Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tiểu luận về nông nghiệp chất lượng cao và áp dụng cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.46 KB, 45 trang )

Mục lục
MỞ ĐẦU

......................................................................................1

NỘI DUNG

....................................................................................1

I. Khái quát về nền nông nghiệp chất lượng cao ..................................................................1
1) Định nghĩa về nền nông nghiệp chất lượng cao ........................................................1
2) Đặc điểm của nền nông nghiệp chất lượng cao .........................................................2
3) Vai trò của nền nông nghiệp chất lượng cao ..............................................................3
3.1) Đảm bảo an ninh lương thực ............................................................................3
3.2) Tăng sức cạnh tranh cho hàng nông sản trên thị trường ...................................4
3.3) Nông nghiệp chất lượng cao gắn với phát triển bền vững ................................6
4) Một số nền nông nghiệp chất lượng cao trên thế giới ...............................................6
4.1) Nền nông nghiệp Israel .. .................................................................................7
4.2) Nền nông nghiệp Mỹ …… ...............................................................................9
4.3) Nền nông nghiệp Nhật Bản .............................................................................10
II. Nền nông nghiệp VIỆT NAM .......................................................................................12
1) Vai trò nông nghiệp với nền kinh tế Việt Nam ........................................................12
1.1) Nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng
năm của Việt Nam ..................................................................................................12
1.2) Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến .........14
1.3) Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước, đảm
bảo an ninh lương thực ..........................................................................................15
1.4) Nông nghiệp tạo việc làm cho bộ phận lớn lực lượng lao động Việt Nam .....15
1.5) Xuất khẩu lao động làm tăng ngoại tệ và tăng thu ngân sách nhà nước ….....16
2) Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam ....................................................................16
2.1) Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam trước khi gia nhập WTO17


2.2) Thực trạng nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO ............................17
3) Tiềm năng phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao ở Việt Nam: .......................18
3.1) Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý .......................................................................18
3.2) Điều kiện chính trị …........... .......................................................................... 19
3.3) Nguồn lao động trong nông nghiệp: ...............................................................19
3.4) Tiến bộ khoa học kĩ thuật áp dụng trong những năm gần đây........................ 20
4) Điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam- thách thức khi phát triển nền nông nghiệp
chất lượng cao: .............................................................................................................21
4.1) Cơ cấu cây trồng bất cân đối: .........................................................................21


4.2) Mặt xấu của nguồn nhân lực ở nông thôn : ....................................................21
4.3) Các khó khăn thách thức khác: .......................................................................22
III. Giải pháp phát triển nông nghiệp chất lượng cao ở Việt Nam .....................................22
1) Nhu cầu tất yếu phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao ....................................22
2) Bài học từ các quốc gia khác trên thế giới ...............................................................27
2.1) Tích cực …………………………… ..............................................................27
2.2) Tiêu cực …………………………... ..............................................................30
3) Định hướng của nền nông nghiệp Việt Nam ...........................................................31
3.1) Mục tiêu ……………………………..............................................................31
3.2) Định hướng …………………….. ..................................................................32
KẾT LUẬN

.................................................................................39

TÀI LIỆU THAM KHẢO

..................................................................40



MỞ ĐẦU
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang hướng tới việc phát triển
nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Bên cạnh các quốc gia vẫn
giữ hướng phát triển nông nghiệp truyền thống, đã có không ít quốc gia bắt đầu
tiếp cận với nền nông nghiệp chất lượng cao để nâng cao hiệu quả nông nghiệp.
“ Nông nghiệp chất lượng cao” không còn là một khái niệm mới me với nhiều
nước trên thế giới như Mỹ, Israel, Nhật Bản.... Tuy nhiên đới với Việt Nam việc
phát triển nền nông nghiệp theo hướng này vẫn chỉ đang ở những bước đầu. Nước
ta vẫn khá quen với những nền nông nghiệp thâm canh với quy mô nhỏ lẻ, thiếu
tập trung. Đó cũng là lý do nền nông nghiệp Việt Nam vẫn còn chiếm tỉ trọng nhỏ
trong cơ cấu kinh tế (Về cơ cấu nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 18,12%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%; khu vực
dịch vụ chiếm 43,38% - năm 2014). Hơn nữa, chất lượng nông sản của nước ta vẫn
chưa được đánh giá cao trên thị trường thế giới. Số lượng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam vẫn chưa nhiều. Đặc biệt, nông sản nước ta vẫn chỉ thâm nhập thị trường nước
ngoài với chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của
nhiều nước trên thế giới. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến cho Việt
Nam nên áp dụng nền nông nghiệp chất lượng cao vào sản xuất. Việc áp dụng nông
nghiệp chất lượng cao là phương pháp hiệu quả giúp nâng cao chất lượng nông sản cả
trong nước và xuất khẩu. Phát triển nông nghiệp theo hướng chất lượng cao là một
vấn đề cần thiết đối với nền nông nghiệp Việt Nam nói riêng và cả nền kinh tế nói
chung.
Muốn vậy trước hết chúng ta cần có cái nhìn cụ thể, chính xác về “nông nghiệp chất
lượng cao”. Đồng thời phải thấy được những tiềm năng để phát triển nông nghiệp.
Nâng cao chất lượng nông nghiệp cần được thực hiện một cách có hệ thống, tổ chức.
Bài tiểu luận sẽ góp phần đưa ra cái khái niệm cụ thể hơn về nền nông nghiệp chất
lượng cao. Sau đó đưa ra bức tranh về nền nông nghiệp chất lượng cao của một số
quốc gia tiêu biểu trên thế giới như Mỹ, Israel, Nhật Bản.... Bên cạnh đó còn chỉ ra
những tiềm năng cũng như hạn chế của Việt Nam trong việc phát triển nông nghiệp
chất lượng cao. Quan trọng hơn sẽ đưa ra một số giải pháp để giải quyết cũng như

thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Nông nghiệp chất lượng cao có vai trò rất lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp cũng như nâng cao chất lượng nông nghiệp. Đây chính là bước thúc đẩy Việt
Nam trở thành một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới.
NỘI DUNG
1)

I.
Khái quát về nền nông nghiệp chất lượng cao
Định nghĩa về nền nông nghiệp chất lượng cao
Nông nghiệp chất lượng cao là nền nông nghiệp phát triển với những phương thức
tổ chức sản xuất tiến bộ đáp ứng với yêu cầu về quy mô sản xuất mang tính hàng
hoá, tập trung, chuyên canh cao. Các phương thức tổ chức sản xuất thích hợp là
trangj trại, gia trại… có quy mô lớn; hoặc có thể các nông hộ được tổ chức liên kết

3


2)

sản xuất (các hợp tác xã kiểu mới)… nhằm hình thành các vùng chuyên canh, tập
trung.
Đặc điểm của nền nông nghiệp chất lượng cao
-Sản phẩm chất lượng cao phải có ưu thế nổi trội về phẩm chất (như hương vị,
mẫu mã, độ đồng đều, thành phần dinh dưỡng…)
- Sản phẩm mang tính độc đáo cao, giàu lợi thế so sánh trong cạnh tranh nhờ
những yếu tố giới hạn về phạm vi và qui mô phát triển như điều kiện sinh thái, kỹ
thuật thâm canh, phẩm chất giống…. Những sản phẩm này được coi như những
“đặc sản” và luôn được ưa chuộng cao trên thị trường tiêu thụ.
- Sản phẩm chất lượng cao đòi hỏi đáp ứng các chỉ tiêu về an toàn thực phẩm nhờ

được sản xuất theo các qui trình kỹ thuật và công nghệ tiến bộ, hiện đại được quản
lý và xác nhận chất lượng ở phạm vi quốc gia và quốc tế
- Nhiều nước trên thế giới hiện áp dụng các chỉ tiêu của qui trình “Sản xuất nông
nghiệp tốt (GAP)” để xác nhận chất lượng nông sản đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm và xuất xứ của sản phẩm. Tại Việt Nam hiện cũng đang thúc đẩy phát triển
nông sản sản xuất theo qui trình GAP với các tiêu chuẩn Viet GAP và Global GAP
nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm an toàn, sạch ngày càng cao của thị
trường nội tiêu cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia vào thị trưòng
xuất khấu một cách hiệu quả, đặc biệt với những thị trưòng khó tính nhưng giàu
tiềm năng kim ngạch như các quốc gia Bắc Mỹ, EU, Úc v.v…
Như vậy, sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao cần hội đủ các yếu tố cả về phẩm
chất lẫn về tiêu chuẩn sạch, an toàn cho người tiêu dùng. Đây là những yếu tố
mang lại lợi thế cạnh tranh cao cho nông sản chất lượng cao trên thị trường tiêu
thụ thông thường cũng như những thị trường khắt khe, khó tính.
Nông nghiệp chất lượng cao phát triển cơ bản dựa trên kỹ thuật sản xuất thâm
canh, ứng dụng hiệu quả các tiến bộ khoa học - công nghệ, trong đó nông nghiệp
công nghệ cao ngày càng khẳng định vai trò động lực thúc đẩy quá trính phát triển
nông nghiệp cả về lượng lẫn về chất
Ứng dụng công nghệ cao trong nông - lâm - ngư nghiệp là áp dụng một cách hợp
lý các kỹ thuật tiên tiến nhất trong chọn tạo giống mới, chăm sóc nuôi dưỡng cây,
con bằng hệ thống thiết bị tự động, điều khiển từ xa, chế biến phân bón vi sinh cho
cây trồng, thức ăn chăn nuôi (gồm cả thuỷ sản), thuốc thú y, bảo vệ thực vật, công
nghệ tự động trong thuỷ lợi, công nghệ sau thu hoạch và chế biến nông - thuỷ sản,
công nghệ xử lý chất thải bảo vệ môi trường… Trong đó, công nghệ sinh học giữ
vai trò chủ đạo trong việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp đã đem lại những bước phát triển
đột phá với những ưu thế trong sản xuất. Cụ thể như hàng loạt giống mới được tạo
ra với những ưu thế về năng suất, chất lượng kháng sâu bệnh, chịu hạn, chịu
mặn… mang lại hiệu quả cao trong sản xuất , phương pháp canh tác hữu cơ sau
bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm, kỹ thuật canh tác trong nhà kính (có hệ thống

điều khiển tự động hoặc bán tự động đối với các yếu tố nhiệt, ẩm, ánh sáng, phân
bón, nước tưới…) giảm bớt sự lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Đồng thời, việc sử

4


dụng các vật liệu mới như nilon che phủ để chống cỏ dại, giữ ẩm đất, có thể tự
phân huỷ khi cây lớn, sử dụng các phế liệu nông nghiệp như trấu, mùn cưa… làm
giá thể trồng cây đảm bảo vô trùng, thoáng khí, giữ ẩm tốt, tự động hoá, cơ giới
hoá trong quá trình sản xuất, vận chuyển sản phẩm, chăm sóc, thu hoạch, bảo
quản, chế biến nông sản…
Nông nghiệp chất lượng cao là nền nông nghiệp phát triển với những phương thức
tổ chức sản xuất tiến bộ đáp ứng với yêu cầu về qui mô sản xuất mang tính hàng
hoá, tập trung, chuyên canh cao
Các phương thức tổ chức sản xuất thích hợp là trang trại, gia trại… có qui mô lớn;
hoặc có thể các nông hộ được tổ chức liên kết sản xuất ( các hợp tác xã kiểu mới)
… nhằm hình thành các vùng chuyên canh, tập trung. Như vậy, nền nông nghiệp
hàng hoá chất lượng cao cần được phát triển có định hướng và được tổ chức sản
xuất với những phưong thức phù hợp, đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả của qui mô
sản xuất, năng lực đầu tư đồng thời phát huy tính năng động trong quá trình phát
triển.
3)
Vai trò của nền nông nghiệp chất lượng cao
3.1) Đảm bảo an ninh lương thực
Nền nông nghiệp chất lượngcao giúp đảm bảo an ninh lương thực cho các quốc gia. Vấn đề an
ninh lương thực luôn là một vấn đề đáng quan tâm của hầu hết các nước trên thế giới. Để đảm
bảo điều này cần đến sự phối hợp của nhiều biện pháp, bao gồm: chính sách, cán cân xuất
nhập khẩu và đặc biệt là việc phát triển nông nghiệp lương thực ở quốc gia. Ngày nay, các
nước đang dần tiến đến việc sản xuất lương thực nhằm mục đích xuất khâu. Trước hết cần
đảm bảo nguồn lương thực dự trữ trong nước. Phát triển nông nghiệp chất lượng cao sẽ là một

bước tiến quan trọng trong ván đề đảm bảo an ninh lương thực.
Nghiên cứu của các nhà khoa học 13 nước hàng đầu thế giới vừa được công bố ở London
(Anh) cũng khẳng định vai trò và trách nhiệm của khoa học trong việc ngăn chặn khủng
hoảng môi trường, đảm bảo cung cấp lương thực chất lượng và giảm tác động của biến đổi
khí hậu. Trong khi 12 triệu hécta đất nông nghiệp bị suy thoái hàng năm, các sự kiện thời tiết
cực đoan đã gây tổn thất nông nghiệp toàn cầu tới 11,4 tỷ USD trong năm 2011. Khoảng 1,3
tỷ tấn lương thực hàng năm, chiếm 1/3 sản lượng lương thực để nuôi sống con người trên toàn
cầu, đang bị tổn thất hoặc bị lãng phí.
Thách thức trong vài thập kỷ tới là hòa nhập khoa học vào cuộc chiến tăng sản xuất lương
thực mà không gây tổn hại môi trường; đồng thời giảm tổn thất lương thực sau thu hoạch, góp
phần tăng cường an ninh lương thực toàn cầu.
Các chuyên gia Liên hợp quốc và các nhà khoa học quốc tế cũng nhấn mạnh trách nhiệm của
khoa học trong bối cảnh 1,4 tỷ người trên thế giới đang sống dưới mức nghèo khổ và 2 tỷ
người đang sống ở các khu vực khô hạn. Trong 4,9 tỷ hécta đất nông nghiệp trên thế giới, có
tới 3,7 tỷ hécta đang được sử dụng để chăn thả và trồng các loại cây làm thức ăn cho gia súc.
Chính vì thế vấn đề nông nghiệp chất lượng cao có vai trò thúc đẩy sản lượng lương thực, từ
đó đảm bảo cân bằng lương thực quốc gia. Hiệun nay vấn đề biến đổi khí hậu đang trở thành
vấn đề nóng của toàn cầu. Một nghiên cứu mới bao gồm các nhà nghiên cứu đến từ MIT
(Viện công nghệ Massachusetts - Massachusetts Institute of Technology) đã chứng minh
những mối tương tác nói trên có thể khá quan trọng, cho thấy những người làm chính sách

5


cần đưa cả hai yếu tố: ấm lên toàn cầu và ô nhiễm không khí vào để tính toán khi tìm cách
giải quyết vấn đề an ninh lương thực.
Nghiên cứu này đã xem xét chi tiết sản lượng toàn cầu của 4 loại cây lương thực hàng đầu
gồm: lúa gạo, lúa mì, ngô và đậu tương – chiếm hơn một nửa lượng calo tiêu thụ của con
người trên toàn cầu. Nghiên cứu dự đoán các ảnh hưởng sẽ thay đổi rất đáng kể giữa các vùng
khác nhau, và một số loại cây lương thực bị tác động mạnh hơn so với loại cây lương thực

khác hoặc bị tác động mạnh hơn bởi các yếu tố khác: Ví dụ, lúa mì rất nhạy cảm với tiếp xúc
ozone, trong khi đó ngô lại bị tác động bất lợi nhiều hơn do nhiệt độ.
Nông nghiệp chất lượng cao sẽ giúp tăng năng suất đồng thời với các chính sách phát triển
xanh sẽ giúp giảm thiểu ảnh hưởng của môi trường đối với nông nghiệp.
Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới sẽ đạt 9 tỉ người vào năm 2050. Cùng với
sự gia tăng dân số, thế giới còn phải đối mặt với vấn đề biến đổi khí hậu, nhiên liệu hóa thạch
tăng giá, hệ sinh thái suy thoái cũng như tình trạng khan hiếm đất và nước – tất cả đang khiến
các phương thức sản xuất lương thực hiện hành không còn bền vững. Trước những thách thức
này, sự cải tiến về công nghệ sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng.
Trang công nghệ TechNewsWorld của Mỹ có bài giới thiệu về nông nghiệp đô thị. Nông
nghiệp đô thị là mô hình trồng trọt và chăn nuôi bên trong và xung quanh thành phố. Nó đồng
nghĩa với việc sản xuất lương thực ngay tại các khu vực dân cư đông đúc, với nhiều loại hình
khác nhau như vườn rau tự nhiên, vườn rau trong nhà lưới (ngăn sâu hại xâm nhập) và canh
tác nông nghiệp trong môi trường có kiểm soát (CEA).
CEA là một công nghệ trồng trọt tiên tiến, kết hợp giữa kỹ thuật, khoa học cây trồng và những
công nghệ quản lý dựa trên máy tính nhằm tối ưu hóa các hệ thống canh tác, chất lượng cây
trồng cũng như hiệu quả sản xuất. Theo đó, nó cho phép nhà nông điều chỉnh các yếu tố môi
trường theo ý muốn, bao gồm nhiệt độ, ẩm độ, độ pH và hàm lượng dinh dưỡng trong đất. Mô
hình trồng trọt này cho phép chuyển đổi các nhà máy, nhà kho, tòa nhà bị bỏ hoang thành các
trang trại hữu dụng.
Với CEA, nhà nông kết hợp mô hình nuôi thủy sản với mô hình thủy canh (trồng cây trong
nước) nhằm tạo ra hệ thống thủy canh tích hợp sinh học. Đây là một hệ thống sản xuất lương
thực bền vững, kết hợp hài hòa giữa trồng các loại rau quả với nuôi thủy sản trong một môi
trường cộng sinh, tuần hoàn và khép kín. Không chỉ ứng dụng vào trồng trọt trong nhà, CEA
còn được các trường đại học hoặc công ty sử dụng vào việc nghiên cứu những thay đổi của
môi trường đối với cây trồng, chẳng hạn như nghiên cứu sự quang hợp khi so sánh một cây
được trồng dưới ánh sáng cảm ứng và một cây được trồng với ánh đèn LED.
Như vậy nông nghiệp chất lượng cao có một vị trí quan trọng trong việc đảm bảo an ninh
lương thực trước những thách thức về môi trường và dân số thế giới. Nông nghiệp chất lượng
cao sẽ là bước đệm đảm bảo nguồn lương thực dự trữ cũng như cung ứng cho xuất khẩu của

quốc gia. Vì thế cần phải chú trọng phát triển nông nghiệp chất lượng cao để đảm bảo an ninh
lương thực thế giới cả ở hiện tại và tương lai.
3.2) Tăng sức cạnh tranh cho hàng nông sản trên thị trường
Sản phẩm nông nghiệp ngày càng gặp phải nhiều rào cản thương mại do các nước
nhập khẩu dựng lên dưới hình thức chống bán phá giá, chống trợ cấp, nhằm khống
chế thị phần, bảo hộ cho sản xuất trong nước. Những rào cản kể trên đã trực tiếp
tác động làm giảm tính cạnh tranh công bằng của hàng nông sản các nước trên thị
trường thế giới.

6


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao sức cạnh tranh hàng nông
sản, đặc biệt là ở các nước nông nghiệp là việc làm vừa cấp bách, vừa lâu dài phải
gắn liền trong tổng thể chiến lược xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn.
Có thể thấy rõ vai trò quan trọng của nền nông nghiệp chất lượng cao trong lộ
trình nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản:
Xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao đi liền với cải tạo, phát triển các loại
giống có năng suất cao và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất
sẽ tạo sức mạnh cung cấp cho thị trường những lô hàng nông sản lớn. Thực hiện
cơ giới hóa, hiện đại hóa, xây dựng vùng nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến và
thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã cổ phần
nông nghiệp, qua đó hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp. Có
chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào
nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Đầu tư mạnh cho nghiên cứu
khoa học (giống cây trồng và vật nuôi, kể cả những giống có gien chuyển đổi thích
nghi với điều kiện canh tác khắc nghiệt của nông dân vùng sâu, vùng xa); công
nghệ sau thu hoạch. Những biện pháp này được thực hiện sẽ giúp tăng năng suất

và nâng cao chất lượng sản phẩm, là yếu tố quan trọng trước hết để hàng nông sản
có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao đòi hỏi thực hiện đánh giá cụ thể, chọn
lọc các mặt hàng nông sản có khả năng cạnh tranh để chú trọng phát triển cũng
như có biện pháp khắc phục những yếu kém của những mặt hàng còn hạn chế về
khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong đó, chú trọng các giải pháp đồng bộ về
kỹ thuật và kinh tế làm cho sản phẩm thích ứng với thị trường. Xác định rõ chủng
loại và thị trường xuất khẩu chủ yếu, bảo đảm giống tốt cho cây trồng xuất khẩu.
Xây dựng một danh mục hàng hóa nông sản cho xuất khẩu. Lựa chọn những loại
đặc sản thị trường thế giới đang có nhu cầu lớn, dễ trồng mà các nước trong khu
vực không có hoặc chưa chú ý sản xuất nhằm giảm bớt áp lực cạnh tranh, áp dụng
khoa học - kỹ thuật để tăng tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm. Ðối với các sản phẩm
chế biến cần lựa chọn loại sản phẩm xuất khẩu vào thị trường nào tương đối rộng
rãi và chế biến thành nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Nền nông nghiệp chất lượng cao gắn liền với việc xây dựng và phát triển thương
hiệu cho các mặt hàng nông sản. Việc xây dựng thương hiệu không khó, cái khó là
làm sao phát triển và giữ vững được thương hiệu sau khi đã xây dựng. Muốn vậy,
điều quan trọng nhất là phải bảo đảm chất lượng của nông sản đúng theo yêu cầu
của người tiêu dùng và của thị trường. Việc hình thành các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh hàng nông sản có quy mô lớn, tăng cường xây dựng các chuỗi cung
ứng nông sản... sẽ là cơ sở ban đầu để hình thành các thương hiệu mạnh của các
doanh nghiệp và nông sản trên thị trường thế giới.
Kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thông tin thị
trường từ Trung ương đến các địa phương; thành lập các điểm thông tin thị trường
ở các vùng chuyên canh có tỷ suất hàng hóa lớn; phối hợp hoạt động của các điểm
thông tin với hoạt động của các tổ chức khuyến nông, các câu lạc bộ, các hiệp hội
ngành hàng và doanh nghiệp; tăng cường việc theo dõi, nghiên cứu thị trường
quốc tế, thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và nông dân; duy trì và phát triển
các trang điện tử trên mạng Internet về nông sản và các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh hàng nông sản; đặt vấn đề với các tổ chức quốc tế, đề nghị trợ giúp kỹ

thuật xây dựng thí điểm sàn giao dịch nông sản và nâng cao năng lực xúc tiến
thương mại đối với hàng nông sản; có chính sách khuyến khích các địa phương,
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng nông sản tham gia các hội chợ nông

7


sản trong nước và quốc tế, xây dựng các trung tâm giao dịch và giới thiệu sản
phẩm nông nghiệp ở nước ngoài… cũng là những nhiệm vụ đặt ra để xây dựng nền
nông nghiệp chất lượng cao và nâng cao sức cạnh tranh cho các mặt hàng nông
sản.
Ngoài ra, vai trò của Nhà nước đối với phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao
cũng vô cùng quan trọng trong, thể hiện qua các chính sách hỗ trợ nhằm xóa đói
giảm nghèo và giúp đỡ nông dân trong phát triển sản xuất nông sản có quy mô lớn,
sản xuất theo quy hoạch; thực hiện hợp đồng bán sản phẩm cho doanh nghiệp chế
biến và xuất khẩu; chính sách hỗ trợ nông dân mua sắm trang thiết bị phục vụ sản
xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản... nhằm nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, với sự hợp tác, nỗ lực từ nhiều phía là
cơ sở để xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao, từ đó nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa nông sản góp phần xây dựng nền nông nghiệp ở các nước sớm đi lên
sản xuất hàng hóa lớn và có thương hiệu quốc gia mạnh trên thị trường nông sản
thế giới.
3.3) Nông nghiệp chất lượng cao gắn với phát triển bền vững
Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Khái niệm về phát
triển bền vững được đưa ra với sự động thuận cao của các quốc gia trên thế giới là:
“Phát triển bền vững là quá trình có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hai hoà giữa 3
mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường”
Phát triển nông nghiệp bền vững là một cấu thành quan trọng của phát triển bền

vững. Phát triển nông nghiệp bền vững được hiểu một cách khái quát là: nâng cao
chất lượng môi trường và nguồn lực được dùng trong nông nghiệp nhằm thoả mãn
nhu cầu nông sản cho con người và nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp, đảm bảo
khả thi về kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống cho nông dân và ngông
thông trong dài hạn.
Nền nông nghiệp chất lượng cao gắn với phát triển bền vững là nền nông nghiệp
phát triển trên cơ sở thâm canh cao nên nông nghiệp chất lượng cao cũng được xác
định như một giải pháp đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững khi đồng thời hướng
tới các mục tiêu hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Một số loại
hình sản xuất của nông nghiệp chất lượng cao như: nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, canh tác sinh học - canh tác sinh thái… đều chú
trọng không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi mà còn đảm
bảo để hệ môi trường sinh thái được cải thiện, bảo vệ một cách tích cực.
Tại Việt Nam, trong những giai đoạn vừa qua, quá trình công nghiệp hoá, đô thị
hoá đang diễn ra mạnh mẽ, tạo nên áp lực ngày càng cao trong khai thác, sử dung
các nguồn tìa nguyên, đặc biệt tài nguyên đất, nước…. Trong bối cảnh đó, nông
nghiệp chất lượng cao là yêu cầu phát triển tất yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất và giảm thiểu các áp lực trong khai thác sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái.
4)
Một số nền nông nghiệp chất lượng cao trên thế giới
4.1) Nền nông nghiệp Israel

8


Nền nông nghiệp Israel phát triển ở trình độ cao. Bất chấp điều kiện địa lý không
thích hợp cho nông nghiệp, Israel là một nhà xuất khẩu lớn của thế giới về nông
sản và đứng hàng đầu về công nghệ trong nông nghiệp. Hơn một nửa diện tích đất
là sa mạc, điều kiện khí hậu khắc nghiệt và thiếu nước hoàn toàn không thích hợp

cho nông nghiệp. Tính đến năm 2014, 24,2% diện tích Israel là đất nông nghiệp.
Hiện nay, nông nghiệp chiếm 2,5% tổng GDP và 3,6% giá trị xuất khẩu. Mặc dù
lao động trong nông nghiệp chỉ chiếm 3,7% tổng lực lượng lao động trong nước,
Israel tự sản xuất được 95% nhu cầu thực phẩm, phần còn lại được bổ sung từ việc
nhập khẩu ngũ cốc, các loại hạt lấy dầu, thịt, cà phê, ca cao, đường.


Thành tựu của nền nông nghiệp:
Hình thức tổ chức nông nghiệp:
Phần lớn nông nghiệp của Israel được tổ chức theo hình thức hợp tác xã, hình
thành từ các thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Thúc đẩy bởi cả ý tưởng và hoàn cảnh thực
tế, các nhà tiên phong đã tạo ra hai hình thức nông nghiệp mới: kibbuttz, một cộng
đồng tập thể với phương tiện sản xuất chung và mỗi thành viên được hưởng lợi ích
từ công việc của chính mình, và moshav, kiểu hợp tác xã của làng trong đó mỗi
thành viên sử dụng đất của mình để sản xuất, nhưng đầu vào và đầu ra (kể cả
marketing) được thực hiện tập thể, theo một đầu mối. Cả hai hình thức lao động
tập thể này đều được tạo ra để hiện thực hóa giấc mơ cộng đồng nông nghiệp dựa
trên bình đẳng xã hội, hợp tác và tương trợ lẫn nhau. Ngày nay, sản lượng nông
nghiệp của các hợp tác xã này vẫn chiếm đa số áp đảo trong sản xuất nông nghiệp,
kể cả phục vụ thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.



Quản lý đất đai
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ và được tận dụng triệt để. Nhà
ở của dân thì xây trên các triền núi đá, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho
trồng trọt và canh tác. Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất
hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Có thể hiểu đơn giản quy trình
này như sau: San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là
1/2 m; Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để

biến đất chết thành đất màu. Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành
đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Do vậy, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được
diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.



Đầu tư R&D và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Các ứng dụng R&D có định hướng trong nông nghiệp đã được tiến hành tại Israel
từ đầu thế kỷ 20. Lĩnh vực nông nghiệp hiện nay của nước này hầu như gắn chặt
với khoa học và công nghệ, với các tổ chức Chính phủ, các viện nghiên cứu, công
nghiệp và hợp tác xã. Tất cả phối hợp với nhau nhằm tìm kiếm các giải pháp để
giải quyết các vấn đề trong nông nghiệp mà nước này gặp phải. Đối mặt với hàng
loạt các vấn đề, từ giống di truyền, kiểm soát bệnh dịch tới canh tác trên đất cằn,
R&D trong nông nghiệp của Israel đã phát triển các công nghệ để tạo ra sự biến
chuyển ngoạn mục không chỉ trong số lượng mà cả chất lượng các sản phẩm nông
nghiệp của đất nước. Các phát kiến nổi tiếng của Isreal được ứng dụng rộng rãi

9


trong hoạt động nông nghiệp có thể kể đến như: công nghệ tưới nhỏ giọt, kén tồn
trữ lương thực, kiểm soát côn trùng theo phương pháp sinh học, công nghệ chăn
nuôi bò sữa công nghiệp, sản xuất thực phẩm từ khí nhà kính… Chìa khóa của
thành công này là nhờ các thông tin hai chiều giữa bản thân các nhà khoa học và
các nhà nông. Thông qua mạng lưới dịch vụ mở rộng nông nghiệp (và sự tích cực
tham gia của nhà nông vào toàn bộ tiến trình R&D), các vấn đề trong nông nghiệp
được chuyển trực tiếp tới các nhà nghiên cứu để kiếm tìm giải pháp. Từ đó, các kết
quả nghiên cứu khoa học cũng được nhanh chóng chuyển tới đồng ruộng để thử
nghiệm, thích nghi và điều chỉnh.

Israel là nước hàng đầu về xuất khẩu các thực phẩm được trồng trong nhà kính.
Israel xuất khẩu hơn 1,3 tỷ USD sản phẩm nông nghiệp mỗi năm, ngoài ra còn
xuất khẩu 1,2 tỷ USD các sản phẩm và công nghệ đầu vào cho nông nghiệp.
Nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng sản lượng, cải thiện chất lượng và tiết kiệm
nhân công, các sáng chế về máy móc nông nghiệp cũng như thiết bị điện tử phụ trợ
đã được ra đời và áp dụng nhanh chóng và rộng rãi vào đời sống. Đặc biệt là các
máy móc, thiết bị phục vụ đất trồng trọt, chống xói mòn, các máy gieo hạt, thu
hoạch và các thiết bị phù hợp cho thâm canh tăng vụ, tưới tiêu (tự động hóa)…
Nhiều thiết bị tự động khác cũng được sử dụng trong chăn nuôi như máy vắt sữa,
máy thu hoạch trứng, các hệ thống cho ăn tự động… và các máy móc phục vụ sau
thu hoạch như máy phân loại sản phẩm, máy đóng gói, hệ thống kho trữ và đặc
biệt là hệ thống vận tải chuyên biệt. Những công nghệ phát triển trong nước cũng
chú trọng tới việc kiểm soát bón phân tự động hóa (thông qua hệ thống máy tính),
có thể bón phân qua nước tưới tiêu, các biện pháp kiểm soát độ ẩm, tạo môi trường
trong lành cho trồng hoa, các thực phẩm trái mùa…


Quản lý nhà nước về nông nghiệp
Bộ Nông nghiệp Israel hỗ trợ và kiểm soát toàn bộ các hoạt động nông nghiệp của
đất nước, gồm cả việc duy trì các tiêu chuẩn cao đối với các sản phẩm cây trồng và
vật nuôi, đề ra các kế hoạch thúc đẩy, phát triển nông nghiệp thông qua các hoạt
động nghiên cứu và thị trường (kể cả marketing). Từ nhiều năm nay, nông nghiệp
Israel được Chính phủ nước này kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống trợ cấp sản
xuất và định mức nước tiêu thụ cho mỗi mùa vụ. Hiện nay, nước này cũng kiểm
soát định mức sản xuất và chất lượng của một số sản phẩm nông nghiệp như sữa,
trứng, gà con và khoai tây.
Các chương trình nghiên cứu nhằm gia tăng lượng nước để tưới tiêu cũng đang
được tiến hành, chủ yếu thông qua tăng lượng nước mưa (tạo mưa nhân tạo), khử
mặn trong nước và sử dụng các hệ thống lọc nước để tái sử dụng. Các nghiên cứu
mới đã dẫn tới việc khai thác nước mặn ở các bể chứa nước khổng lồ tại sa mạc

Negrev, dùng cho một số giống cây phù hợp.

10


Cũng như nhiều nước khác, nông nghiệp Israel cũng phải chịu áp lực bởi lượng
nhân công phục vụ trong lĩnh vực này ngày càng ít đi (giảm 40% từ năm 1960 tới
năm 1996). Mặc dù vậy, lượng nhân công ít ỏi trong nông nghiệp ngày nay lại đem
lại sản lượng lớn hơn so với trước kia. Trong đầu những năm 1950, một nông dân
có thể cung cấp đủ lương thực cho 17 người thì vào năm 1994, mỗi người trong số
họ đã có thể nuôi được 90 người.
4.2) Nền nông nghiệp Mỹ
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động nông
nghiệp chiếm khoảng 1% trong tổng dân số 322 triệu người Tính đến tháng 42014, lực lượng lao đông Mỹ, ( labor force ), gồm có tổng số 155 triệu ,421 nghìn
người, trong đó, lao động nông nghiệp có 1 triệu,879 nghìn người, chiếm tỷ lệ
khoảng 0,7%. Đất đai Mỹ có diện tích 9,161,923 km2, trong đó, đất khả canh
chiếm 18,1%. Theo thống kê nông nghiệp, công bố trong tháng 2 năm 2014 , thì
năm 2012, tổng số nông trại ở Mỹ có 2,109,363 cái, trung bình mỗi trại có diện
tích 434 acres, ( 1 acre = 0.4015 ha ). Năm 2012, tổng giá trị nông phẩm đạt
$394.6 tỷ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó thu về các sản phẩm trồng trọt
$219.6 tỷ, sản phẩm chăn nuôi đạt $171.7 tỷ.
Mỹ là nước dẫn đầu thế giới về xuất cảng nông phẩm, xuất cảng đậu nành đạt
$24.7 tỷ, chiếm 50.5%, bắp, đạt kim ngạch $9.3 %, luá mi $8.2 tỷ, chiếm 18% thị
phần xuất cảng nông phẩm của toàn thế giới.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ
luôn luôn có thặng dư về mậu dịch nông nghiệp, xuất khẩu nông nghiêp năm 2012
đạt $141.3 tỷ, và ước tính năm 2014 đạt $149.5 tỷ, chiếm hơn 10% tổng số kim
ngạch xuất khẩu của toàn ngành và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến trên $
38.5 tỷ.



Thành tựu của nền nông nghiệp:
Cơ giới hóa nền nông nghiệp
Vào đầu thế kỷ 20, phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10
người, ngày nay, một nông dâm Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người
Mỹ và 32 người đang sống tại các nước trên thế giới.
Cơ giới hoá nông nghiệp được thực hiện rất sớm tại Hoa kỳ, nhưng phát triển
manh nhất là vào những thập niên 1940 đến thập niên 1970, thời kỳ kết hợp cơ
giới với việc sử dụng phân hoá học, cải tiến hạt giông và là giai đoạn thực hiện
cách mạng xanh. Năm 1907, cả nước chỉ có 600 máy kéo, đến năm 1950 , số máy
kéo lên đến 3,400,000 cái. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tồng chi
phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Có những máy liên hoàn , kết hợp máy kéo
với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt, rất hiện đại giá mỗi cái giá $100,000. Cơ
giới hoá gần như thay thế sức người, sức vật tại Mỹ. Sự kết hợp cơ giới với cải tiến
trong kỹ thuật canh tác và chế biến nông sản đang làm thay đổi phương pháp sản
xuất và phân phối lương thực tại Mỹ và tại các nước trên toàn thế giới.
Nhờ cơ giới hoá và cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, sản
lượng nông nghiệp tăng lên đến 75% mỗi năm, giải quyết được nạn thiếu hụt thực
phẩm trên thế giới. Cơ giới hoá là một bước tiến rất lớn trong ngành nông nghiêp
Mỹ và các nước trên toàn thế giới.

11




Ứng dụng khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp
Trên thế giới, kỹ thuật trông cây GMC đã áp dụng từ năm 1996 trên diện tích 17
triêu ha, đến năm 2013 diện tích trông cây GMC tăng lên 100 lần với diện tích 175
triêu ha. Năm 2012 , nước Mỹ có 69.5 triệu ha cây trồng biến đổi gen, bao gồm
đâu nành, bắp, bông vài, củ cải đường, đu đù và vài loại hoa màu khác. Hiện nay,

tỷ lệ đất trồng cây biến đổi gen chiếm một tỷ lệ rất lớn, 98% với củ cải đường,
91% với đậu nành, 88% với bông vải, và 85% đối với bắp.
Nhờ tạo được cây trồng chuyển đổi gen, có đặc tính mới, như chiu được khí hậu
lạnh hoặc nóng, trồng đưọc trên đất mặn, có đặc tính chống được sâu bệnh, chống
cỏ dại, kéo dài thời gian bảo quản, nông sản thu hoạch nhiều và lâu hư thối Điểm
nổi bật là loại cây trông GMC cải thiện được môi trường vì ít dùng thuốc trừ sâu,
ít dùng thuốc diệt cỏ, khí hậu bớt ô nhiễm, giảm bớt lượng CO2 .Nông dân ít tiếp
xúc hoá chất, người tiêu thụ được hưởng thức ăn bổ dưỡng hơn, thực phảm ít chứa
chất độc hại.
Theo ước tính từ giai đoạn 1996 đến 2012 , nhờ áp dụng trồng cây GMC, thu nhâp
đã gia tăng $117 tỷ, trong đó 58% do giảm chi phí sản xuất, 42% do tăng năng
suất.
Việc áp dụng kỹ thuật sinh học trong nông nghiệp có nhiểu mặt tích cực, tuy nhiên
cũng có một số tiêu cực đang bàn cãi như làm thay đổi đặc tính thiên nhiên, làm
gia tăng dị ứng do cây trồng mới mang lại, một số vi trùng gây bệnh sẽ kháng lại
thuốc chữa trị. Mặt khác, kỹ thuật trồng cây GMC theo diện đại trà, đã làm cho
các công ty chuyên cung cấp giống, như Monsanto, Syngenta, thu được một số
tiền lời quá lớn, lợi tức phân bổ không cân đối giữa các công ty cung cấp hạt giống
và nông dân sản xuất.
Nước Mỹ sẽ là vựa lương thực, cung cấp, nuôi sống dân sô của toàn thế giới. Với
sức mạnh của nông nghiệp Mỹ, trong tương lai, ngành nông nghiệp Mỹ sẽ là một
khí giới bảo vệ nước Mỹ. Sức mạnh của nông nghiệp Mỹ, một ngày nào, có thể là
khí giới mạnh hơn bất kỳ loại khí giới nào hiện có trên thế giới.

4.3) Nền nông nghiệp Nhật Bản
Trước khi trở thành một trong vài nước công nghiệp hàng đầu thế giới, Nhật Bản
cũng là một nước nông nghiệp với tỉ lệ nông dân trong tổng dân số tương đương
với Việt Nam. Trước Minh Trị Duy Tân vào năm 1868, tới 80% dân số Nhật Bản
làm nghề nông và lúa là nông sản chính. Các phương pháp thâm canh cần nhiều
lao động được phát triển vì mỗi hộ gia đình chỉ có một diên tích ruộng hạn chế.

Những đặc điểm nông nghiệp này đã làm gia tăng các thông lệ trong canh tác cũng
như những tập tục ảnh hưởng đến toàn bộ nền văn hóa Nhật Bản.
-

Thành tựu của nền nông nghiệp:



Phát triển khoa học-kỹ thuật nông nghiệp
Để phát triển nông nghiệp, Nhật Bản coi phát triển khoa học-kỹ thuật nông nghiệp
là biện pháp hàng đầu. Nhật Bản tập trung vào các công nghệ tiết kiệm đất như:

12


tăng cường sử dụng phân hoa học; hoàn thiện công tác quản lý và kỹ thuật tưới
tiêu nước cho ruộng lúa; lai tạo và đưa vào sử dụng đại trà những giống kháng
bệnh, sâu rầy và chịu rét; nhanh chóng đưa sản xuất nông nghiệp sang kỹ thuật
thâm canh, tăng năng suất...
Để phát triển khoa học-kỹ thuật nông nghiệp, Nhật Bản chủ yếu dựa vào các viện
nghiên cứu nông nghiệp của Nhà nước và chính quyền các địa phương. Viện quốc
gia về khoa học nông nghiệp được thành lập ở cấp Nhà nước là cơ quan có trách
nhiệm tổng hợp gắn kết toàn bộ các viện nghiên cứu cấp ngành thành một khối.
Bên cạnh đó, các viện nghiên cứu nông nghiệp cũng tăng cường liên kết nghiên
cứu vối các trường đại học, các xí nghiệp tư nhân và các hội khuyến nông; liên kết
vối các tổ chức này và các tổ chức của nông dân để giúp nông dân tiếp cận công
nghệ, trang thiết bị tiên tiến, giúp tăng năng suất, chất lượng, đảm bảo nông nghiệp
tăng trưởng ổn định.



Cải cách ruộng đất
Cải cách ruộng đất năm 1945 và 1948 đã tạo động lực kích thích mạnh mẽ nông
nghiệp phát triển, mở rộng việc mua bán nông phẩm và tăng nhanh tích lũy.
Để duy trì, bảo vệ những vùng đất tốt dùng cho mục đích nông nghiệp, năm 1969
Nhà nước đã ban hành Luật Cải tạo và phát triển những vùng đất có khả năng mở
rộng sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1970, Luật Đất đai nông nghiệp và Luật Hợp
tác xã nông nghiệp được sửa đổi bổ sung đã nối rộng quyền hạn cho thuê, phát
canh đất sản xuất nông nghiệp cũng như quyền quản lý cho các tập đoàn và các
hợp tác xã (HTX) nông nghiệp. Năm 1975, Nhật Bản quyết định thực hiện chính
sách phát triển nông nghiệp toàn diện, bao gồm: đảm bảo an toàn lương thực; xem
xét lại chính sách giá cả; hoàn thiện cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh các công trình phúc
lợi trong các làng xã. Đồng thời chương trình "Đẩy mạnh sử dụng đất nông
nghiệp" được triển khai. Chương trình này được bổ sung vào năm 1980, và nhờ
vậy nó giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Từng hộ sản xuất riêng lẻ, vối quy mô quá nhỏ thì không thể có đủ điều kiện kinh
tế và kỹ thuật để HĐH quá trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn. Năm 1995 số
lượng nông trại giảm 791 nghìn cái (giảm 18,7%) so vối năm 1985. Quy mô ruộng
đất bình quân của một nông trại có sự thay đổi theo hướng tích tụ ruộng đất vào
các trang trại lớn để tăng hiệu quả sản xuất. Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong
giai đoạn 1990-1995, qui mô đất lúa bình quân/hộ tăng từ 7180m2 lên 8120m2.



Phát triển sản xuất có chọn lọc, nâng cao chất lượng nông sản
Bước ngoặt của chính sách nông nghiệp của Nhật Bản thực sự bắt đầu khi Luật
Nông nghiệp cơ bản được ban hành vào năm 1961, với hai phương hướng chính
sách chủ yếu: Phát triển sản xuất có chọn lọc, cụ thể là đẩy mạnh sản xuất những
sản phẩm có nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng và giảm sản xuất những nông phẩm
có sức tiêu thụ kém; Hoàn thiện cơ cấu nông nghiệp, kể cả việc phát triển những
nông hộ và HTX có năng lực về quản lý kinh doanh và canh tác.

Trong những năm 1960 và 1970, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Nhật đã
đẩy thu nhập của nhân dân tăng đáng kể. Cũng trong thời gian này, lao động trong
nông nghiệp giảm xuống khoảng 50%, song năng suất lao động lại tăng bình quân

13


hàng năm 5-8% nhờ tăng cường cơ giới hoa và cải tiến quy trình kỹ thuật. Đây là
tỷ lệ tăng bình quân cao nhất ở những nước phát triển.
Các ngành thực phẩm chế biến phát triển, giúp cho người dân sống ở nông thôn có
thêm nhiều việc làm, thu nhập được cải thiện, do đó Nhật Bản đã tạo cho mình
một thị trường nội địa đủ lốn cho hàng hoa công nghiệp tích lũy lấy đà chuyển
sang xuất khẩu. Khi sản xuất hàng hóa lớn phát triển, Nhật Bản tập trung đất đai,
mở rộng quy mô sản xuất, phát triển nông hộ lớn hoặc trang trại để tạo điều kiện
cơ giới hóa, tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh.


Phát triển các hợp tác xã và các tổ chức kinh tế hợp tác xã dịch vụ
Hợp tác xã có vị trí rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp ở Nhật Bản. Hầu
hết những người nông dân đều là xã viên của HTX nông nghiệp. Chính phủ rất coi
trọng thể chế vận hành các HTX nông nghiệp và đã ban hành, thực hiện nhiều
chính sách giúp đỡ phát triển, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất nhằm giúp
người nông dân thoát khỏi cảnh đói nghèo và cùng hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Theo Luật Hợp tác xã nông nghiệp, năm 1972 Liên hiệp các HTX nông
nghiệp quốc gia Nhật Bản chính thức được thành lập và được Chính phủ giao thực
hiện các mục tiêu về phát triển nông nghiệp và nông thôn. Hệ thống HTX nông
nghiệp Nhật Bản được phân làm 3 cấp, hoạt động vối tôn chỉ dựa vào sự nỗ lực
hợp tác giữa các HTX nông nghiệp cấp cơ sở, các liên đoàn cấp tỉnh và cấp trung
ương tạo thành một bộ máy thống nhất hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương.
Vai trò của các HTX và tổ chức kinh tế HTX dịch vụ đã thúc đẩy quá trình tích tụ,

tập trung ruộng đất và chuyên môn hóa sâu theo hướng thương mại hóa trong nông
nghiệp nước này.

II.
Nền nông nghiệp VIỆT NAM
1)
Vai trò nông nghiệp với nền kinh tế Việt Nam
4.4) Nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của
Việt Nam
Để nghiên cứu vai trò của SX nông nghiệp đối với tăng trưởng GDP ở Việt Nam ta quan
sát số liệu từ năm 2000 đến 2014 và sử dụng mô hình định lượng như sau:
a) Số liệu năm 2000 – 2014
Bảng 1 ghi lại giá trị Tổng sản phẩm quốc nội GDP, ước tính theo giá hiện hành của quý
I năm 2015 và Tổng giá trị SX nông nghiệp theo các năm 2000 – 2015

Năm

GDP ước tính theo
giá hiện hành (quý I
2015) (tỷ đồng)

Giá trị SX
nông nghiệp
(tỷ đồng)

Cơ cấu của giá trị
SX nông nghiệp/
GDP (%)

2000


441646

108203,27

24,50

2001

474855

110166,36

23,20

2002

527056

121222,88

23,00

2003

603688

136071,28

22,54


2004

713071

155520,79

21,81

2005

837858

176955,61

21,12

14


2006

973791

198653,36

20,40

2007


1211806

245996,62

20,30

2008

1478695

326791,60

22,10

2009

1645481

344070,08

20,91

2010

1980914

407672,10

20,58


2011

2535008

557955,26

22,01

2012

2950684

580399,54

19,67

2013

3584261

658787,17

18,38

2014

3937856

713539,51


18,12

Bảng 1: Tổng sản phẩm quốc nội GDP và tổng sản phẩm nông nghiệp năm
2000 - 2014
(nguồn: Tổng cục thống kê, trang web />Theo bảng trên, giá trị SX nông nghiệp luôn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản
phẩm quốc nội, từ 18 – 20%. Có thể nhận xét rằng theo lộ trình công nghiệp hóa
của đất nước, cơ cấu SX nông nghiệp với tổng sản phẩm SX trong nước giảm nhẹ,
nhưng vẫn ở tỉ lệ cao (18,2% năm 2014)
b) Phân tích vai trò của SX nông nghiệp đến GDP hàng năm và tăng trưởng GDP –
mô hình kinh tế lượng giản đơn
Sử dụng phân tích kinh tế lượng ta ước lượng sự phụ thuộc GDP của VN hàng năm vào 2
- Biến Giá trị SX nông nghiệp (NN)
-

Biến Giá trị GDP bị giảm trong những năm Việt Nam chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng
kinh tế (từ năm 2008) (KH). Biến KH là biến giả , nhận giá trị “0” khi Việt Nam chưa
chịu khủng hoảng kinh tế, giá trị “-1” trong những năm khủng hoảng.

Mô hình hồi quy lý thuyết:
Trước hết ta có bảng các mẫu số liệu sau:
G
D
P
4
4
1
6
4
6
4

7

N
N
1
0
8
2
0
3
,
3
1
1

KH

0

0

15


4
8
5
5
5
2

7
0
5
6
6
0
3
6
8
8
7
1
3
0
7
1
8
3
7
8
5
8
9
7
3
7
9
1
1
2

1
1
8

0
1
6
6
,
4
1
2
1
2
2
2
,
9
1
3
6
0
7
1
,
3
1
5
5
5

2
0
,
8
1
7
6
9
5
5
,
6
1
9
8
6
5
3
,
4
2
4
5
9
9

0

0


0

0

0

0

16


0
6
1
4
7
8
6
9
5
1
6
4
5
4
8
1
1
9
8

0
9
1
4
2
5
3
5
0
0
8
2
9
5
0
6
8
4
3
5
8
4
2
6
1

6
,
6
3

2
6
7
9
1
,
6
3
4
4
0
7
0
,
1
4
0
7
6
7
2
,
1
5
5
7
9
5
5
,

3
5
8
0
3
9
9
,
5
6
5
8
7
8
7
,
2

-1

-1

-1

-1

-1

-1


17


3
9
3
7
8
5
6

7
1
3
5
3
9
,
5

-1

Sử dụng phần mềm phân tích Kinh tế lượng Gretl cho ta kết quả:
Model 1: OLS, using observations 1-15
Dependent variable: GDP
Heteroskedasticity-robust standard errors, variant HC1
coefficient std. error t-ratio p-value
------------------------------------------------------------const -223263
42677.3
-5.231 0.0002 ***

NN
6.04241
0.270263 22.36 3.78e-011 ***
KH
287398
74919.7
3.836 0.0024 ***
Mean dependent var 1593111 S.D. dependent var 1162649
Sum squared resid 1.51e+11 S.E. of regression 112256.4
R-squared
0.992009 Adjusted R-squared 0.990678
F(2, 12)
463.3911 P-value(F)
4.36e-12
Kết quả cho ta hệ số
Vậy, SX nông nghiệp đóng góp một phần lớn trong tăng trưởng GDP của VN, khi giá
trị SX nông nghiệp tăng 1 tỷ đồng thì trung bình tổng sản phẩm quốc nội tăng 6.04 tỷ
đồng. Trong những năm Việt Nam chịu ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế (từ năm
2008) trung bình tổng sản phẩm quốc nội bị giảm do chịu ảnh hưởng khủng hoảng là
287398 tỷ đồng.
4.5) Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến
Chế biến nông sản, thực phẩm là chế biến sản phẩm của ngành trồng trọt và chăn nuôi.
Muốn có nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến phải phát triển nông nghiệp. Ta xét
số liệu sản lượng cây công nghiệp của nước ta năm 2014:
Cây
nghiệp

công

Sản

lượng
(nghìn tấn)

Chè (búp)

746.2

Cà phê (nhân)

1055.8

Cao su (Mủ
khô)

660.0

Hồ tiêu

98.3

Hạt điều

308.5

Dừa

1095.1

18



(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Bên cạnh đó ngành công nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam năm 2014 khai thác
2569,9 nghìn tấn, chế biến 2277.7 thành phẩm; lâm nghiệp khai thác 12309,1 nghìn tấn
gỗ.
Nông nghiệp có vai trò chủ đạo trong việc cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp
chế biến.
Đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất thực chất là đảm bảo một trong các yếu tố chủ yếu của
sản xuất, nghiên cứu ưu nhược điểm trong công tác cung cấp nguyên liệu đồng thời có
biện pháp đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại và quy cách phẩm chất.
4.6) Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước, đảm bảo an
ninh lương thực
Nhu cầu về lương thực thực phẩm là nhu cầu cơ bản, cần thiết nhất trong phát triển kinh tế

hội.
Do đó, việc phát triển nền nông nghiệp Việt Nam thoả mãn các nhu cầu về lương thực,
thực phẩm trở thành điều kiện quan trọng để ổn định xã hội, ổn định kinh tế. Bảo đảm nhu
cầu về lương thực, thực phẩm không chỉ là yêu cầu duy nhất của nông nghiệp, mà còn là
cơ sở phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế - xã hội.
Trong phạm vi ví dụ, ta sẽ phân tích sản lượng của lương thực chính ở Việt Nam: lúa gạo.
Theo ước tính của bộ nông nghiệp Mỹ USDA, sản lượng lúa của Viêt Nam năm 2014 đạt
44,8 triệu tấn, sản lượng gạo 28 triệu tấn. Việt Nam nhập khẩu phần lớn gạo từ Căm-puchia và một lượng nhỏ gạo nếp từ Lào được dùng để đáp ứng nhu cầu trong nước, do phần
lớn gạo được trồng ở đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn phục vụ cho hoạt động xuất
khẩu. Kim ngạch nhập khẩu gạo của Việt Nam từ Căm-pu-chia mùa vụ 2013/14 vẫn duy
trì ở mức 100.000 tấn. Tuy không có số liệu chính thức về lượng gạo nhập khẩu, vì lúa từ
Căm-pu-chia được chuyển vào Việt Nam phần lớn qua đường tiểu ngạch thông qua những
chiếc thuyền nhỏ, khiến cho việc theo dõi rất khó khăn, nhưng để đáp ứng nhu cầu trong
nước năm 2014 Việt Nam sản xuất được 28 triệu tấn gạo, so với kim ngạch nhập khẩu gạo
từ Campuchia chỉ 100.000 tấn, nông nghiệp SX lúa gạo của Việt Nam đáp ứng hầu hết
nhu cầu trong nước, tạo nền tảng vững cahwcs cho phát triển an ninh lương thực.

4.7) Nông nghiệp tạo việc làm cho bộ phận lớn lực lượng lao động Việt Nam
Bảng sau gồm các số liệu về cơ cấu lao động theo ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ giai đoạn 2000 – 2012:

Cơ cấu
lao động
theo
ngành
(%)

Nông
nghiệp

Công
nghiệp

Dịch
vụ

2000

62,2

13

24,8

2001

60,3


14,5

25,1

19


2002

58,6

15,4

26

2003

57,2

16,8

26

2004

56,1

17,4


26,5

2005

55,1

17,6

27,3

2006

54,3

18,2

27,6

2007

52,9

18,9

28,1

2008

52,3


19,3

28,4

2009

51,5

20

28,4

2010

49,5

21

29,5

2011

48,4

21,3

30,3

2012


47,4

21,2

31,4

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Dựa vào số liệu trên, tỉ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là cao nhất trong cả giai
đoạn 13 năm. Năm gần nhất trong số liệu là năm 2012, Việt Nam có 52,3 triệu lao động
trên 15 tuổi, trong đó có 69,7% lực lượng lao động ở khu vực nông thôn, và 62,2% làm
lao động nông nghiệp.
Lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là lực lượng lao động đông đảo nhất, có
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước.
4.8) Xuất khẩu lao động làm tăng ngoại tệ và tăng thu ngân sách nhà nước
Việt Nam tập trung xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao như lúa
gạo, cà phê, thủy sản… Năm 2014, giá trị xuất khẩu mặt hàng nông nghiệp của Việt Nam
đạt 30,8 tỷ USD, tăng 11,2 % so với năm 2013 (theo Tổng cục thống kê).Trong 3 tháng
đầu năm 2015, tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp là 6,13 tỷ USD.
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, với nhiều
loại sản phẩm đạt kim ngạch hàng tỷ USD mỗi năm. Xuất khẩu nông nghiệp không chỉ
mang lại nguồn ngoại tệ lớn, tham gia thị trường trao đổi và là công cụ điều hành nền kinh
tế, tăng thu ngân sách nhà nước mà còn thúc đẩy cơ hội kí kết nhiều hiệp định như TPP,
VCUFTA, RCEP…
5)

Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam

5.1) Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam trước khi gia nhập WTO
a) Cơ sở hạ tầng và khoa học kĩ thuật áp dụng vào SX nông nghiệp kém chất lượng
Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, với nhiều mặt hàng đạt giá trị

kim ngạch hơn một tỷ USD mỗi năm. Tuy vậy hiện tượng mất giá kém cạnh tranh của sản
phẩm nông nghiệp liên tục xảy ra trong những năm trước 2007.
Việc phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn trong nước làm cơ sở hạ tầng và khoa học kĩ thuật
của Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp nghèo nàn và yếu kém. Năng suất sản xuất thấp,
giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp và mẫu mà không hấp dẫn làm giảm năng lực
cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao

20


của nước ngoài có chất lượng cao, sản lượng lớn, giá thành cạnh tranh có sức cạnh tranh
rất lớn. Tiềm lực về tài chính của các doanh nghiệp cũng như cơ sở hạ tầng và nền tảng
khoa học kĩ thuật thể hiện năng lực và tiềm lực của cả nền sản xuất, khi các mặt kể trên
chưa tốt thì nền sản xuất có nhiều bất lợi và rủi ro. Trong thời gian này, “Cú hích bên
ngoài” – dòng vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ từ các quốc gia lớn là rất cần thiết,
đồng thời có thêm nhiều sự cạnh tranh cũng là động lực cho nền sản xuất trong nước nói
chung.
b) Xuất khẩu nông nghiệp gặp nhiều khó khăn khi tìm kiếm thị trường và cạnh tranh
trên trường quốc tế
Như phân tích ở trên, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trước năm 2007 có giá thành
cao, số lượng chưa nhiều, chất lượng thấp, mẫu mã chưa hấp dẫn.. Đây là những thách
thức cho nông sản Việt Nam khi xuất khẩu ra thị trường ngoài nước. Vì vậy xuất khẩu
nông sản Việt Nam vẫn chủ yếu ở dạng thô và nhằm vào những thị trường dễ tính. Việc
thâm nhập những thị trường lớn như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc... vẫn còn
rất khó khăn với các doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó việc chưa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới mang lại ít cơ hội mở
rộng thị trường và đàm phán, cùng với việc “thông tin thị trường” không đầy đủ tiềm ẩn
nhiều rủi roc ho nhiều mặt hàng xuất khẩu. Nhiều năm, Trung Quốc là thị trường nhập
khẩu nông sản chiếm tỷ trọng lớn của Việt Nam, bởi đây là thị trường "dễ tính", tiêu
chuẩn thấp, không có hàng rào kỹ thuật… Tuy nhiên, sự "dễ tính" này cũng tiềm ẩn nhiều

rủi ro và ngày càng làm giảm giá trị của hàng nông sản Việt Nam.
5.2) Thực trạng nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO
a)
Thuận lợi
1.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng như mở rộng thị trường
cho những mặt hàng xuất khẩu truyển thống nông nghiệp và thủy sản, đồng thời chúng
ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO( về lâu dài) giúp tránh
được những vụ kiện vô lý như cá tra- cá bas a giữa VN và Mỹ. Một khi ngành nông
nghiệp đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp trở thành động lực chính
thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc đó, nông nghiệp là chìa khóa tạo ra sự ổn
định và phát triển vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp có thêm
nhiều cơ hội phát triển.
2.
Thuận lợi thứ 2 đó là Việt Nam đã được tăng vốn đầu tư và chuyển giao công
nghệ cao từ các quốc gia khác. Tuân thủ các quy định luật lệ của WTO, VIệt Nam đã
xây dựng và củng cố niềm tin của các quốc gia khác trong cơ chế chính sách của mình,
do đó đã thu hút được đầu tư nước ngoài vào nước nhà.
3.
Đồng thời Việt Nam có cơ hội thuận lợi để tiếp cận nguồn vốn vay, các hình
thức tín dụng và các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF… Quá trình hội nhập
WTO cũng góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Hơn thế nữa
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm thì nông nghiệp vẫn đứng vững.
4.
Khi gia nhập WTO, ngành trồng trọt Việt Nam còn được những cơ hội lớn để
phát triển, do các loại thuế phải được cắt giảm theo đúng lộ trình: Khi thuế nhập khẩu
vật tư nông nghiệp được cắt giảm dần thì người nông dân có cơ hội được mua các loại
vật tư nông nghiệp với giá rẻ hơn trước đây. Không những giá vật tư nông nghiệp
nước ngoài nhập vào giảm mà bản thân các nhà cung cấp dịch vụ này trong nước cũng
phải điều chỉnh giá để cạnh tranh. (Vật tư nông nghiệp bao gồm: phân bón, thuốc bảo

vệ thực vật, giống cây trồng, máy móc nông nghiệp,...)

21


Trong số đó, giống cây trồng là loại hàng hoá được cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu
xuống còn rất thấp, thậm chí tới mức 0%. Đây là một trong những thuận lợi rất lớn đối
với sản xuất nông nghiệp.
b)Khó khăn
1.
Những ngành ít có lợi thế so sánh sẽ bị sức ép nhiều hơn như: mía đường, sữa,
bong, chăn nuôi,..
2.
Nông sản chế biến chịu nhiều sức ép hơn so với nông sản thô.
3.
Giá thành cao, sản xuất manh mún là những yếu tố khiến ngành nông nghiệp
không thể có được những đơn hàng lớn. Các giống cây con mới nhập vào nước ta
được bán với giá rất đắt, bà con lại không thể nhân giống vì vấn đề bản quyền là trở
ngại rất lớn. Nhiều mặt hàng nông nghiệp của ta giá cao hơn nước ngoài chất lượng lại
không đảm bảo. Khả năng chuyển từ xuất khẩu thô lên chế biến với thương hiệu riêng
còn đòi hỏi một quá trình dài.
4.
Ngành chăn nuôi cơ bản vần là phân tán, trình độ thấp. Giá thành cao, chất
lượng thấp không đáp ứng yêu cầu hội nhập. Sản phẩm chăn nuôi trong nước còn phải
đối mặt với việc trợ cấp từ các nước giàu.
5.
Sau hội nhập, xuất khẩu tiếp tục đối mặt với các rào cản kỹ thuật và áp lực sản
xuất nước ngoài. Đã từng có một xu thế ảo tưởng cho rằng việc gia nhập WTO, cơ hội
để hàng VN thâm nhập thị trường thế giới sẽ dễ dàng nhưng điều này chỉ đúng trên
bình diện xu thế, nhưng hoàn toàn không đúng trong ngắn hạn, đặc biệt trong bối cảnh

thị trường thế giới bị suy thoái.
6.
Chưa chuẩn bị tốt về năng lực bảo vệ người tiêu dung nội địa. Sau những năm
đầu hội nhập WTO, những hạn chế về chế tài, về phân định chức năng nhiệm vụ của
bộ máy triển khai, và năng lực con người đã làm cho VN gặp phải thách thức rất lớn
đối với các vấn đề an toàn thực phẩm. Ở thị trường nội địa vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm gặp nhiều vấn đề với cả sản phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu.
Thực tế hiện nay cho thấy tình trạng tồn dư các chất có hại cho sức khỏe con người
trong nông sản đang còn khá cao.
7.
VN đã thực hiện cắt giảm thuế suất nhập khẩu cao hơn cả mức cam kết và
nhanh hơn mức cam kết theo lộ trình cho dù trước đó khi đàm phán VN đã nỗ lực để
nâng được mức thueest suất lên cao hơn cho nhóm mặt hàng thịt để bảo hộ ngành chăn
nuôi trong nước.
6)
Tiềm năng phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao ở Việt Nam:
6.1) Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý
Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Trong đó có những
yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả sản xuất nông nghiệp như: đất đai, lao động,
vốn , công nghệ, thời tiết khí hậu… Điều này thể hiện rõ qua hàm sản xuất: Q = f
( x1, x2…xn) trong đó: Q là sản lượng, x1 x2.. các yếu tố sản xuất có ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt
đới của bán cầu Bắc, thiên về chí tuyến hơn là xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt
Nam một nền nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22- 26 độ. Hàng năm có
khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1500 đến 2000mm. Độ ẩm
không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1500- 2000 giờ, nhiệt bức xạ trung
bình năm 100kcal/cm2 . Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của
khí hậu nước tat hay đồi. Nhìn chung Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và
một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Những đặc điểm này đem lại cho nông nghiệp
nhiều thuận lợi cơ bản. Với lượng mưa tương đối lớn, đảm bảo nguồn nước ngọt

phong phú cho sản xuất và đời sống, có nguồn năng lượng mặt trời tương đối dồi

22


dào, tập đoàn cây trồng và vật nuôi phong phú, có giá trị kinh tế cao. Tính chất
nhiệt đới ẩm gió mùa cùng với vị trí địa lý thuận lợi gần biển là một điều kiện
tuyệt vời cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam. Chúng ta có 2 đồng bằng
phù sa lớn đó là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long- 2 vựa lúa
quan trọng của cả nước- chính nhờ vị trí gần biền và thời tiết thuận lợi của nước
nhà. Bên cạnh đó, mạng lưới sông ngòi dày đặc, bao gồm hạ lưu, chi lưu của các
con sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình và sông Cửu Long, cùng với các
sông nhỏ chảy trong các ô nội địa khác cũng góp phần bồi đắp, tạo nên những
đồng bằng phù sa màu mỡ thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp.
6.2) Điều kiện chính trị:
Không giống như một số nước khác, Việt Nam có một nền chính trị khá ổn định, tình hình
xã hội bình yên tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế nói chung và cho nông nghiệp
nói riêng. Chính vì điều kiện chính trị của Việt Nam ổn định nên các nhà đầu tư nước
ngoài vào nước ta có niềm tin để rót vốn vào, FDI tăng lên rất nhanh.
6.3) Nguồn lao động trong nông nghiệp:
Cơ cấu dân số Việt Nam thuộc nhóm “cơ cấu dân số trẻ”- là một điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển không chỉ nông nghiệp mà còn các ngành kinh tế khác. Dưới đây là bảng cơ
cấu dân số chia theo số tuổi:
Nhóm tuổi

Tổng số

Nam

Nữ


Tổng số

100,0

100,0

100,0

0-4

8,0

8,5

7,5

5-9

7,9

8,3

7,4

10-14

8,2

8,6


7,7

15-19

9,2

9,5

8,8

20-24

8,5

8,6

8,4

25-29

8,5

8,6

8,5

30-34

7,9


7,9

7,8

35-39

7,6

7,7

7,5

40-44

7,3

7,2

7,3

45-49

6,8

6,8

6,7

50-54


6,2

5,9

6,5

55-59

4,2

4,1

4,4

60-64

2,8

2,7

3,2

65 trở lên

6,9

5,6

8,3


(Số liệu của cục tổng kê năm 2011)
Hiện tượng” dư lợi dân số” khi đất nước bước sang thiên niên kỷ mới là một lợi thế
song việc có tận dụng được lợi thế này hay không lại phụ thuộc vào tầm nhìn trong các
chính sách phát triển nguồn nhân lực trong mối liên hệ với các chính sách kinh tế- xã hội

23


khác. Hơn nữa nguồn lao động trong nông nghiệp là những người có kinh nghiệm lâu
năm, mọi người luôn sáng tạo và có kinh nghiệm trong việc đối phó với những vấn đề khó
khăn trong nông nghiệp như sâu bọ, hạn hán, lũ lụt vào mùa hạ… Bên cạnh đó, một lợi
thế nữa của nguồn lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là nước ta là một nước có nguồn
lao động dồi dào đặc biệt là lao động ở nông thôn. Dưới đây là bảng số liệu lực lượng lao
động phân theo khu vực thành thị- nông thôn
Nơi cư trú/ Vùng kinh tế - xã hội

LLLĐ
(1000
người)

Tỷ lệ (%)
Tổng
số

Nam

Nữ

Cả nước


51.326

100,0

100,0

100,0

Thành thị

14.643

28,5

28,6

28,4

Nông thôn

36.683

71,5

71,4

71,6

Trung Du và Miền núi Phía Bắc


7.076

13,8

13,4

14,2

Đồng Bằng Sông Hồng

11.371

22,2

21,5

22,8

Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung

11.092

21,6

21,2

22,0

Tây Nguyên


3.068

6,0

6,0

6,0

Đông Nam Bộ

8.398

16,3

16,7

16,0

Đồng Bằng Sông Cửu Long

10.320

20,1

21,2

19,0

Vùng kinh tế - xã hội


Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động - Việc làm 6 tháng đầu năm 2011, Tổng cục Thống

6.4) Tiến bộ khoa học kĩ thuật áp dụng trong những năm gần đây:
Trong tiến trình thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, những năm qua, các
cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo, triển khai công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công \(KH và CN) phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững, tạo nền tảng thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tại Bắc Giang những năm gần đây việc ứng dụng
công nghệ sinh học vi sinh đã giúp làm chủ công nghệ sản xuất giống khoai tây sạch bệnh,
nhân giống hoa lan thương phẩm bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật và ứng
dụng các chế phẩm sinh học trong sản xuất rau quả an toàn và bảo vệ môi trường. Nhờ đó
mà tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành nông nghiệp đạt 4,73%, trong đó ngành trồng
trọt tăng 1,43%, chăn nuôi tăng 8,33%, thủy sản tăng 8,58%. Tại tỉnh Đak Nông, nhiều hộ
nông dân đã tự nghiên cứu, sáng chế cải tiến tư liệu phục vụ sản xuất, điển hình như hộ
ông Ngô Văn Quýnh xã Đăk R’Moan, thị xã Gia Nghĩa đã nghiên cứu, chế tạo xây dựng
công trình thủy điện kiểu mới. Nhiều dự án như: Mô hình trồng cam không hạt tại xã Đăk
Nia (thị xã Gia Nghĩa), mô hình trồng Măng Tây xanh tại xã Quảng Tâm (huyện Tuy
Đức), mô hình nuôi cá chình tại xã Nam N’jang (huyện Đăk Song), mô hình cà phê ghép

24


tại xã Đức Minh (huyện Đăk Mil), mô hình chè tại xã Quảng Khê (Đăk Glong); mô hình
Lạc TK10 tại Huyện Cư Jut và huyện Đăk Song; Mô hình Thanh long ruột đỏ ở Xã Đăk
We, Đăk R’Lấp…bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan( theo thông tin từ tỉnh
Đak Nông). Ngoài ra, trên địa bàn các tỉnh miền Bắc hiện nay, sự xuất hiện của chiếc máy
gặt- tuốt lúa 2 trong 1 đã phần nào cải thiện được năng suất lao động, cũng như giúp
người nông dân bớt vất vả hơn. Những năm gần đây việc sử dụng máy móc kỹ thuật hiện
đại đang dần dần được chú trọng nhiều hơn trong nông nghiệp.
Ngoài các tiềm năng, cơ hội trên, nước ta còn nhiều điểm mạnh khác để phát triển một

nền nông nghiệp chất lượng cao từ việc mở rộng hợp tác giao lưu học hỏi các nền kinh tế
lớn trên thế giới, sự tham gia vào các tổ chức thương mại thế giới như WTO, ASEAN…
7)
Điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam- thách thức khi phát triển nền nông nghiệp
chất lượng cao:
7.1) Cơ cấu cây trồng bất cân đối:
Từ bao đời nay, lúa vẫn là cây nông nghiệp độc canh của Việt Nam, thu hút mức độ
đầu tư rất cao về nhân sự, nghiên cứu, đất đai, cơ sở tổ chức, lao động và tài chính. Nhưng
điểm yếu của phương thức độc canh này là dễ dàng phát sinh bệnh hại, dẫn đến việc phải
phun xịt một lượng rất lớn thuốc bảo vệ thực vật, làm ô nhiễm nông sản và ảnh hưởng đến
môi trường và sức khỏe của người sử dụng thuốc cũng như người tiêu dùng thực phẩm.
Đồng thời, việc chú trọng quá nhiều vào lúa gạo cũng khiến nông nghiệp Việt Nam không
thể khai thác hiệu quả nguồn lợi từ thị trường quốc tế dành cho một số nông sản khác, đặc
biệt là rau củ quả - trên thế giới thị trường rau, hoa quả có giá trị lớn gấp 7 lần so với thị
trường gạo. Tình trạng bất cân đối cơ cấu cây trồng trên đây không chỉ do Việt Nam chưa
có định hướng phát triển phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường thế giới, mà còn do
người nông dân và các doanh nghiệp vẫn phải đối diện với nhiều rủi ro nên không dám
đầu tư vào những ngành xuất khẩu đòi hỏi đầu tư công nghệ cao và có hệ thống như rau,
hoa quả, chỉ tập trung sản xuất các mặt hàng nông phẩm thô như với lúa gạo, cà phê hay
chè. Chính sách đất nông nghiệp chỉ cho phép sử dụng có thời hạn cũng làm tăng rủi ro
cho người nông dân.
7.2) Mặt xấu của nguồn nhân lực ở nông thôn :
Mặc dù có những lợi thế về dân số và nguồn lực lao động, chất lượng và cơ cấu nguồn
nhân lực nước ta còn nhiều bất cập và yếu kém. Về tổng thể, thị trường lao động của
Việt Nam có đặc điểm cung lớn hơn cầu. Tỷ lệ lao động qua học nghề, nhất là đào tạo
nghề chính quy còn thấp dẫn đến chất lượng lao động thấp, nguồn nhân lực dư thừa, phân
bố mất cân đối. Lực lượng lao động tuy đông, giá thành thấp song chất lượng chưa cao,
năng suất lao động hạn chế nên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Hiện nay tỷ lệ
lao động qua đào tạo rất thấp trong tổng số lực lượng lao động xã hội (xấp xỉ 20% năm
2005). Phần lớn lao động có tay nghề chuyên môn làm ở các cơ quan trung ương, và tập

trung ở thành thị. Ở nông thôn, lao động qua đào tạo chỉ chiếm 10%. Đặc biệt có sự khác
biệt khá lớn về trình độ nguồn nhân lực giữa nông thôn và thành thị. Vấn đề cũng còn nổi
cộm hiện nay là công tác đào tạo - phát triển chính nguồn nhân lực có tay nghề. Bên cạnh

25


×