Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.66 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC TÂN

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH
VỰC QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC TÂN

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH
VỰC QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tài liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nào. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài
liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ và chính xác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN NGỌC TÂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH...............5
1.1. Những vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo.......................................................................................................................... 5
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo............................................................................................... 15
1.3.Kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong việc xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.................................................................................................. 28
Chương 2. THỰC TRẠNG XỬ LÝ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM............33
2.1. Thực trạng hoạt động quảng cáo và các dạng hành vi cạnh tranh không làn
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt...........Nam.............................................. 33
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo............................................................................................................. 42
2.3 Thực trạng xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo ở Việt Nam.................................................................................................... 49
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ HÀNHẠNHVI CTRANH KHÔNG LÀNH

MẠNH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...56

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật xử lý hành viạ nhc tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.......................................... 56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý hành viạ nhc tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.................................................... 57
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt.............Nam.........................73
KẾT LUẬN............................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Một nền kinh tế
thị trường sẽ không phát triển nếu không có cạnh tranh, và để thúc đẩy cạnh
tranh thì quảng cáo là một yếu tố hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Do đó, hoạt
động quảng cáo không chỉ đơn thuần là một hành vi thương mại mà nó cũng là
một biện pháp, một hành vi cạnh tranh không thể thiếu trong kinh doanh.
Hoạt động quảng cáo ở Việt Nam được hình thành cùng với sự chuyển
hướng của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường,
quảng cáo là một hành vi thương mại tuy không còn mới mẻ, nhưng hiện tại có
rất loại hình quảng cáo khiến lĩnh vực này đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ảnh
hưởng đến hoạt động cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp nước ngoài và làm xấu môi
trường kinh doanh của Việt Nam. Pháp luật điểu chỉnh với những hoạt động này
còn bất cập. Cụ thể là các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động quảng cáo
được qui định ở luật quảng cáo 2012, pháp luật điều chỉnh cạnh tranh ở luật cạnh
tranh 2003 có hiệu lực 1/7/2005 Luật Cạnh tranh có hiệu lực góp phần tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều hình thức quảng cáo không lành
mạnh dễ dàng khiến cho doanh nghiệp chân chính thiệt hại, lâm vào hoàn cảnh
phá sản và người tiêu dùng bị ảnh hưởng mua sản phẩm nhưng chất lượng, giá cả
không đúng như quảng cáo đưa ra tiền mất tật mang. Điều này làm cho thị
trường trở nên bất ổn. Trong khi đó, pháp luật cạnh tranh vẫn chưa phát huy
được vai trò của mình trong việc hạn chế các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh. Trước tình hình này, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh
tranh điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo nhằm bảo
vệ quyền lợi doanh nghiệp, người tiêu dùng, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh là rất cần thiết. Vì vậy, học viên xin chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình
là: “Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại theo
pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu các quy định về hành vi này dưới
góc độ pháp luật cạnh tranh.

1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu, phân tích vấn đề cạnh tranh không lành mạnh tương đối
mới mẻ nhưng đã có nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu, đã
có một số công trình nghiên cứu có giá trị được công bố. Có thể kể đến một số
công trình có giá trị liên quan trực tiếp đến chuyên ngành cũng như đề tài luận
văn như: Luận văn Tiến sĩ luật học của tác giả Hồ Thị Duyên về “Pháp luật về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay”;
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Dũng Hải về “Hoạt động quảng cáo
thương mại ở Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sĩ
Luật học về “Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”
của tác giả Đào Thị Tuyết Vân; “Pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo so sánh
của Liên minh Châu Âu và Việt Nam- Nghiên cứu dưới góc độ so sánh luật” của
tác giả Trương Hồng Quang….

Ngoài ra có ít công trình nghiên cứu về Cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo theo pháp luật hiện nay, vì luật cạnh tranh 2018 có hiệu lực là
ngày 1/7/2019 hiện tại khi làm luận văn vẫn chưa có hiệu lực cho nên chưa nắm
rõ tình hình thực trạng của luật, mặt khác luật cạnh tranh 2004 vẫn còn nhiều
điểm bất cập,chưa hợp lý, chưa rõ ràng cụ thể và thiếu tính thực thi vì vậy đề tài
nghiên cứu “Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương
mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là cần thiết và có ý nghĩa.
3.

Mục đích và nhiệmvụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứ : Phát hiện những nguyên nhân, bất cập, mâu thuẫn,

chồng chéo, những vấn đề còn chưa rõ ràng hay bất hợp lý, thiếu khả năng thực
thi trong thực tiễn của các quy đinh pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo
nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh. Từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
cũng như pháp luật về quảng cáo.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện
các nhiệm vụ sau đây:

2


Một là: Làm rõ những vấn đề về mặt lý luận, về mặt khái niệm, vai trò,
những tác động của quảng cáo đối với sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường.
Hai là: phân tích, nghiên cứu pháp luật thực định về quảng cáo, tính hiệu
quả của cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo.
Ba là: Phát hiện, phân tích những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong nội
dung các qui định pháp luật cũng như thực tiễn thi hành các qui định đó và đề

xuất kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng nghiên cứu:

Thứ nhất luận văn nghiên cứu các qui định pháp luật điều chỉnh nhũng hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo và các qui định pháp luật
liên quan trong hệ thống pháp luật cạnh tranh.
Thứ hai luận văn nghiên cứu các qui định về pháp luật quảng cáo, pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo của một số nước
khác trong khu vực và trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung liên quan đến hoạt
động quảng cáo trong pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng.
Đồng thời tìm hiểu quá trình thực thi pháp luật về vấn đề này, từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm khắc phục tình trạng quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt đề tài, học viên sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp

nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp; phương pháp
diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tiếp cận liên ngành…. Và nhiều
phương pháp nghiên cứu của các ngành Khoa học xã hội nói chung cũng như
ngành luật học nói riêng.

3



6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu

dưới góc độ lý luận kinh tế cụ thể làCạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại. Luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu trong tham khảo trong việc điều chỉnh hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp,
người tiêu dùng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
thương mại tại Việt Nam.
Luận văn có thể sử dụng để tham khảo, xây dựng giải pháp nhằm khắc
phục tìnhtrạng quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có kết cấu gồm ba chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo và pháp luật điều chỉnh
Chương 2: Thực trạng chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam theo quy định của pháp luật
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay

4



Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1. Những vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh.
a. Khái niệm về cạnh tranh
Khi nền kinh tế thị trường xuất hiện thì khái niệm cạnh tranh ra đời. Nền
sản xuất hàng hóa ra đời cùng với cạnh tranh và trở thành đặc trưng của kinh tế
thị trường. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế vừa là môi trường,
vừa là động lực nội tại thúc đẩynền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế thị
trường, các chủ thể tham gia vào các hoạt động kinh tế có quyền tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh theo quy luật khách quan của nó và nhiều hìnhthức sở
hữu được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế
thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh:
Từ điển kinh doanh của Anh (xuất bản năm 1992): Cạnh tranh được xem là sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình [20].
Theo pháp luật của Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, “cạnh tranh là việc tranh đua giữa các
nhà kinh doanh nhằm tìm kiếm và bảo toàn một loại khách hàng trên thị trường” .

Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: Cạnh tranh là hoạt động tranh
đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu, nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất [19].
Như vậy, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế, những người sản xuất và
buôn bán hàng phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, tổ chức quản lí để tăng năng
suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá, thay đổi mẫu mã, bao bì phù hợp
với thị hiếu của khách hàng; giữ uy tín; cải tiến nghiệp vụ thương mại và dịch vụ,

bình ổn giá thành hoặc giảm giá bán và tăng lợi nhuận.

5


Về vấn đề "cạnh tranh" ở Việt Nam, một số nhà khoa học cho rằng, cạnh
tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa - dịch vụ (mua và bán). Mục đích
trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành
lợi thế để hạ thấp giá cả của các yếu tố "đầu vào" trong chu trình sản xuất - kinh
doanh và nâng cao giá "đầu ra", sao cho giành được mức lợi nhuận cao nhất với
mức chi phí hợp lý nhất.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau và định nghĩa có thể là khái
quáthay cụ thể đi nữa thì nhìn chung, cạnh tranh có những điểm đặc trưng sau:
-

Là sự ganh đua, tranh giành quyền lợi, ảnh hưởng;

Chủ thể là các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh trong cùng một

thịtrường liên quan;
-

Các chủ thể cạnh tranh đểu có chung một mục đích sinh lời.

Tóm lại, bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều có
chung một mục đích là phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động cạnh tranh
luôn diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định. Do vậy, cạnh tranh
được xem là một hiện tượng xã hội mang bản chất kinh tế và xã hội riêng có.
Bản chất kinh tế củacạnh tranh thể hiện mục đích vì lợi nhuận và chi phối thị
trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh doanh và uy tín kinh

doanh của mỗi chủ thể cạnhtranh trong quan hệ đối với những người lao động
trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh.
Như vậy qua các khái niệm đã nêu ở trên ta có thể hiểu một cách đầy đủ:
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau để
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng và các điều kiện thuận lợi trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh
giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia thị trường.
b. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế-xã hội, cạnh tranh có tính hai mặt,
hai mặt mâu thuẫn nhưng cùng thống nhất trong một hiện tượng khách quan.
Cạnh tranh có tính tích cực khi nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển thông

6


qua việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm....
Nhưng nó sẽ là tiêu cực khi trở thành công cụ để triệt tiêu nhau giữa các doanh
nghiệp bằng nhũng thủ đoạn mà không phải bằng chính năng lực cạnh tranh thực
sự của mình. Dựa vào mục đích và tính chất của các phương thức thực hiện hành
vi cạnh tranh đó, người ta phân cạnh tranh thành hai loại: hành vi cạnh tranh biểu
hiện tính tích cực là cạnh tranh lành mạnh và những hành vi biểu hiện tính tiêu
cực được gọi là cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, hành vi cạnh tranh được
coi là lành mạnh khi đảm bảo các tiêu chísau:
-

Tuân thủ pháp luật;

-

Tôn trọng truyền thống, tập quán kinh doanh;


Tôn trọng đạo đức kinh doanh được nhà nước và xã hội chấp
nhận;
Kết hợp hài hoà lợi ích của người kinh doanh với lợi ích của
những
ngườikhác, lợi ích của nhà nước và xã hội.
Hành vi cạnh tranh vi phạm một trong các tiêu chí trên được coi là cạnh
tranh không lành mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh làm triệt tiêu đối thủ cạnh
tranh, lừadối khách hàng ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng cũng như
có tác động xấu đến môi trường kinh doanh. Do vậy, pháp luật mỗi nước có cách
gọi khác nhau đối với hành vi này nhưng nhìn chung đều phân biệt cạnh tranh
thành: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh có tính chất tương đối và luôn
thay đổi do các hành vi cạnh tranh luôn thay đổi, rất đa dạng và phức tạp cùng
với sự vận động của nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, việc xác định cạnh tranh
lành mạnh hay không lành mạnh còn phụ thuộc vào quan niệm, truyền thống văn
hoá, đạo đức và tập quán kinh doanh. Do đó, về mặt lập pháp, thay vì đưa ra một
khái niệm lập pháp về cạnh tranh không lành mạnh, đa số pháp luật về cạnh
tranh các nước dã liệt kê trong văn bản pháp luật về cạnh tranh nước mình những
hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh và quy định các chế tài xử Lí.
Theo Khoản 2, Điều 10,Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh như sau: “Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào


7


trái với các hoạt động thực tiễn trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương
mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”
Theo Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam quy định:

“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng” [9].
Tóm lại, dù được định nghĩa dưới hình thức nào thì những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thường được thể hiện dưới các kiểu điển hình như, Xâm
phạm đến quyền sở hữu công nghiệp (sử dụng không xin phép tên doanh nghiệp;
nhái nhãn hiệu hàng hoá, biểu tượng... của doanh nghiệp khác đã được đăng ký;
nhái kiểu dáng, bao bì sản phẩm của doanh nghiệp khác gây nhầm lẫn cho khách
hàng…); Quảng cáo so sánh, quảng cáo gian dối gây nhầm lẫn; Khuyến mại bất
hợp pháp; Dèm pha bôi nhọ đối thủ; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Phân biệt đối
xử giữa các doanh nghiệp khách hàng; Cản trở, can thiệp vào sự lựa chọn của
khách hàng trong quá trình mua bán hàng hoá...
Những hành vi này đều dẫn đến hậu quả là vì lợi ích của mình mà gây tổn
hại đến lợi ích của người khác. Nên nó là một hành vi cần phải điều chỉnh bởi
pháp luật để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh.
1.1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
1.1.2.1 Khái niệm quảng cáo, vị trí, vai trò của quảng cáo.
a. Khái niệm và đặc điểm của quảng cáo.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển mạnh như hiện nay thì một trong
những việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp không thể thiếu là quảng cáo.
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc
giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt
động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn
truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa
thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin.

8



Quảng cáo là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi, thói quen mua
hàng của người tiêu dùng hay khách hàng bằng cách cung cấp những thông điệp
bán hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay dịch vụ của người bán.
Thi trường là khu vực và không gian trao đổi hàng hoá. Nhưng tự
chúng,hàng hoá không thể đi tới thị trường và trao đổi với nhau được, điều đó
chỉ đượcthực hiện thông qua những chủ thể với những quan hệ kinh tế đan xen
phát sinhtrong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng mà sợi dây liên kết với
nhau là traođổi hàng hoá. Đê thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra nhanh
hơn, hiệu quảhơn, biện pháp tác động trực tiếp chính là quảng cáo.Cho đến nay,
quảng cáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoahọc, được coi là một
hiện tượng xã hội gắn liền với hình thái thị trường của mỗiquốc gia.
Khái niệm về quảng cáo được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế:
Trong Xã hội chủ nghĩa quảng cáo là để báo tin đúng đắn về hàng hoá đã
có, về tínhnăng và phẩm chất của hàng hoá. Quảng cáo dùng để khêu gợi những
thị hiếu củangười tiêu dùng, tuyên truyền những hàng hoá mới để có thể nâng
cao trình độ tiêudùng của nhân dân” .
Theo Từ Điển Black’s Law: “ Quảng cáo là việc khuyến cáo, thông báo,
đềnghị, giới thiệu hay đưa ra thông tin để gây sự chú ý của công chúng bằng bất
kỳmột phương tiện nào như bằng miệng hay bằng văn bản hoặc áp phích do
người bán thực hiện bằng bất kỳ cách nào để đáp ứng yêu cầu kinh doanh, không
bị giới hạn về số lương, lời nói và được in trên báo hay các sản phẩm khác hoặc
trên radio hay truyền hình hoặc những hình thức truyền tải thông tin như tờ rơi,
dấu hiệu,catalo hay thư từ ... hay những nhãn hiệu đính kèm”
Dưới góc độ pháp lý:
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 của Việt Nam quy định
“Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục
đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới
thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân.”[11]


9


Theo Điều 2 của Luật Quảng cáo của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa định nghĩa: “ Quảng cáo là việc mà một nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ trả
tiền cho việc giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của họ một cách trực tiếp hay giántiếp
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng dưới mọi hình thức để thông
tintrên diện rộng” [11].
b. Đặc điểm của quảng cáo.
Mặc dù có nhiều khái niệm pháp lý khác nhau về quảng cáo thương
mại,nhưng nhìn chung các định nghĩa đều thể hiện được nhũng đặc điểm cơ bản
saucủa hành vi quảng cáo:
+

Quảng cáo là hoạt động quảng bá, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của nhà

sản xuất.Trong nền kinh tế sản xuất, không có sản phẩm nào sản xuất ra lại tự nó
đi đến tay người tiêu dùng và được người tiêu dùng chấp nhận một cách vô điều
kiện.Bất kỳ một nhà sản xuất nào muốn tiêu thụ được hàng hoá đều phải có hoạt
động quảng bá, giới thiệu về sản phẩm của mình về tính năng, chất lượng, mẫu
mã nhận biết của sản phẩm. Giới thiệu hàng hoá, dịch vụ ở đây được hiểu là giới
thiệu về các tính năng, công dụng, sự thiết yếu của sản phẩm đối với người tiêu
dùng. Chính vì vậy, hoạt động quảng cáo sẽ có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực
kinh tế xã hội khác,như liên quan đến vấn đề sở hữu công nghiệp (nhãn mác
hàng hoá, kiểu dáng côngnghiệp...) ,y tế (chất lượng sản phẩm), văn hoá (hình
thức giới thiệu có vi phạm đạo đức xã hội, truyền thống văn hoá dân tộc hay
không)...
+


Quảng cáo được thực hiện thông qua các phương tiện quảng cáo.Quảng

cáo là một khái niệm trừu tượng tổn tại dưới dạng âm thanh, chữ viết,lình ảnh.
Do đó, phải được thể hiện trên một vật mang thông tin nhất định là phương tiện
quảng cáo. Các phương tiện quảng cáo ở đây được hiểu là phương tiện thông tin
đại chúng như radio, truyền hình, báo chí, bảng, biển, panô, áp phích.. .hay các
vật thể di động như ô tô, tàu hoả, xe điện, xe đẩy hàng rong... Quảng cáo được
thực hiện thông qua nhiều phương tiện quảng cáo khác nhau, nhưng việc thực
hiện thông qua phương tiện thông tin đại chúng là một đặc trưng ưu thế của

10


quảng cáo so với các hình thức xúc tiến thương mại khác như triển lãm, hội chợ,
trưng bày hàng hoá.
+
Đối tượng của quảng cáo là khách hàng.Nhiệm vụ của quảng cáo
là đưa
thông tin về sản phẩm đến với khách hàngnhằm bán được nhiều hàng hoá, nên
đối tượng tác động trực tiếp của quảng cáo chính là khách hàng. Khách hàng ở
đây có thể hiểu là bán hàng kinh doanh hay người tiêu dùng. Trong đó, bán hàng
kinh doanh có thể coi là đối tượng trung gian,còn người tiêu dùng mới là đối
tượng tiêu thụ sản phẩm cuối cùng.
+

Mục đích của quảng cáo là vì uy tín của sản phẩm, của doanh nghiệp, vì

lợi nhuận.Mục đích của quảng cáo là thuyết phục và thông tin cho dân chúng,
gửi tới họ các thông điệp. Nếu dân chúng nhận được một thông điệp sai sự thật,
thì trong lẩn tới có khả năng họ sẽ không lưu tâm nữa. Nếu như thông điệp gây

chướng tai gai mắt cho người ta thay vì tạo ảnh hưởng thuận lợi, thì nó sẽ là sự
lãng phí. Nếu coi “ cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường thì quảng cáocó
thể được coi là một phần diện mạo của cạnh tranh. Với chức năng thông tin của
quảng cáo, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều được thể hiện thông
qua phương thức quảng cáo một cách trực tiếp.
c. Vị trí, vai trò của quảng cáo.
Hàng hoá cũng không thể tự nó đi đến với người tiêu dùng mà hàng hoá
và dịch vụ đó phải thông qua lưu thông, tiếp thị, quảng cáo. Nhờ vào quảng cáo
mà người tiêu dùng biết đến sản phẩm, thông qua quá trình lưu thông mà hàng
hoá đến được tay người tiêu dùng. Quảng cáo không chỉ là phương thức cung
cấp thông tin đến người tiêu dùng mà nó còn là một chiêu thức để tranh giành
ảnh hưởng giữa các hàng hoá thuộc cùng một loại sản phẩm, nó tác động trực
tiếp đến sự lựa chọn của người tiêu dùng. Do vậy, quảng cáo thương mại với vị
trí là một hoạt động xúc tiến thương mại nhằm phát triển hoạt động kinh doanh,
là một hành vi cạnh tranh quantrọng không thể thiếu trong kinh doanh. Với vị trí
đó, quảng cáo có vai trò rất quan trọng trong cạnh tranh, cụ thể là:

11


-

Quảng cáo có vai trò xúc tiến thương mại, quảng cáo tên tuổi của doanh

nghiệp, của sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ
đó,quảng cáo tạo nên sự đe doạ đối thủ cạnh tranh, tạo vị thế độc quyển cho hàng
hoá, dịch vụ của mình trên thương trường. Để đạt được mục đích nói trên,
quảng cáo sẽ tác động theo hai xu hướng đến môi trường cạnh tranh: quảng cáo
trung thực và quảng cáo gian dối. Quảng cáo trung thực có tác động tích cực đến
thị trường thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh

nghiệp. Ngược lại, quảng cáo gian dối là một biểu hiện của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có tác động xấu đến quyền tự do kinh doanh của các doanh
nghiệp khác và ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
-

Quảng cáo khuyên khích nhu cầu và quyết định của khách hàng vào

hàng hoá hoặc dịch vụ được cung cấp. Vai trò ban đầu của quảng cáo là chức
năng truyền tải thông tin về hàng hoá và dịch vụ đến người tiêu dùng. Thị hiếu
người tiêu dùng thường quyết định phương pháp, cách thức tiếp cận của nhà sản
xuất. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thì người tiêu dùng cũng như
người bán hàng có rất nhiều cách tiếp cận thông tin một cách dễ dàng và đa dạng.
Vì vậy, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải cực kỳ tỉnh táo, cần có những
nghệ thuật quảng cáo tinh vi.Ngày nay, quảng cáo đã trở thành vai trò định hướng
cho tiêu dùng. Điều này làm che mờ các khái niệm truyền thống về quảng cáo do
người tiêu dùng ngày càng có xu hướng sử dụng sàn phẩm, dịch vụ không phải vì
chức năng của nó mà vì vai trò của nó. Quảng cáo có thể tạo ra sự lệ thuộc của
khách hàng vào hàng hoá, dịch vụ được cung cấp.
-

Quảng cáo mang tính định hướng thẩm mỹ, kích thích sáng tạo của các

doanh nghiệp, làm đa dạng hoá phương thức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Vai trò này của quảng cáo là hệ quả của vai trò khuyến khích nhu cầu người tiêu
dùng nói ở trên. Bởi lẽ quảng cáo muốn thu hút khách hàng chú ý đến sản phẩm,
dẫn dụ người tiêu dùng thì nó phải thể hiện được sức hấp dẫn, lôi cuốn nội dung
cũng như hình thức của quảng cáo. Theo một học giả người Pháp thì người ta
mua một sản phẩm tức là người ta mua một sự thích thú. Phải chăng vì lý do đó

12



mà quảng cáo đã trở thành một trong những biện pháp xúc tiến thương mại rất
phổ biến và có vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt là trong vai trò tác động đến
tâm lý, sở thích của khách hàng để kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên, việc khai
thác yếu tố tâm lý này không phải bao giờ cũng lành mạnh mà đôi khi nó cũng
có những biểu hiện không lành mạnh.
Ví dụ như quảng cáo thời trang rất có ảnh hưởng đến định hướng thẩm mỹ
của giới trẻ. Những kiểu quần áo không phù hợp với truyền thống văn hoá của
Việt Nam, nhưng bằng biện pháp sử dụng các minh tinh màn bạc quảng cáo cho
sản phẩm khiến cho những mẫu đó trở thành ‘"tiêu chí sành điệu” cho giới trẻ do
họ muốn giống thần tượng của mình. Điều đó giải thích nguyên do của những sở
thích tóc đỏ, môi đen mà dư luận vẫn phê phán. Có thể nói, quảng cáo không chỉ
có vị trí quan trọng trong cạnh tranh mà nó còn rất có ý nghĩa về mặt xã hội, và
bằng việc tác động đến xúc cảm, tình cảm , đến sở thích của người tiêu dùng,
quảng cáo có vai trò định hướng thẩm mỹ cho người tiêu dùng.
-

Quảng cáo cũng góp phần thúc đẩy phát triển xã hội. Bởi vì nếu hàng

hoá được bán nhiều hơn do hiệu quả của quảng cáo, thì chi phí đầu vào của các
nhà sản xuất sẽ giảm và điều này làm cho giá thành giảm, như vậy quảng cáo đã
giúp chongười tiêu đùng được mua hàng với giá rẻ hơn. Việc bán được nhiều hàng
hoá, hàng hoá không chỉ giúp ích cho nhũng người cần sử dụng nó mà nó cũng là
nguyên do tạo thêm nhiều công ăn việc làm trong khu vực sản xuất kinh doanh.

Tại các nước phát triển, quảng cáo nếu được sử dụng hợp lý sẽ đóng một
vaitrò hết sức quan trọng trong việc thành công hay thất bại của nhà sản xuất,
cung ứng dịch vụ. Chi phí quảng cáo là một khoản chi phí mang tính bắt buộc và
chiếm một tỷ lệ 20% đến 30% cho chi phí kinh doanh [26].

Với vị trí, vai trò của quảng cáo trong cạnh tranh, cùng với các lĩnh vực
pháp luật khác trong hệ thống văn bản pháp luật cạnh tranh, pháp luật quảng cáo
góp phần tạo thành cơ chế điều chỉnh các quan hệ pháp luật cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo được điều tiết bằng hoạt động quản lý nhà nước.

13


1.1.2.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Cũng như lý luận chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở trên,
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo cũng mang những
đặc trưng chung nhất của một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
của Công ước Paris. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng của ngành quảng cáo,
những Hành vi quảng cáo không lành mạnh có những đặc điểm riêng.
Khái niệm hành vi quảng cáo không lành mạnh tuỳ thuộc vào đặc điểm
pháp lý và truyền thống văn hoá, tập quán kinh doanh của mỗi nước. Pháp luật
mỗi quốcgia quy định hành vi quảng cáo không lành mạnh có thể khác nhau, ví
dụ như Luật quảng cáo của Mỹ (Luật của hội đổng thương mại liên bang - FTC)
không cấm hình thức quảng cáo so sánh miễn sao nhà quảng cáo chứng minh
được "luận điểm" của mình, trong khi đó pháp luật của Trung Quốc, Malaysia,
Việt Nam... lại cấm nội dung quảng cáo này. Nhưng nhìn chung, khi nghiên cứu
về các hành vi này, ngoàicác tiêu chí chung ra, quảng cáo không lành mạnh được
xác định dựa trên nhữngtiêu chí sau:
+
Căn cứ vào tính pháp lý : quảng cáo hợp pháp và quảng cáo
không hợp
pháp. Theo đó, quảng cáo không lành mạnh thường là những quảng cáo không
hợp pháp.Pháp luật là một tiêu chí để phân biệt quan hệ pháp luật, hành vi pháp
luật rõ ràng nhất, những hành vi mà pháp luật cho phép là những hành vi hợp
pháp, và ngược lại. Tuy nhiên, pháp luật không phải là một cái áo quá rộng để

bao trùm hế tmọi hành vi quảng cáo được xem là không lành mạnh. Thực tế có
những hành vi quảng cáo không vi phạm pháp luật nhưng lại vi phạm các quy
phạm đạo đức cũng bị coi là hành vi quảng cáo để cạnh tranh khống lành mạnh.
Đây là lý do phải có sự kết hợp trong điều chỉnh các hành vi quảng cáo không
lành mạnh bằng quy phạm pháp luật và các quy phạm đạo đức, tập quán sẽ được
phân tích ở phần sau của luậnvăn.
+ Căn cứ vào nội dung: quảng cáo trung thực và quảng cáo gian dối. Đây
là một trong những căn cứ quan trọng trong việc xác định hành vi quảngcáo nào
là hành vi cạnh tranh lành mạnh hay hành vi cạnh tranh không lành mạnh.Theo

14


đó, quảng cáo không lành mạnh là những hành vi quảng cáo gian dối, sai sựthật
bằng các thủ pháp như so sánh, đưa thông tin quảng cáo quá lời...với mụcđích xâm
hại trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và đối thủ cạnhtranh.

1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo
1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Theo quan điểm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, “ điều chỉnh
pháp luật là việc Nhà nước dựa vào pháp luật, sử dụng các phương tiện pháp lý
đặc thù quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, hành
vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác
dộng đến các quan hệ xã hội theo phương hướng nhất định.
Hiểu theo nghĩa này, điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo tại Việt Nam là việc Nhà nước định
ra luật và ban hành pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo để dựa vào pháp luật điểu chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực

hoạt động quảng cáo tại Việt Nam, nhằm xác lập những quyền và nghĩa vụ cụ thể
của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ này, đổng thời tạo cơ chế để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ
Cơ chế điều chỉnh pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong bất
kỳ lĩnh vực chuyên ngành nào cũng bao gồm các quy phạm pháp luật xác định
hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh; trách nhiệm pháp lý của các chủ
thể thực hiện hành vi; trình tự, thủ tục khiếu nại và thủ tục giải quyết; các biện
pháp chế tài được áp dụng.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật cạnh tranh đối với hành vi quảng cáo không
lành mạnh là một hệ thống các biện pháp pháp luật có mối quan hệ mật thiết với
nhau, ác động lẫn nhau, thông qua đó mà thực hiện sự tác động lên các quan hệ
trong lĩnh vực quảng cáo. Hệ thống đó bao gồm: các qui phạm pháp luật cạnh
tranh nói chung là qui phạm pháp luật quảng cáo nói riêng, các quan hệ pháp luật

15


cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo và việc thực hiện pháp luật cạnh tranh trong
lĩnh vực này.
1.2.2. Mục đích, phạm vi và đối tượng điều chỉnh
Khi xây dựng một văn bản pháp luật bất kỳ, nhà làm luật luôn phải xác
định được rằng văn bản pháp luật này được ban hành với mục đích gì? phạm vi
điều chỉnh của nó đến đâu? và đối tượng điều chỉnh của nó là cái gì? Trả lời
được ba câu hỏi này tức là đã xác định được những nội dung cần quy định trong
văn bản.
Do quảng cáo có những đặc thù riêng so với các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh khác nên điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này cần xác lập một cơ
chế điều chinh phù hợp với qui luật vận động của nó mới đạt được hiệu quả pháp
luậtnhư mong muốn.
1.2.2.1. M ục đích điều chỉnh

-

Ngăn chặn các hành vi quảng cáo sai trái bằng việc quy định các quyền

và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quảng cáo.
các chủ thể có căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình,
tránh vi phạm pháp luật và có thể tố giác hành vi phạm luật;
-

Giải quyết các tranh chấp phát sinh và xử lý vi phạm nhằm mục đích răn

đe, giáo dục;
Xây dụng nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử trong kinh doanh và các
hoạt
động liên quan đến quảng cáo.
-

Nhằm xây dựng trật tự kinh doanh trong lĩnh vực hoạt động quảng cáo,

khuyến khích cạnh tranh và phát triển kinh doanh một cách lành mạnh thông qua việc
bảo vệ quyền lợi của đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, trật tự quản lý nhà nước.

1.2.2.2. Phạm vỉ điểu chỉnh.
Phạm vi điều chinh của pháp luật là phạm vi các quan hệ xã hội được
pháp luật nói chung điều chỉnh. Xác định phạm vi điều chỉnh là xác định “ranh
giới” của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Giới
hạn cho phép đó chứa đựng khả năng lựa chọn hành vi của các chủ thể. Việc xác

16



định phạm vi điều chỉnh đối với bất kỳ một lĩnh vực pháp luật nào cũng có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó định hướng cho sự phát triển của đối tượng điều chỉnh.
Và nói một cách khác phạm vi điều chỉnh của pháp luật được xác định bằng
chính các quan hệ giữa các chủ thể phát sinh bởi nhóm các hành vi thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực đó.
Phạm vi điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo là phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật quảng
cáo vàcác luật chuyên ngành có liên quan khác điều chỉnh. Theo đó, phạm vi
điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáođược xác định bởi các quan hệ giữa các chủ thể là Nhà nước, người
quảng cáo và khách hàng phát sinh bởi nhóm các hành vi quảng cáo so sánh,
quảng cáo gian dối...
Các hành vi đó được thể hiện thông qua các mối quan hệ xã hội sau:
Mối quan hệ giữa chủ quảng cáo với người tiêu dùng và đối thủ
cạnh tranh;

-

Mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể cạnh tranh

trong lĩnh vực quảng cáo, kinh doanh;
-

Mối quan hệ giữa cơ quan tài phán và các chủ thể cạnh tranh.

1.2.2.3. Đối tượng điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh được xác định bởi nhóm các hành vi quảng cáo sai
lệch, quảng cáo gian dối do các chủ thể kinh doanh tiến hành vì mục đích mục
đích xâm hại trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và đối thủ

cạnh tranh. Việc xác định được rõ đối tượng điểu chỉnh của pháp luật đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có ý nghĩa quyết định trong việc xác định
đối tượng áp dụng pháp luật điều chỉnh chúng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc xác định được mục đích, phạm vi và đối tượng
điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo, việc xác định những nguyên tắc điều chỉnh để hình thành nên chuẩn
mực phù hợp với đặc thù của lĩnh vực cần điều chỉnh là vô cùng quan trọng.
Những nguyên tắc điều chỉnh pháp luật này sẽ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình

17


xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể một cách logic, đạt được hiệu quả khi
áp dụng vào thực tiễn.
1.2.3. Nguyên tắc điều chỉnh

pháp luật về hành vi cạnh tranh không mạnh

trong lĩnh vực quảng cáo
1.2.3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp là yếu tố rất
quan trọng đối với một nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng là đảm bảo quyền
con người. Cùng với sự phát triển, quyền con người được đảm bảo, quyền tự do
kinh doanh tại Việt Nam đã có nhiều bước tiến mạnh mẽ và được bảo vệ bằng
khuôn khổ pháp lý... Lý thuyết về quyền tự do kinh doanh là một trong những lý
luận kinh điển của các học thuyết kinh tế trên thế giới mà điển hình nhất là của
Adam Smith (1723-1790)là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn
người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế, người cho
rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàntay vô hình”
dẫn dắt hoặc do quy luật khách quan chi phối. Theo ông, đảm bảo tự do kinh tế

chính là bảo đảm sự tự do cạnh tranh giữa các chủ thể thamgia thị trường trong
đó có việc bảo đảm quyền tự lựa chọn của người tiêu dùngtrong xã hội. Hoạt
động của nền kinh tế là sản xuất cái gì? cho ai? Sản xuấtnhư thế nào? Tất cả đểu
được giải quyết thông qua thị trường. Tuy nhiên, theoP.A Samuel son – nhà kinh
tế học, ông cho rằng hệ thống kinh tế thị trường không phải là hệ thống hỗn độn
vô chính phủ mà là một trật tự kinh tế. Để điều chỉnh nền kinh tế thị trường phá
ttriển hiệu quả, công bằng và có trật tự thì không thể thiếu được “ bàn tay vô
hình” của thị trường và “ bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Bởi vì: “ Cơ chế thị
trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó, Nhànước
điều tiết thị trường bằng các chính sách thuế, chi tiêu, trật tự phân phối lưu thông
và luật lệ. Cả hai bên thị trường và Nhà nước đều có tính chất thiết yếu. Điều
hành một nền kinh tế không có Nhà nước hoặc không có thị trường thì cũng như
con người định vỗ tay bằng một bàn tay.

18


Hình ảnh minh họa
Tóm lại, quyền tự do kinh doanh là quyền bất khả xâm phạm của mỗi chủ
thể kinh doanh, sự tự do này không phải là sự tự do tuỳ tiện mà nó phảilàm trong
khuôn khổ pháp luật của nhà nước trên tinh thần được làm những gì mà pháp
luật không cấm. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước phải phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, phải tôn trọng các quy luật khách quan
của nền kinh tế thị trường.
Quyền tự do kinh doanh là một quyền được thừa nhận và tôn trọng ở hầu
hết các nước trên thế giới, nó được coi là nguyên tắc hiến định của nhiều nước,
trong đó có Việt Nam. Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 đã nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm
2014 cũng quy định một trong các quyền của doanh nghiệp là “Tự do kinh

doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” [13].
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế theo quy định
của Hiến pháp, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014 và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý để ghi nhận quyền tự do kinh doanh của
người dân, giúp doanh nghiệp chủ động thực hiện kinh doanh các ngành, nghề mà
pháp luật không cấm. Quyền tự do kinh doanh được coi là nguyên tắc của các
nguyên tắc khác trong môi trường pháp lý kinh doanh. Quảng cáo thương mại là
một hành vi kinh doanh, do vậy nguyên tắc này cũng được coi là nguyên tắc xương
sống của các quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi này [15].

19


1.2.3.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể tham giavào hoạt
động quảng cáo.
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản, được thể
chế hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia. Nguyên tắc bình đẳng trước
pháp luật phản ánh những nội dung căn bản, đó là, tất cả mọi chủ thể tham gia
hoạt động quảng cáo có vị thế ngang nhau trước pháp luật và có quyền không bị
phân biệt đối xử. Quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh tế được
thể hiện trên hai khía cạnh, bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ kinh doanh
và quyền bình đẳng khi giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong cùng một điều
kiện như nhau, các chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo được hưởng quyền và
nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau.
Quyền bình đẳng trước pháp luật còn là quyền không bị pháp luật phân
biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ. Pháp luật luôn
đặt giá trị bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn để lấp đầy khoảng cách không bình
đẳng đó bằng việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau. Pháp luật là
thước đo chuẩn mực của bình đẳng, là công cụ để bảo đảm sự bình đẳng giữa con
người với con người. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng

các chế tài theo quy định của pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật, không
bị pháp luật phân biệt, đối xử còn là quyền được hưởng tất cả các quyền con
người như nhau ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Quyền được pháp luật bảo
vệ một cách bình đẳng là nhu cầu đòi hỏi cần có phương tiện, công cụ pháp lý từ
phía Nhà nước. Vì vậy, pháp luật ghi nhận các quyền bình đẳng và tạo ra cơ chế
bảo vệ quyền đó khi nó bị xâm phạm, với việc mọi hành vi vi phạm đều phải bị
xử lý như nhau trước pháp luật.
Quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể được thể hiện trên hai
khía cạnh, bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ kinh doanh và quyền bình
đẳng khi giải quyết các tranh chấp nảy sinh.Trong quan hệ pháp luật về quảng
cáo, các chủ thể tham gia vào quan hệ này bao gồm:

20


×