Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.36 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

LÊ THỊ OANH

NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC VỀ
BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

1


HÀ NỘI - 2018ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

LÊ THỊ OANH

NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC VỀ
BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Sinh Phúc

HÀ NỘI - 2018


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Nguyễn Sinh Phúc. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Thị Oanh

3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
Thầy (cô) trong Khoa Tâm lý học - Trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn
– Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện luận văn cao học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Sinh Phúc, người đã tận
tình dành nhiều thời gian quý báu để giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
tiến hành nghiên cứu và đóng góp những ý kiến quan trọng giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn cao học này.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo bệnh viện Tâm
thần kinh Hưng yên và tập thể những người chăm sóc của bệnh nhân đang được
điều trị tại bệnh viện. Đó là những người đã tạo điều kiện và hỗ trợ tôi trong suốt
quá trình tiến hành nghiên cứu thực tiễn, giúp tôi có được những số liệu quý báu để
góp phần vào việc hoàn thành luận văn cao học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người bạn và người thân
trong gia đình tôi, những người đã ủng hộ tôi về mặt tinh thần, giúp tôi có thể hoàn

thành luận văn của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót, tôi kính mong
nhận được sự bổ sung, đóng góp ý kiến quý giá của các Thầy (cô) giáo để đề tài của
tôi được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội,

tháng 2 năm 2018
Học viên

Lê Thị Oanh

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Số thứ tự
Nông dân
Công nhân
Công nhân viên chức
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thong
Trung cấp-Cao Đẳng-Đại học
Điểm trung bình chung
Nhà xuất bản
DSM-5: Tài liệu hướng dẫn thống kê và chẩn đoán của Hoa


Viết tắt
ĐTB
ĐLC
STT
ND
CN
CNVC
TH
THCS
THPT
TC-CĐ-ĐH
ĐTBC
NXB
DSM-5

Kỳ; lần thứ 5
(Diagnostic and statistical manual of Mental disorders – 5 th
Edition)
Bảng phân loại quốc tế về bệnh và các vấn đề sức khỏe, lần

ICD-10

thứ 10
(International statistical classification of diseases and related
health 10th revision)
Rối loạn stress sau sang chấn

PTSD

(Post Traumatic Stress Disorder)

Tổ chức Y tế thế giới

WHO

(World Health Organization)

5


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Nhận thức của người chăm sóc về đối tượng mắc bệnh tâm thần
phân liệt
Biểu đồ 3.2: Nhận thức của người chăm sóc về độ tuổi khởi phát bệnh tâm thần
phân liệt
Biểu đồ 3.3: Nhận thức của người chăm sóc về vấn đề điều trị cho bệnh nhân
tâm thần phân liệt
Biểu đồ 3.4: Nhận thức của người chăm sóc về các phương pháp điều trị cho
bệnh nhân tâm thần phân liệt……………………………………………...…….60
Biểu đồ 3.5: Thực trạng sử dụng các liệu pháp điều trị cho bệnh nhân tâm thần
phân liệt
Biểu đồ 3.6: Nhận thức của người chăm sóc về thời gian điều trị củng cố đối
với bệnh nhân tâm thần phân liệt


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần nặng chưa rõ nguyên nhân, có khuynh
hướng tiến triển mãn tính, dần dần gây sa sút các mặt hoạt động tâm thần làm cho
người bệnh không thể hoà nhập với cuộc sống gia đình cũng như xã hội. Theo Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh tâm thần phân liệt chiếm tỷ lệ 0,7-1% dân số và
ước tính toàn cầu có ít nhất 26 triệu người đang sống chung với tâm thần phân liệt
và con số này vẫn có thể gia tăng (2014)[26]. Đảng và nhà nước ta cũng đã có nhiều
chính sách liên quan đến vấn đề chăm sóc cho người bệnh tâm thần như: Nghị định
số 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư 115/2012/TTLT-BTC-BLDTBXH,
trong đó Quyết định số 1215/QĐ-TTG năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của gia đình trong vấn đề chăm sóc và phục hồi chức năng
cho người bệnh tâm thần. Chủ đề của ngày Sức khỏe Tâm thần thế giới
(10/10/2014) được Liên đoàn Sức khỏe Tâm thần Thế giới chọn là “Sống chung với
tâm thần phân liệt”, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của việc nhận thức của người
chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt và vấn đề chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân
liệt tại nhà[27]. Nhưng trên thực tế, người nhà thường đưa bệnh nhân đi “thầy cúng”
để chữa trị trước khi đưa bệnh nhân đến bệnh viện, hoặc sợ ảnh hưởng đến danh
tiếng của gia đình nên che giấu hoặc nhốt người bệnh lại. Có nhiều trường hợp
người nhà chưa nhận thức rõ về bệnh tâm thần phân liệt và tầm quan trọng của việc
chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt tại nhà dẫn đến một thực tế là bệnh nhân
không được chăm sóc cẩn thận, bỏ thuốc, bỏ nhà đi lang thang. Điều này là một mối
nguy hiểm cho bản thân người bệnh tâm thần phân liệt, người nhà và xã hội vì
những người bệnh tâm thần phân liệt khi không được chăm sóc, giám sát thường
xuyên có thể sẽ có những hành vi gây nguy hại cho bản thân và người khác.
Việc nghiên cứu về nhận thức của người chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân
liệt (chúng tôi gọi tắt là người chăm sóc)về bệnh tâm thần phân liệt sẽ chỉ ra được
những mặt kiến thức còn thiếu của người chăm sóc, trên cơ sở đó đưa ra những biện
pháp để nâng cao nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt cũng


9


như cách chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt tại nhà. Vì yếu tố quan trọng trong
điều trị bệnh nhân tâm thần phân liệt là bệnh nhân được trở về hòa nhập với gia
đình,với cộng đồng.
Bản thân những người chăm sóc cũng có những kiến thức khác nhau. Khi
người thân của mình được chẩn đoán là tâm thần phân liệt, nhiều người tìm cách
cúng lễ để trị bệnh và khi cúng lễ vẫn không làm giảm tình trạng của bệnh người
nhà mới tìm tới các cơ sở y tế để mong được giúp đỡ. Điều này chứng tỏ nhận thức
của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt vẫn còn hạn chế. Sự hạn chế này
cũng do nhiều khó khăn gây ra, đó là tài liệu về các bệnh tâm thần chưa được phổ
biến tới người dân. Tài liệu Tiếng Việt chỉ nằm lác đác trong một số báo cáo, nghiên
cứu khoa học của các bác sĩ, các luận văn, luận án…nhưng những tài liệu chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu thái độ của người chăm sóc; những tổn thương mà người
chăm sóc gặp phải; thực trạng chăm sóc, những đề tài tìm hiểu nhận thức của người
chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt vẫn còn hạn chế. Có thể kể ra ở đây như
nghiên cứu “Thái độ của người chăm sóc đối với bệnh nhân tâm thần phân liệt
đang điều trị tại nhà” của Lê Hoàng Nhân (9/2015); đề tài “Nghiên cứu khảo sát
kiến thức thái độ và hành vi của người thân đối với bệnh nhân tâm thần phân liệt”
của BS Phạm Thanh Hải, Nguyễn Văn Thu (2010); đề tài “Khảo sát nhận thức của
bệnh nhân và người chăm sóc bệnh nhân về bệnh tâm thần phân liệt” của Bệnh viện
quân y 103 (2015) do nhóm tác giả Phạm Xuân Trưởng, Nguyễn Văn Doanh, Đỗ
Văn Hạnh thực hiện, hay đề tài “ Thực trạng chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân
liệt tại nhà trên địa bàn tỉnh Nam Đinh” của Nguyễn Thị Dung (2014) [1].
Chính từ việc yêu cầu của xã hội ngày một gia tăng và những tồn tại trên.
Chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “ Nhận thức của người chăm sóc về bệnh
tâm thần phân liệt” nhằm đề xuất một số biện pháp giúp nâng cao nhận thức cho
người chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt tại gia đình.

2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức của người chăm sóc của người chăm sóc về
bệnh tâm thần phân liệt; Phân tích các yếu tố liên quan đến nhận thức của người

10


chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt. Từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao
nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Biểu hiện nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt
- Các yếu tố liên quan đến nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt
3.2.
Khách thể nghiên cứu
Đề tài được tiến hành trên 106 khách thể là người chăm sóc bệnh nhân tâm thần
3.1.

phân liệt đang được điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm Thần Kinh Hưng Yên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.
Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
-Hệ thống hóa các nghiên cứu về tâm thần phân liệt, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
- Xác định, thao tác hóa các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài: Khái niệm nhận
thức;khái niệm bệnh tâm thần phân liệt; khái niệm người chăm sóc; khái niệm nhận
thức về sức khỏe tâm thần; khái niệm nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm
thần phân liệt.
- Lựa chọn cách tiếp cận chỉ dẫn cho việc xây dựng bộ công cụ nghiên cứu.
4.2.


Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn

-Khảo sát thực trạng nhận của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt trên các
mặt: (1) bản chất của bệnh tâm thần phân liệt; (2)các yếu tố liên quan đến sự phát
triển của bệnh tâm thần phân liệt; (3) triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt; (4)
điều trị; (5) chăm sóc bệnh tâm thần phân liệt
- Phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố trình độ học vấn; tuổi đời; nghề nghiệp của
người chăm sóc đến nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt
- Đề xuất một số khuyến nghị để nâng cao nhận thức cuả người chăm sóc về bệnh
tâm thần phân liệt

11


5. Phạm vị nghiên cứu
5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu nhận thức của người
chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt trên các mặt sau:
- Nhận thức của người chăm sóc về bản chất của bệnh tâm thần phân liệt
- Nhận thức của người chăm sóc về các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của bệnh tâm
thần phân liệt;
- Nhận thức về triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt;
- Nhận thức về các biện pháp điều trị bệnh tâm thần phân liệt;
- Nhận thức về cách chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt;
5.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Một bệnh nhân tâm thần có thể có nhiều người chăm sóc, chúng tôi chỉ tiến
hành thu thập thông tin từ người thường xuyên chăm sóc bệnh nhân nhất (vợ-chồng,
bố-mẹ đối với con cái)
6. Giải thuyết nghiên cứu
- Nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt còn hạn chế, cụ thể:

người chăm sóc chưa có hiểu biết đầy đủ về các nguyên nhân, biểu hiện, cách điều
trị và cách thức chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt.
- Nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt ảnh hưởng bởi các yếu
tố như tuổi đời; trình độ học vấn; nghề nghiệp của người chăm sóc.
- Người chăm sóc đánh giá cao hiệu quả của liệu pháp điều trị hóa dược hơn là các
liệu pháp phục hồi chức năng; Nhiều người chăm sóc vẫn nhờ đến sự giúp đỡ của
thầy cúng điều trị cho bệnh nhân tâm thần phân liệt
7. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài:
-Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp phân tích số liệu bằng thống kê toán học

12


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nhận thức về sức khỏe tâm thần nói chung và tâm thần phân liệt nói riêng là
một trong những vấn đề ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới vì sự ảnh
hưởng của nó đến nền kinh tế của mỗi quốc gia, đến chất lượng cuộc sống của con
người. Theo WHO, những ảnh hưởng về kinh tế do rối loạn sức khỏe tâm thần là
rộng khắp, lâu dài và rất lớn. Nó gây nên chi phí lớn cho cá nhân, gia đình và cộng
đồng. Theo báo cáo y tế thế giới (2001), những rối loạn tâm thần và hành vi chiếm
khoảng 12% gánh nặng bệnh tật toàn cầu [15]. Chính vì vậy, sức khỏe tâm thần
cũng như rối loạn tâm thần ngày càng được quan tâm nghiên cứu.
Về sức khỏe tâm thần đã có những nghiên cứu sâu rộng về nhận thức và thái
độ của người dân đối với vấn đế này. Như nghiên cứu vào năm 2007 của một tổ

chức ở Ireland về “Nhận thức và thái độ của người dân Ireland đối với vấn đề Sức
khỏe tâm thần [19]. Nghiên cứu được tiến hành trên 1000 người dân nhằm thông
báo cho sự phát triển nhận thức về vấn đề sức khỏe tâm thần của người dân Ireland
hướng đến việc nâng cao nhận thức và hiểu biết về sức khỏe tâm thần của người
dân. Những người thực hiện nghiên cứu này cũng có mong muốn phát triển khả
năng ứng phó của người dân Ireland đối với những rối loạn sức khỏe tâm thần.
Ngoài ra có thể kể đến nghiên cứu của tổ chức Y tế ở Ireland về “Thái độ và nhận
thức của người dân Bắc Ireland đối với vấn đề Sức khỏe tâm thần” [18]. Những
người thực hiện nghiên cứu này cho rằng đây là nghiên cứu cần thiết để giúp thông
tin cho cộng đồng các vấn đề sức khỏe tâm thần, đồng thời đây là một cách tiếp cận
toàn dân đề hiểu và giải quyết các nguy cơ gặp phải rối loạn sức khỏe tâm thần cũng
như các yếu tố bảo vệ giúp người dân phòng ngừa và chữa trị khi gặp phải rối loạn
sức khỏe tâm thần. Và kết quả của 2 nghiên cứu trên đều chỉ ra rằng nhận thức của
người dân về các vấn đề sức khỏe tâm thần còn hạn chế.
Trên đây là các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần nói chung còn đối với tâm
thần phân liệt, đặc biệt là đối tượng người chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt

13


cũng thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả.Trong bài báo “Làm thế nào để người
Thái Lan chăm sóc, quản lý bệnh nhân tâm thần phân liệt tại nhà”của Tiến sĩ
Phyllis và Jintana Yunibhand (2009) đã chỉ ra ở Thái Lan có khoảng 343,680 bệnh
nhân tâm thần phân liệt được chăm sóc tại nhà bởi người thân và hầu hết họ đều có
ít kiến thức về bệnh tâm thần phân liệt, kết quả thu được bằng cách phỏng vấn sâu
và quan sát 170 người chăm sóc bệnh nhân tâm thần phần liệt [24].
Một số tác giả khác lại nhấn mạnh đến nhận thức của người chăm sóc về
những gánh nặng mà họ phải trải qua khi chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt,
bởi bệnh tâm thần phân liệt là một rối loạn tâm lý nghiêm trọng không chỉ ảnh
hưởng đến cuộc sống của những người bị ảnh hưởng mà cả gia đình của họ. Khi

bệnh tâm thần phân liệt có xu hướng trở nên mãn tính, sự suy giảm chức năng dẫn
đến mất chức năng xã hội, thay đổi mô hình truyền thông trong gia đình, dẫn đến
những khó khăn nghề nghiệp và gây gánh nặng cho gia đình. Các phản ứng của gia
đình đối với một thành viên trong gia đình bị tâm thần phân liệt bao gồm gánh nặng
chăm sóc, sợ hãi và bối rối về các dấu hiệu và triệu chứng bệnh tật, sự không chắc
chắn về bệnh, thiếu sự hỗ trợ của xã hội và kỳ thị. Trong một nghiên cứu được thực
hiện tại hai bệnh viện tư nhân của Malaysia và Ấn độ trên 50 bệnh nhân tâm thần
phân liệt và người chăm sóc bệnh nhân do Thara và cộng sự (2010) thực hiện đã chỉ
ra những gánh nặng mà người chăm sóc ở cả hai nước gặp phải như: gánh nặng tài
chính; sự kỳ thị của những người xung quanh; sự cải thiện của bệnh nhân. Mặc dù
không có sự khác nhau nhiều về mặt văn hóa nhưng có sự khác nhau về nhận thức
giữa người chăm sóc của hai quốc gia. Nhận thức về gánh nặng của người chăm sóc
ở Malaysia cao hơn ở Ấn Độ. Và những yếu tố có thể ảnh hưởng đến người chăm
sóc ở Malaysia là tuổi của bệnh nhân; các hỗ trợ từ gia đình; quan hệ hôn nhân giữa
người chăm sóc và bệnh nhân; các dịch vụ y tế hỗ trợ. Còn ở Ấn độ, tình hình tài
chính; sự kỳ thị của những người xung quanh; mức độ cải thiện của bệnh là những
yếu tố tác động trực tiếp đến người chăm sóc [25].
Cũng nhằm mục đích đánh giá gánh nặng trong một mẫu bệnh nhân tâm
thần phân liệt điều trị ngoại trú ở Brazin, Caqueo-Urízar và cộng sự (2013) đã thực

14


hiện nghiên cứu “ Gánh nặng chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị ngoại
trú ở Braxin”, bằng việc nghiên cứu trên 23 người chăm sóc của các bệnh nhân đã
được chẩn đoán là tâm thần phân liệt theo DSM-5, ở cả hai giới tính, trong độ tuổi
từ 18-50 và có thời gian chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt ít nhất 30 giờ/ tuần.
Gánh nặng gia đình được đánh giá bằng cách sử sụng bản FBIS-BR của Brazil và
phỏng vấn bán cấu trúc những người chăm sóc. Gánh nặng được chia thành các
phần như: hỗ trợ bệnh nhân trong cuộc sống hằng ngày; giám sát các hành vi có vấn

đề của bệnh nhân; gánh nặng tài chính; các ảnh hưởng đến thói quen của gia đình;
lo lắng về cuộc sống hiện tại và tương lai của bệnh nhân. Gánh nặng được đánh giá
theo thang Likert (1=không bao giờ đến 5=mỗi ngày). Qua nghiên cứu, tác giả giả
đã chỉ ra gánh nặng về việc hỗ trợ cho bệnh nhân trong cuộc sống hằng ngày là 3,32
± 0,77; giám sát hành vi có vấn đề của bệnh nhân là 1,86± 0,53; gánh nặng tài chính
là 2,78 ± 1,47; ảnh hưởng đến thói quen gia đình là 1,89 ± 0,81 và lo lắng về cuộc
sống hiện tại và tương lai của bệnh nhân là 3,72 ± 0,61. Như vậy những gánh nặng
của người chăm sóc tập trung vào các vấn đề như hỗ trợ bệnh nhân trong cuộc sống
hằng ngày, gánh nặng tài chính và tương lai của bệnh nhân [31]. Có thể nói những
gánh nặng mà người chăm sóc gặp phải trong khi chăm sóc bệnh nhân tâm thần
phân liệt ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần
phân liệt bởi họ không có nhiều thời gian rảnh rỗi để tìm hiểu những kiến thức về
bệnh tâm thần phân liệt
Như vậy có thể nói, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các vấn đề
liên quan đến nhận thức về sức khỏe tâm thần; nhận thức của người chăm sóc về
những gánh nặng mà họ gặp phải, những nghiên cứu tập trung vào nhận thức của
người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt còn chưa phổ biến.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Các nghiên cứu về người chăm sóc của bệnh nhân tâm thần phân liệt được
các tác giả Việt Nam nghiên cứu cũng khá nhiều.
Bằng việc phỏng vấn toàn bộ 100 người chăm sóc chính bệnh nhân tâm thần
phân liệt; phỏng vấn sâu 3 cán bộ y tế phụ trách chương trình chăm sóc sức khỏe

15


tâm thần cộng động và 3 cuộc thảo luận nhóm với 18 người chăm sóc chính của
bệnh nhân tâm thần phân liệt, nghiên cứu về “ Kiến thức - thái độ - thực hành của
người chăm sóc chính người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà và một số yếu tố liên
quan ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc” của Đinh Quốc Khánh (2010) đã cho thấy

nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt chỉ ở mức độ trung bình.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường nâng
cao công tác chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà ở 3 xã, thị trấn huyện
Bình Xuyên [9].
Cũng nghiên cứu về người chăm sóc, một số tác giả lại có xu hướng tìm hiểu
thái độ của người chăm sóc đối với bệnh nhân tâm thần phân liệt, bằng phương
pháp điều tra bảng hỏi trên 100 người đang chăm sóc kết hợp với phỏng vấn sâu,
nghiên cứu “Thái độ của người chăm sóc đối với bệnh nhân tâm thần phân liệt
đang điều trị tại nhà” của Lê Hoàng Nhân (2015) đã chỉ ra người chăm sóc hiểu
biết về bệnh tâm thần phân liệt vẫn còn hạn chế dẫn đến thái độ của người chăm sóc
đối với bệnh tâm thần phân liệt đa số là trung lập, có 14% có những suy nghĩ tiêu
cực về bệnh tâm thần phân liệt, 17% có thái độ tích cực và 69% có thái độ trung lập
với bệnh tâm thần phân liệt. Nghiên cứu cũng chỉ ra thái độ của người chăm sóc ảnh
hưởng bởi các yếu tố như: Học vấn, nơi sống, hình thức chăm sóc, số năm chăm
sóc, nhu cầu thỏa mãn các chức năng của người chăm sóc [11]
Nghiên cứu của Tôn Thất Hưng (2010) về vấn đề “Nghiên cứu tổn hại tâm lý
xã hội do bệnh tâm thần phân liệt gây ra cho gia đình tại bảy phường ở thành phố
Huế” lại tập trung vào những tổn hại tâm lý của người nhà có người thân là bệnh
nhân tâm thần phân liệt. Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên
144 người nhà của bệnh nhân tâm thần phân liệt trước và sau quản lý theo Dự án
bảo vệ sưc khoẻ tâm thần cộng đồng và người giám hộ tại bảy phường thành phố
Huế (Phú Hội, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Phú Thuận, Thuận Lộc, Thuận Hoà, Phú
Bình). Những vấn đề tâm lý mà người nhà gặp phải trước quản lý, nhiều nhất: gia
đình thường xuyên có mặc cảm (45,1%); thường xuyên căng thẳng (53,5%); đôi khi
lo sợ (45,5%); không chịu sự kỳ thị (44,4%). Sau khi bệnh nhân tâm thần phân liệt

16


được quản lý, những vấn đề về tâm lý mà người nhà gặp phải như: gia đình đôi khi

có mặc cảm (45,1%); đôi khi căng thẳng (51,4%); không lo sợ (52,8%); không chịu
sự kỳ thị (64,6%). Nguyên nhân của vấn đề này cũng được nghiên cứu chỉ ra là do
kiến thức về bệnh tâm thần phân liệt của người chăm sóc còn hạn chế dẫn đến
người chăm sóc vẫn còn sự lo sợ, mặc cảm về người bệnh tâm thần phân liệt.
Nghiên cứu cũng kết luận rằng, bệnh tâm thần phân liệt ra gây một số tổn hại tâm lý
xã hội cho gia đình, vì vậy, cần tăng cường giáo dục sức khỏe tâm thần, giúp họ có
thái độ đúng đắn đối với người bệnh, xóa bỏ sự kỳ thị, mặc cảm, lo sợ đối với người
bệnh[30].
Có tác giả lại tập trung vào vấn đề chăm sóc bệnh nhân như nghiên cứu
“Thực trạng chăm sóc bệnh nhân tại nhà trên địa bàn tỉnh Nam Định” của Nguyễn
Thị Dung (2014) chỉ ra điểm trung bình chăm sóc người bệnh đạt mức 7,17+/-1,12
(tính theo thang điểm 10) trong đó điểm trung bình về việc cho người bệnh dùng
thuốc chỉ đạt 5,46+/- 3,33, khám bệnh định kì đạt 3,88 +/- 0,6 đều ở mức độ trung
bình và mức thấp. Việc chăm sóc người bệnh tại nhà ảnh hưởng bởi các yếu tố:
Trình độ học vấn, thu nhập hàng tháng, tiếp cận thông tin hướng dẫn chăm sóc
người bệnh của người chăm sóc [1].
Có một số ít nghiên cứu về nhận thức của người nhà về bệnh tâm thần phân
liệt như nghiên cứu của nhóm tác giảPhạm Xuân Trưởng, Nguyễn Văn Doanh, Đỗ
Văn Hạnh của Bệnh viên quân y 103 (2015): “Khảo sát nhận thức của bệnh nhân
và người chăm sóc bệnh nhân về bệnh tâm thần phân liệt”, qua khảo sát 67 bệnh
nhân tâm thần phân liệt và 47 người chăm sóc trực tiếp bệnh nhân nghiên cứu chỉ ra
đa số bệnh nhân và người chăm sóc bệnh nhân nhận thức sai rằng tâm thần phân liệt
là bệnh thần kinh (55,88% và 55,32%). Chỉ 35,29% số bệnh nhân và 25,53% số
người chăm sóc nhận thức đúng rằng tâm thần phân liệt là bệnh tiến triển suốt đời.
Chỉ có 45,59% số bệnh nhân và 40,43% số người chăm sóc nhận thức đúng rằng
bệnh tâm thần phân liệt phải điều trị củng cố suốt đời [29]

17



Có thể nói mặc dù những nghiên cứu về người chăm sóc bệnh nhân tâm thần
phân liệt đã được thực hiện khá nhiều cả ở trên thế giới và Việt nam, tuy nhiên
những nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm
thần phân liệt còn rất hạn chế, các tác giả chủ yếu tập trung vào những gánh nặng
mà người chăm sóc gặp phải; những tổn hại mà người bệnh tâm thần phân liệt đem
đến cho người chăm sóc v.v. Một số ít nghiên cứu đi tìm hiểu kiến thức về bệnh tâm
thần phân liệt của người chăm sóc vẫn còn mang tính chung chung, hoặc chỉ đi tập
trung vào một số vấn đề như nhận thức về kiến thức chăm sóc v.v. Đó là lý do
chúng tôi lựa chọn đề tài này làm trọng tâm nghiên cứu.
1.2. Một số vấn đề lý luận nhận thức về tâm thần phân liệt
1.2.1. Lý luận về nhận thức
1.2.1.1. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá trình sống
và hoạt động con người nhận thức được hiện thực xung quanh, hiện thực của bản
thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động với thế giới xung quanh
và đối với chính bản thân mình.
Tác giả Nguyễn Khắc Viện, trong cuốn từ điển Tâm lý học, NXB Thế giới,
2001 đưa ra cách hiểu về nhận thức như sau: Nhận thức là quá trình hoặc kết quả
phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, nhận biết và hiểu biết thế giới
khách [16].Quá trình ấy diễn ra ở các mức độ:
-Kinh nghiệm hằng ngày về sự vật, hiện tượng và người khác, mang tính tự phát,
thường hỗn hợp và tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
- Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý thức
về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng, sai.
Trong cuốn từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng chủ biên, nhận thức là hiểu
được một điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết được
những quy luật về những hiện tượng quá trình nào đó [2].
Tác giả Phạm Minh Hạc xem nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời
sống tâm lý con người, hai mặt còn lại là tình cảm và hành động. Trong khi hoạt


18


động để tồn tại trong thế giới tự nhiên và môi trường xã hội, con người phải nhận
thức, phản ánh hiện thực xung quanh quanh và cả hiện thực của bản thân mình, để
trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. Trong việc nhận thức thế
giới, con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức khác nhau, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Kết quả nhận thức có thể cho ra sản phẩm là nhận thức
đúng hoặc nhận thức sai, nhận thức từng bộ phận hay nhận thức cái tổng thể, nhận
thức một phần hay nhận thức trọn vẹn sự vật hiện tượng, nhận thức thuộc tính bên
ngoài hay đi sâu vào bản chất bên trong, dẫn đường tìm ra quy luật và chân lý [14].
Như vậy, theo định nghĩa này cần xác định ba yếu tố:
+ Thứ nhất, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Nếu con người
có nhận thức tốt là quá trình phản ánh hiện thực khách quan đúng đắn, đầy đủ.
+ Thứ hai, nhận thức có mối quan hệ với tình cảm, thái độ. Tức là khi con người
nhận thức tốt sẽ chỉ đạo, định hướng, điều khiển tình cảm, và giúp con người tỏ thái
độ phù hợp.
+ Thứ ba, nhận thức có mối quan hệ với hành động. Nghĩa là nhận thức tốt sẽ làm
động lực thúc đẩy con người hành động và đạt kết quả tốt.
Tóm hợp những phân tích lý luận về định nghĩa nhận thức ở trên, trong
nghiên cứu của mình, chúng tôi hiểu khái niệm nhận thức như sau: Nhận thức là sự
hiểu biết của con người về sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan ở các
mức độ khác nhau, làm cơ sở,động lực thúc đẩy con người hành động.
1.2.1.2. Bản chất của nhận thức
* Nhận thức là quá trình tâm lý, phản ánh bản thân hiện thực khách quan
Ở con người, quá trình này thường gắn với mục đích nhất định nên nhận thức
con người là một hoạt động có chủ đích.
Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách
quan. Nó không chỉ phản ánh các thuộc tính bên ngoài mà còn phản ánh các thuộc
tính bên trong, các mối quan hệ có tính quy luật; không chỉ phản ánh hiện thực xung

quanh mà còn phản ánh hiện thực của bản thân ta; không chỉ phản ánh hiện tại mà
còn phản ánh cái đã qua và cái sẽ tới của hiện thực khách quan

19


Hoạt động nhận thức là cơ sở của mọi hoạt động tâm lý con người. Nhận
thức là hoạt động của chủ thể nhằm khám phá thế giới xung quanh, kết quả của hoạt
động này nhằm tìm ra chân lý hay về sự thật về những thuộc tính khách quan của sự
vật, hiện tượng cụ thể. Nhận thức đúng làm cơ sở cho tình cảm, ý chí, quan điểm,
lập trường, tư tưởng và hành động đúng.
Hoạt động nhận thức thể hiện những mức độ phản ánh khác nhau và mang lại
sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan.
*Nhận thức mang bản chất xã hội, lịch sử
Hoạt động nhận thức bao giờ cũng phải dựa vào tri thức đã có, dựa vào kinh
nghiệm của nhân loại đã tích lũy được, tức là dựa vào kết quả của hoạt động nhận
thức mà xã hội loài người đã đạt được ở trình độ phát triển lịch sử lúc đó.
Nhận thức phải sử dụng vốn từ ngữ do các thế hệ trước sáng tạo ra với tư cách là
phương tiện biểu đạt, khái quát và giữ gìn kết quả hoạt động nhận thức của loài
người.
Quá trình nhận thức được thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội, nghĩa là ý nghĩ của con
người được hướng vào giải quyết các vấn đề bức xúc do xã hội đặt ra.
Nhận thức của con người mang tính chất lịch sử bởi bề rộng của sự khái quát và
chiều sâu của việc phát triển ra bản chất của sự vật, hiện tượng được quy định
không chỉ do khả năng của cá nhân mà còn do kết quả của hoạt động nhận thức mà
loài người đã đạt được dựa vào kho tàng tri thức có liên quan vào trí tuệ nhân loại.
Như vậy, kiến thức của mỗi người được hình thành và phát triển trong quá trình
hoạt động nhận thức tích cực của bản thân họ. Nhận thức là sản phẩm của sự phát
triển xã hội - lịch sử.
1.2.1.3. Các mức độ của nhận thức

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong Tâm lý học về các mức độ của nhận
thức
Căn cứ vào tính chất phản ánh, các nhà Tâm lý học chia toàn bộ hoạt động nhận
thức thành nhiều mức độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ

20


nông đến sâu, từ hiểu biết chưa đầy đủ đến hiểu biết đầy đủ, từ nhận thức cảm tính
đến nhận thức lý tính.
*Mức độ nhận thức cảm tính
Là quá trình nhận thức đầu tiên, ở mức độ thấp nhất, sơ đẳng thấp nhất trong
toàn bộ hoạt động nhận thức của con người. Đặc điểm chủ yếu của nhận thức cảm
tính là chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài, cụ thể của sự vật hiện tượng đang
trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.
Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình là cảm giác và tri giác. Cảm giác là
hình thức phản ánh thấp nhất, khởi đầu, là định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế
giới. Trên cơ sở nảy sinh các cảm giác ban đầu mà có tri giác. Tri giác là hình thức
phản ánh cao hơn trong cùng bậc thang nhận thức cảm tính. Cảm giác và tri giác có
mối quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau trong mức độ nhận thức “trực quan sinh
động” thế giới.
Sản phẩm hoạt động nhận thức cảm tính là những hình ảnh cụ thể, trực quan về
thế giới, chứ chưa phải là những khái niệm và quy luật về thế giới. Mặc dù vậy,
nhận thức cảm tính có vai trò quan trọng trong đời sống tâm lý con người, nó cung
cấp nguyên liệu cho các hoạt động tâm lý cấp cao.
*Mức độ nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao hơn nhận thức cảm tính. Nhận thức
lý tính phản ánh những thuộc tính bên trong, những mối liên hệ bản chất của sự vật,
hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Nhận thức lý tính
bao gồm 2 mức độ: tư duy và tưởng tượng.

Đặc điểm chung của nhận thức lý tính: Thuộc thang nhận thức cao, có những
đặc điểm mới về chất so với nhận thức cảm tính. Đó là tính có vấn đề, tính khái quát
và tính gián tiếp. Trên thực tế, nhận thức lý tính chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn
cảnh, những tình huống bằng vốn hiểu biết cũ, bằng phương pháp hành động cũ đã
có, con người không thể giải quyết được. Để nhận thức, con người cần phải vượt ra
khỏi phạm vi những hiểu biết cũ và đi tìm những cái mới để đạt được mục đích mới.

21


Khác với nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính có khả năng đi sâu vào sự vật
hiện tượng nhằm vạch ra những thuộc tính chung, những mối quan hệ có tính quy
luật giữa chúng. Chính nhờ phản ánh cái khái quát, cái quy luật mà nhận thức lý
tính giúp con người không chỉ nhận biết được thế giới mà còn có khả năng tái tạo
thế giới. Đến mức độ nhận thức lý tính, con người nhận thức thế giới một cách gián
tiếp – nhận thức bằng ngôn ngữ. Nhờ phương tiện ngôn ngữ và khả năng phản ánh
khái quát, phản ánh gián tiếp thế giới mà con người có khả năng vạch ra các thuộc
tính bản chất, các mối liên hệ có tính quy luật, dự đoán được chiều hướng phát triển
và diễn biến của chúng để nhận thức và cải tạo chúng.
Nhận thức lý tính có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ. Bởi vì muốn phản ánh
được những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự
vật hiện tượng trong thế giới, muốn phản ánh gián tiếp thế giới thì nhận thức lý tính
của con người phải sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện. Có thể coi mối quan hệ giữa
nhận thức lý tính và ngôn ngữ như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Quá
trình nhận thức lý tính được diễn ra bằng cách chủ thể tiến hành những thao tác trí
tuệ như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa.
Nhận thức lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính. Nó là hai
mức độ khác nhau của quá trình nhận thức; chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, bổ sung cho nhau trong hoạt động của con người. Nhận thức cảm tính cung
cấp những thông tin ban đầu cho nhận thức lý tính, là cơ sở cho nhận thức cảm tính.

Nhận thức cảm tính và lý tính đều nảy sinh từ thực tiễn và lấy thực tiễn làm tiêu
chuẩn kiểm tra sự đúng đắn của nhận thức.
-

Quan điểm của B.S. Bloom về các mức độ nhận thức:

Cũng nghiên cứu các mức độ nhận thức, B.S.Bloom – nhà sư phạm người Mỹ,
năm 1956 ông và cộng sự biên soạn tài liệu: “Hệ phân loại các mục tiêu Sư phạm,
lĩnh vực nhận thức”. B.S.Bloom đưa ra ba khía cạnh đánh giá: nhận thức, thái độ,
hành vi. Ông chia nhận thức thành nhiều mức khác nhau, phân loại mục tiêu nhận
thức ra 6 mức độ từ thấp đến cao. Mỗi mức đặc trưng cho một hoạt động trí tuệ.

22


Mức 1: Biết (Knowledge): đưa vào trí nhớ và phục hồi lại thông tin của cùng một
đối tượng nhận thức, ghi nhớ, có thể nhắc lại các sự kiện, các định nghĩa, các khái
niệm, nội dung các định luật…
Mức 2: Hiểu (Comprehension): có thể thuyết minh, giải thích, chứng minh những
kiến thức đã lĩnh hội (phục hổi ngữ nghĩa thông tin trong những đối tượng khác
nhau, thiết lập liên hệ ở những đối tượng khác nhau)
Mức 3: Vận dụng (Application) có thể áp dụng kiến thức vào những tình huống
mới, khác với trong bài học (sử dụng các quy tắc, những nguyên tắc, những phác đồ
giải quyết mọi vấn đề nào đó)
Mức 4: Phân tích (Analysis) biết phân chia một toàn thể thành các bộ phận, một vấn
đề lớn thành các vấn đề nhỏ, làm sáng tỏ các mối quan hệ giữa các bộ phận (đồng
nhất những bộ phận tạo nên cái tổng thể, từ đó phân biệt các ý tưởng trong đối
tượng đó)
Mức 5: Tổng hợp (Synthesis) biết sắp xếp các bộ phận thành toàn thể thống nhất,
ghép các vấn đề nhỏ thành các vấn đề lớn hơn, tạo thành một tổng thể mới liên kết

mới liên tất cả các bộ phận tạo nên tổng thể).
Mức 6: Đánh giá (Evaluation) có thể nhận định, phán đoán về giá trị, ý nghĩa của
mỗi kiến thức (tạo thành những phán đoán về số lượng cũng như chất lượng thao
tác tạo nên chất lượng của trí tuệ)
Từ sự phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài này chúng tôi lựa chọn việc
phân chia các mức độ nhận thức theo quan điểm của B.S.Bloom làm cơ sở để
nghiên cứu về thực trạng nhận thức của người chăm sóc về bệnh tâm thần phân liệt.
Tuy nhiên chúng tôi chỉ nghiên cứu thực trạng nhận thức của người chăm sóc về
bệnh tâm thần phân liệt ở 3 cấp độ là Biết; hiểu và vận dụng
1.2.1.4. Tiêu chí đánh giá nhận thức về bệnh tâm thần phân liệt của người chăm sóc
(1) Biết: Người chăm sóc có thể đưa ra được những kiến thức cơ bản về bệnh tâm
thần phân liệt như bản chất của bệnh; các yếu tố liên quan đến sự phát triển của
bệnh; triệu chứng của bệnh; chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt; điều trị bệnh
tâm thần phân liệt

23


(2) Vận dụng: Người chăm sóc có thể hiểu được các kiến thức cơ bản về bệnh tâm
thần phân liệt từ đó đưa ra những đánh giá với những khẳng định sai về bệnh tâm
thần phân liệt
(3) Thực hành: Người chăm sóc có thể vận dụng những kiến thức mà mình có vào
quá trình chăm sóc và điều trị bệnh nhân.
1.2.2. Lý luận về bệnh tâm thần phân liệt
1.2.2.1. Khái niệm bệnh tâm thần phân liệt
Có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về bệnh tâm thần phân liệt.
Nhưng tựu chung lại thì có những cách hiểu thông thường về bệnh tâm thần phân
liệt như sau:
Trong cuốn bệnh tâm thần phân liệt của Bùi Quang Huy, ông cũng đưa ra
khái niệm tương tự: Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng và phổ biến, căn

nguyên chưa rõ ràng. Bệnh làm biến đổi người bệnh theo kiểu phân liệt: Người
bệnh tách khỏi cộng đồng, thu dần vào thế giới bên trong làm cho tình cảm của họ
khô lạnh. Khả năng làm việc của bệnh nhân ngày càng sút kém và có những hành vi
lập dị, khó hiểu [5]
Một định nghĩa khác cho rằng: Tâm thần phân liệt là tình trạng não bộ bị rối
loạn nghiêm trọng, người bị bệnh sẽ đối diện với thực tại một cách bất thường. Tâm
thần phân liệt có thể dẫn đến sự kết hợp của ảo giác, hoang tưởng, tư duy và hành vi
vô cùng mất trật tự. Trái lại với những gì mọi người nghĩ, tâm thần phân liệt không
phải là một nhân cách hoặc đa nhân cách. Từ “tâm thần phân liệt” có nghĩa là “chia
tâm”, đề cập đến sự gián đoạn đến tình trạng cân bằng trong cảm xúc và suy nghĩ
bình thường. Tâm thần phân liệt là bệnh mãn tính, đòi hỏi phải điều trị suốt đời [4].
Theo quan niệm tâm thần phân liệt là một đơn vị bệnh lý độc lập, người ta có
thể định nghĩa như sau: Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng và phổ biến,
căn nguyên chưa rõ, bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư
duy, tri giác và cảm xúc dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm lý và nhân cách theo
kiểu phân liệt, nghĩa là mất dần tính hài hòa, thống nhất gây ra chia cắt trong các
mặt hoạt động tâm thần [13].

24


Tác giả Cao Tiến Đức (2015) cho rằng tâm thần phân liệt là một rối loạn tâm
thần nặng, khá phổ biến, có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư
duy, tri giác và cảm xúc, dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm thần và nhân cách
theo kiểu phân liệt, nghĩa là mất dần tính hài hoà thống nhất giữa các hoạt động tâm
thần, gây chia cắt rời rạc các mặt hoạt động tâm thần. Trong tiếng Anh, chữ
Schizophrenia bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: "schizo" có nghĩa là chia tách, phân rời
và "phrenia" có nghĩa là tâm hồn, tâm thần [3].
Ngày nay một số các nhà tâm thần học trên thế giới lại cho rằng tâm thần
phân liệt là một nhóm bệnh lý hay một nhóm các hội chứng phân liệt.

R.Been (2001) cho rằng: tâm thần phân liệt là các rối loạn đặc trưng bởi các
rối loạn tư duy, cảm xúc và hành vi bao gồm những triệu chứng dương tính và âm
tính. Các triệu chứng dương tính như: hoang tưởng, ảo giác, căng trương lực…Các
triệu chứng âm tính như: cảm xúc cùn mòn, thu mình lại, giảm cảm giác thích thú
và ngôn ngữ nghèo nàn [13]
Theo bảng phân loại thống kê Quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏa có
liên quan phiên bản lần thứ 10 (ICD-10), định nghĩa “Tâm thần phân liệt là một
bệnh loạn thần nặng, tiến triển từ từ, có khuynh hướng mãn tính, căn nguyên hiện
nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần
vào thế giới bên trong, làm cho tình cảm trở nên khô lạnh, khả năng học tập, làm
việc ngày một sút kém, có những hành vi, ý nghĩ kỳ dị, khó hiểu” [13]
Theo DSM-5, rối loạn phổ tâm thần phân liệt hay các rối loạn tâm thần khác
bao gồm tâm thần phần liệt, rối loạn tâm thần khác và chứng rối loạn tâm trạng
được xác định bởi những bất thường, bao gồm 1 hoặc nhiều lĩnh vực trong 5 lĩnh
vực sau: Các hoang tưởng; các ảo giác; ngôn ngữ thanh xuân; hành vi thanh xuân
hoặc hành vi căng trương lực; các triệu chứng âm tính [17]
Qua các định nghĩa về tâm thần phân liệt, trong đề tài nghiên cứu này, chúng
tôi hiểu: “Tâm thần phân liệt là một bệnh tâm thần nặng, phổ biến và căn nguyên
chưa rõ ràng. Bệnh có xu hướng tiến triển mãn tính và gây ra những rối loạn trong
các mặt hoạt động tâm thần như tư duy, tri giác, cảm xúc, trí nhớ, nhân cách”

25


×