng phạm và ngƣời thực hành trong đồng
phạm đã xuất hiện với nhiều góc nhìn, khía cạnh nghiên cứu khác nhau làm cơ
sở để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến đồng phạm và ngƣời thực hành trong đồng phạm [16, tr.31].
Mặc dù vậy, các văn bản pháp luật thời kỳ này chƣa đƣa ra một khái
niệm pháp lý cũng nhƣ các dấu hiệu đặc trƣng của ngƣời thực hành trong
đồng phạm mà mới chỉ đƣa ra tên gọi của loại đồng phạm này. Chỉ đến Bộ
luật Hình sự đầu tiên năm 1985 của nhà nƣớc ta mới ghi nhận chính thức khái
niệm ngƣời thực hành trong đồng phạm "...Người thực hành là người trực tiếp
thực hiện tội phạm" [26].
Trong cuốn Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung) của GS.TS Lê Cảm, Sách chuyên khảo sau đại học, Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội, 2005, có khái niệm về ngƣời thực hành nhƣ sau:
"…Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm hay trực tiếp tham
gia vào việc thực hiện tội phạm cùng với những người khác hoặc thực hiện tội
phạm bằng thủ đoạn sử dụng những người mà theo các quy định của Bộ luật
này không phải chịu trách nhiệm hình sự" [5].
Có thể nói, đây là khái niệm có thể sẽ khắc phục đƣợc những hạn chế
của ngƣời thực hành quy định tại Bộ luật Hình sự.

9


Từ những phân tích nêu trên, tác giả đƣa đến khái niệm chung nhất về
ngƣời thực hành nhƣ sau: Người thực hành là người trực tiếp thực hiện, tham
gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc thực hiện tội phạm bằng thủ đoạn sử

dụng những người mà theo các quy định của Bộ luật Hình sự không phải chịu
trách nhiệm hình sự.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của ngƣời thực hành trong
đồng phạm và phân loại ngƣời thực hành trong đồng phạm
1.2.1. Dấu hiệu chủ thể của người thực hành trong đồng phạm
Ngƣời thực hành là ngƣời quan trọng nhất trong số những ngƣời đồng
phạm và là loại ngƣời không thể thiếu trong bất cứ vụ án đồng phạm nào. Nói
cách khác trong vụ án đồng phạm có thể không có ngƣời đồng phạm khác
nhƣng bắt buộc phải có ngƣời thực hành.
Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm. Cụ thể hơn,
ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện hành vi khách quan đƣợc mô tả
trong cấu thành tội phạm. Ngƣời thực hành có hai loại thực hành trực tiếp và
thực hành gián tiếp. Cụ thể:
Ngƣời thực hành trực tiếp: Là ngƣời tự mình thực hiện hành vi khác
quan đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm không thông qua ngƣời khác.
Ngƣời thực hành gián tiếp: Ngƣời này không tự mình trực tiếp thực
hiện hành vi khách quan mà có hành vi tác động đến ngƣời khác để ngƣời này
trực tiếp thực hiện hành vi khách quan. Các dạng ngƣời khác này đã đƣợc nêu
cụ thể ở phần trên.
Tuy nhiên, dù là ngƣời thực hành ở dạng thứ nhất hay dạng thứ hai thì
cũng đều phải thỏa mãn dấu hiệu chung của chủ thể tội phạm:
Một là, ngƣời thực hành phải là ngƣời đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì Bộ luật Hình sự năm 2015 đã khắc phục
đƣợc những bất cập về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 12 Bộ luật

10


Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã thu hẹp phạm vi các tội mà
ngƣời từ đủ 14 tuổi đến chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo

đó ngƣời từ đủ 14 tuổi đến chƣa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm đã đƣợc quy định (đƣợc liệt kê tại Khoản 2 Điều 12), các tội
đó này phải thuộc loại tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý. Nguyên tắc xác định tuổi tròn tính đến ngày, giờ.
Hai là, ngƣời thực hành phải là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự,
thể hiện thông qua lý trí nhận thức đƣợc hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, khả năng điều khiển đƣợc hành vi đó và không mắc bệnh tâm thần
hoặc các bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi. Điều 13 Bộ luật
Hình sự năm 1999 và Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Ngƣời thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đối với các tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt chỉ cần ngƣời thực hành thỏa
mãn các đặc điểm về chủ thể đặc biệt, còn những ngƣời đồng phạm khác
không nhất thiết phải thỏa mãn các đặc điểm của chủ thể đặc biệt.
Đối với ngƣời thực hành thì việc xác định giai đoạn phạm tội của họ
giống với chủ thể của tội phạm đơn lẻ. Còn các giai đoạn thực hiện tội phạm
của ngƣời đồng phạm khác phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện tội phạm của
ngƣời thực hành. Nghĩa là, ngƣời thực hành thực hiện ở giai đoạn nào thì
những ngƣời đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn đó.
Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của ngƣời thực hành
khác với ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức, chủ mƣu, cầm đầu và ngƣời chỉ huy.
Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của ngƣời thực hành giống nhƣ
trƣờng hợp phạm tội đơn lẻ, đƣợc quy định tại Điều 19 Bộ luật Hình sự năm

11


1999 và Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo quy định này thì ngƣời

thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự bản thân ngƣời đó
không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản và đƣợc miễn
trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Còn đối với những dạng ngƣời đồng
phạm khác cũng đƣợc coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội họ nhƣng
họ phải có những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, thời điểm đƣợc coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội của ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức khi ngƣời này phải
dừng việc xúi giục, giúp sức trƣớc khi ngƣời thực hành bắt đầu thực hiện
hành vi phạm tội.
Thứ hai, ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức phải có hành
động tích cực ngăn chặn việc phạm tội. Họ có thể khuyên bảo, thuyết phục
thậm chí đe dọa để ngƣời thực hành không thực hiện tội phạm hoặc tố giác
với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, hoặc báo cho nạn nhân biết. Ngƣời giúp
sức phỉa chấm dứt việc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho việc thực hiện tội
phạm. Ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức chỉ đƣợc coi là tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội khi họ ngăn chặn đƣợc hoặc khi cơ quan có
thẩm quyền hoặc ngƣời khác ngăn chặn đƣợc hành vi phạm tội của ngƣời
thực hành. Ngƣợc lại, nếu tội phạm do ngƣời thực hành thực hiện trên thực tế
và hậu quả nguy hiểm vẫn xảy ra thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bởi lẽ, hành động tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của họ chỉ có ý
nghĩa khi hành vi phạm tội bị phát giác, đã tự thú, đã khai báo sự việc, góp
phần có hiệu quả vào việc phát hiện tội phạm và ngăn chặn hậu quả xảy ra.
Ngƣời thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đƣợc miễn
trách nhiệm hình sự nhƣng họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015
nếu họ không tố giác những ngƣời đồng phạm khác.

12



1.2.2. Dấu hiệu hành vi khách quan của người thực hành trong vụ
án đồng phạm
Hành vi khách quan của tội phạm nói chung và của ngƣời thực hành
trong vụ án đồng phạm nói riêng là yếu tố quan trọng nhất để xác định có hay
không tội phạm xảy ra, nếu không có hành vi khách quan thì các yếu tố khác
nhƣ về chủ thể, lỗi, động cơ, mục đích không có ý nghĩa gì. Vì vậy, hành vi
khách quan của ngƣời thực hành cũng phải thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi
khách quan theo từng điều luật cụ thể đƣợc quy định tại phần các tội phạm cụ
thể trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, tức là hành vi đó phải đảm bảo các yếu
tố nhƣ tính trái pháp luật hình sự, tính nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó phải
biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể dƣới hình thức hành động hoặc không hành
động. Trong đó, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng
nhất, quyết định các dấu hiệu khác, điều này đƣợc thể hiện qua các quy định
của pháp luật hình sự. Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 và cũng là Điều 8 Bộ
luật Hình sự năm 2015 khẳng định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội...” và “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng
biện pháp khác” [30]. Bên cạnh đó, tính nguy hiểm phải đƣợc thể hiện thông
qua hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi khách quan của ngƣời thực hành chính là hành vi nguy hiểm
cho xã hội và phải thỏa mãn tất cả dấu hiệu của hành vi khách quan đƣợc quy
định tại một điều luật cụ thể. Khi đó, vụ án đồng phạm trƣớc hết phải đƣợc
khởi tố theo điều luật mà hành vi khách quan của ngƣời thực hành phạm phải
hay nói cách khác, hành vi khách quan của ngƣời thực hành chính là hành vi
đƣợc mô tả trong cấu thành cơ bản của tội phạm đó.
Hành vi khách quan của ngƣời thực hành phải là nguyên nhân trực tiếp
và có mối quan hệ nhân quả với hậu của xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, hành

13



vi đó phải thể hiện qua lí trí và ý chí của ngƣời thực hành. Tức là trong trạng
thái tâm lý mà ở đó họ có đầy đủ điều kiện và khả năng để lựa chọn một biện
pháp xử sự khác không gây thiệt hại cho xã hội nhƣng họ đã thực hiện hành vi
bị luật hình sự cấm gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nhƣ vậy, hành vi
phạm tội cũng nhƣ hậu quả từ hành vi phạm tội gây ra phải nằm trong sự
thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan.
1.2.3. Dấu hiệu lỗi của người thực hành trong đồng phạm
Lỗi là toàn bộ diễn biến tâm lý bên trong của ngƣời phạm tội thể hiện
thái độ tâm lý của ngƣời phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi gây ra, đƣợc biểu hiện dƣới hình thức lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý. Ý nghĩa của việc phân định các loại lỗi nhằm phân hóa
trách nhiệm hình sự, bởi lẽ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội đƣợc thực hiện với các hình thức lỗi này là không giống nhau nếu
các dấu hiệu các của tội phạm và nhân thân ngƣời phạm tội là nhƣ nhau.
Lỗi của ngƣời đồng phạm nói chung và ngƣời thực hành trong vụ án
đồng phạm phải là lỗi cố ý. Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 10 Bộ
luật Hình sự năm 2015 quy định cố ý phạm tội là:
Ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trƣớc hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả xảy ra [26]; Ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trƣớc hậu quả của hành vi đó có thể
xảy ra, tuy không mong muốn nhƣng vẫn có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra [30].
Thông thƣờng, lỗi của ngƣời thực hành là lỗi cố ý trực tiếp. Về lý trí
ngƣời thực hành nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức
rõ hậu quả tất yếu xảy ra hoặc có thể xảy ra. Về ý chí, ngƣời thực hành mong
muốn hậu quả xảy ra, hay nói cách khác hậu quả là mục đích cuối cùng của
việc phạm tội và họ chủ động trong việc gây ra hậu quả.


14


Với những tội mà dấu hiệu động cơ và mục đích là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm cơ bản thì ngƣời thực hành và những ngƣời đồng
phạm phải thỏa mãn dấu hiệu đó, nếu không sẽ không có đồng phạm.
Bên cạnh đó, lỗi của ngƣời thực hành cũng có thể là lỗi cố ý gián tiếp
(không tự mình thực hiện tội phạm). Tác giả sẽ phân tích cụ thể ở tiết 1.2.4
sau đây.
1.2.4. Phân loại người thực hành trong đồng phạm
Trong các sách, báo hiện nay, khái niệm ngƣời thực hành trong đồng
phạm đã đƣợc giải thích tƣơng đối cụ thể. Theo đó, ngƣời thực hành đƣợc
hiểu là ngƣời tự mình thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm
hoặc là ngƣời thực hiện hành vi đó qua hành vi ngƣời khác mà ngƣời này
không phải chịu trách nhiệm hình sự vì những lý do khác nhau. Ngƣời thực
hiện tội phạm có thể là ngƣời thực hành (trong đồng phạm) hoặc chỉ là ngƣời
thực hiện tội phạm đơn lẻ (trong trƣờng hợp không có đồng phạm). Hành vi
của ngƣời thực hành trong đồng phạm có thể là hành vi thực hiện toàn bộ
hoặc thực hiện một phần hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm của
loại tội có dấu hiệu chủ quan là lỗi cố ý. Nhƣng tổng thể hành vi của những
ngƣời thực hành thoả mãn đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì tội
phạm đƣợc thực hiện vẫn đƣợc coi là hoàn thành. Có thể coi hành vi của
ngƣời thực hành là dạng đặc biệt của hành vi phạm tội nói chung và phải thỏa
mãn dấu hiệu của đồng phạm nói riêng.
Về phƣơng thức thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội
phạm, có thể phân biệt hai dạng ngƣời thực hiện tội phạm: Ngƣời tự mình
thực hiện tội phạm và ngƣời không tự mình thực hiện tội phạm.
Người tự mình thực hiện tội phạm là trƣờng hợp tự mình thực hiện hành
vi khách quan đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm. Trƣờng hợp này ngƣời
thực hành có thể sử dụng hoặc không sử dụng công cụ, phƣơng tiện phạm tội.


15


Ngƣời thực hành có thể đồng thời thực hiện hành vi thoả mãn dấu hiệu của
nhiều loại ngƣời trong đồng phạm (ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời
giúp sức) trong sự tƣơng tác với hành vi với những ngƣời đồng phạm khác và
một hành vi phạm tội cũng không đồng nhất với một hành vi thực hiện cụ thể.
Mặc dù ngƣời phạm tội có nhiều hành vi thực hiện cụ thể khác nhau nhƣng
vẫn đƣợc coi là một hành vi phạm tội. Trƣờng hợp này, luật hình sự cũng
chƣa có những quy định cụ thể về cách xác định vai trò, trách nhiệm của họ
trong đồng phạm [16, tr..34].
Thực tế cho thấy, còn có những trƣờng hợp một ngƣời thực hành có
nhiều hành vi thực hiện thoả mãn cấu thành tội phạm của nhiều tội khác nhau,
hoặc thoả mãn dấu hiệu đồng phạm với vai trò ngƣời thực hành của tội này và
hành vi của họ còn cấu thành một tội độc lập khác. Một hành vi có thể vừa
thoả mãn một cấu thành tội phạm cụ thể vừa thoả mãn dấu hiệu đồng phạm
với một tội phạm khác. Ví dụ: Ngƣời có thẩm quyền nhận hối lộ để cho ngƣời
khác vận chuyển hàng trái phép. Trong trƣờng hợp này, hành vi của ngƣời đó
vừa thoả mãn cấu thành tội phạm tội "Nhận hối lộ", vừa có dấu hiệu đồng
phạm tội "Buôn lậu" [16, tr.35].
Một hành vi cũng có thể thoả mãn dấu hiệu đồng phạm của hai tội khác
nhau. Ví dụ: A cho B mƣợn búa để đi tƣớc đoạt sinh mạng C để chiếm đoạt
tài sản xe máy. Trong trƣờng hợp này hành vi cho mƣợn dao của A đồng thời
thoả mãn dấu hiệu đồng phạm tội "Giết ngƣời" và tội "Cƣớp tài sản".
Một hành vi có thể thoả mãn cấu thành tội phạm cụ thể vừa thoả mãn
cấu thành định khung của một tội khác. Ví dụ: A trộm nhà B, đồng thời gây
thƣơng tích cho B để tẩu thoát. Trong trƣờng hợp này hành vi của họ thoả
mãn dấu hiệu định khung theo khoản 2 Điều 138 của tội "Trộm cắp tài sản"
đồng thời thoả mãn dấu hiệu của tội "Cố ý gây thƣơng tích" theo Điều 104

Bộ luật Hình sự năm 1999.

16


Bên cạnh những ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm, khoa học luật hình
sự còn thừa nhận một loại ngƣời thực hành khác đó là ngƣời thực hiện hành
vi phạm tội thông qua hành vi của một ngƣời khác không có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc không thuộc trƣờng hợp phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đó là ngƣời không tự mình thực hiện tội phạm.
Người không tự mình thực hiện tội phạm là ngƣời đã quyết định thực
hiện một tội phạm cụ thể, nhƣng lại không muốn tự mình thực hiện. Họ đã tác
động đến ngƣời khác bằng nhiều cách khác nhau nhƣ lừa dối, đe doạ, mua
chuộc… để ngƣời đó thực hiện tội phạm cho mình. Về hình thức bên ngoài,
ngƣời bị tác động tuy đã thực hiện hành vi khách quan đƣợc mô tả trong cấu
thành tội phạm, gây ra hậu quả của tội phạm, nhƣng thực chất ngƣời đó không
trực tiếp thực hiện tội phạm đã sử dụng họ nhƣ một công cụ để thực hiện tội
phạm. Ngƣời trực tiếp thực hiện hành vi không có lỗi và không phải chịu
trách nhiệm về hành vi họ đã thực hiện. Ngƣời đã sử dụng họ nhƣ một công
cụ, không trực tiếp thực hiện tội phạm nhƣng phải chịu trách nhiệm về tội
phạm mà họ đã gây ra [16, tr.36].
Thực tế thƣờng có 04 trƣờng hợp thực hiện hành vi phạm tội thông qua
ngƣời khác là: Thứ nhất, sử dụng ngƣời không có năng lực nhận thức hoặc
điều khiển hành vi hay ngƣời chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Thứ hai,
lợi dụng sai lầm của ngƣời khác về những tình tiết khách quan của tội phạm
hoặc ngƣời đó không có lỗi để gây ra hậu quả của tội phạm. Thứ ba, sử dụng
ngƣời khác gây thiệt hại bằng việc cƣỡng bức, uy hiếp … làm ngƣời bị cƣỡng
bức hành động trong trạng thái có lý trí. Thứ tƣ, sử dụng ngƣời dƣới quyền để
thực hiện mệnh lệnh không hợp pháp của mình [16, tr.36].
Trƣờng hợp không tự mình thực hiện tội phạm ít xảy ra trên thực tế,

nhƣng việc xác định rất phức tạp. Trƣớc hết là vấn đề xác định thời điểm bắt
đầu thực hiện tội phạm để xác định giai đoạn phạm tội ở những trƣờng hợp

17


phạm tội này. Hiện nay, trên sách báo pháp lý thể hiện hai loại quan điểm về
vấn đề này. Một quan điểm cho rằng, đƣợc coi là bắt đầu thực hiện tội phạm
khi ngƣời không tự mình thực hiện tội phạm đã kết thúc hành vi tác động và
ngƣời bị tác động bắt đầu thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội
phạm. Hành vi tác động do đó chỉ đƣợc coi là hành vi chuẩn bị phạm tội. Một
quan điểm khác lại cho rằng, vì hành vi khách quan của ngƣời không tự mình
thực hiện tội phạm đƣợc xác định là hành vi tác động đến ngƣời khác để
ngƣời này thực hiện tội phạm, nên ngƣời không tự mình thực hiện tội phạm
đƣợc coi là bắt đầu thực hiện tội phạm khi họ đã bắt đầu thực hiện hành vi tác
động. Việc thực hiện hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm của ngƣời bị tác
động xét về bản chất chỉ là kết quả của hành vi tác động của ngƣời không tự
mình thực hiện tội phạm. Trong áp dụng pháp luật hiện nay thƣờng thống
nhất với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, trong thực tế cần phân biệt hành vi của
ngƣời thực hành trong trƣờng hợp này với hành vi của ngƣời xúi giục, đó là
một trong bốn loại ngƣời đồng phạm [16, tr.37].
Ngƣời bị tác động tuy không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với
ngƣời tác động họ nhƣng những trƣờng hợp nhất định họ vẫn có thể phải chịu
trách nhiệm hình sự một cách riêng biệt.
Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định đối với một số tội phạm trong Phần
các tội phạm thì chủ thể những tội phạm này không phải là bất kỳ ngƣời nào
có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đã
thỏa mãn mà mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ - đòi hỏi ngƣời thực
hiện hành vi phạm tội đó phải có thêm một số đặc điểm, dấu hiệu khác có tính
đặc trƣng, đặc thù. Do đó, các tội phạm có quy định chủ thể của tội phạm phải

có thêm những dấu hiệu đặc thù, riêng biệt ngoài hai dấu hiệu chung, phổ biến
mà chủ thể của bất kỳ tội phạm nào cũng phải có thì đƣợc gọi là "tội phạm có
chủ thể đặc biệt". Đối với những tội phạm mà luật quy định chủ thể của tội

18


phạm phải là "chủ thể đặc biệt" thì ngƣời thực hành một mình hay tất cả những
đồng thực hành tội phạm phải có đầy đủ các dấu hiệu thể hiện của "chủ thể đặc
biệt" mà cấu thành tội phạm đó đòi hỏi [16, tr. 38].
1.3. Phân biệt ngƣời thực hành với những ngƣời đồng phạm khác
Tính chất và mức độ tham gia thực hiện tội phạm của mỗi ngƣời trong
những vụ đồng phạm không giống nhau, do đó, sự phân định rõ các loại
ngƣời đồng phạm sẽ là cơ sở quan trọng để đánh giá một cách khách quan về
hành vi phạm tội của từng ngƣời, xác định chính xác tính chất, mức độ nguy
hiểm, tạo cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt.
Ngƣời thực hành với vai trò là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm,
ngƣời giữ vai trò quan trọng trong bốn loại ngƣời đồng phạm. Theo đó, trực
tiếp thực hiện tội phạm là ngƣời phạm tội trực tiếp có hành vi thuộc mặt
khách quan của cấu thành tội phạm nhƣ: trực tiếp nhận tiền hối lộ, trực tiếp
giết ngƣời... Các dạng ngƣời thực hành đã đƣợc tìm hiểu tại phần khái niệm
về ngƣời thực hành nêu trên [16, tr.40].
Nhƣ vậy, hành vi của ngƣời thực hành đƣợc biểu hiện trong thực tế là
rất đa dạng, phong phú. Hành vi của họ luôn đƣợc coi là có vai trò quyết định
việc thực hiện tội phạm hay không, vì họ là ngƣời trực tiếp thực hiện tội
phạm. Cho dù quy mô của tội phạm lớn hay nhỏ, giản đơn hay phức tạp
(phạm tội có tổ chức) thì phải có ngƣời thực hành và họ đóng vai trò trung
tâm trong quá trình thực hiện phạm tội. Chúng ta có thể dựa vào hành vi trực
tiếp gây ra tội phạm của họ để xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm, xác
định trách nhiệm hình sự của các loại ngƣời trong đồng phạm [16, tr.40].

1.3.1. Phân biệt người thực hành với người tổ chức trong đồng phạm
Dƣới góc độ khoa học pháp lý "Ngƣời tổ chức" đƣợc hiểu là ngƣời chủ
mƣu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Ngƣời tổ chức có một vai trò rất quan trọng trong vụ đồng phạm, đƣợc

19


×