Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.67 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

PHẠM THỊ CÚC HOA

ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

PHẠM THỊ CÚC HOA

ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết
quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã
công bố.
Hà Nội, tháng 9 năm 2017
Tác giả

Phạm Thị Cúc Hoa


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo của Học viện Khoa học Xã
hội đã truyền dạy những kiến thức quý báu, cảm ơn TS. Đặng Vũ Huân - Tổng
biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành
tốt bản luận văn này.
Tác giả

Phạm Thị Cúc Hoa


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HCCT


Hạn chế cạnh tranh

HĐNQTM

Hoạt động nhượng quyền thương mại

KTTT

Kinh tế thị trường

LCT

Luật cạnh tranh

NQTM

Nhượng quyền thương mại

PLCT

Pháp luật cạnh tranh

SHTT

Sở hữu trí tuệ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KHOẢN

HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI.................................................................................................... 6
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI .......................................... 6
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI ................................................................................................................. 17
Kết luận Chương 1 ............................................................................................ 26
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KHOẢN . 27
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 27
2.1. NHẬN DIỆN MỘT SỐ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ......................... 27
2.2. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ GIỚI HẠN
KIỂM SOÁT ................................................................................................... 44
2.3. CHẾ TÀI XỬ LÝ ĐỐI VỚI CÁC ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI .......... 51
Kết luận Chương 2 ............................................................................................ 65
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT66
KIỂM SOÁT ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG ........... 66
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ........................................ 66
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT ĐIỀU
KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................... 66
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT ĐIỀU KHOẢN
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM....................................................................... 69
Kết luận Chương 3 ............................................................................................ 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhượng quyền thương mại cùng với các hình thức kinh doanh khác đã
tạo nên một bức tranh sống động của nền kinh tế thế giới. Hình thành từ thế kỷ
thứ XIX, hình thức này không ngừng được mở rộng, phát huy tính hiệu quả
trong kinh doanh. Tại Việt Nam, hình thức nhượng quyền thương mại hình
thành vào những năm 90 của thế kỷ XX và mang tính tự phát rất cao, dường
như không có nhiều cơ hội để tham gia hoặc thậm chí chứng kiến các sản phẩm
và dịch vụ của các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới tại Việt Nam. Tuy nhiên,
sau hơn 30 năm đổi mới và hơn 10 năm kể từ ngày gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã nổi lên là một trong số các quốc gia thu hút
các nhà đầu tư và các nhà nhượng quyền thương mại nhất. Bạn có thể bắt đầu
một buổi sáng đẹp trời với bạn bè tại Starbucks hoặc thưởng thức bữa trưa cùng
với gia đình tại các cửa hàng của KFC hay Lotteria. Bạn cũng có thể mua
những sản phẩm mới nhất của Nike hoặc Adias cũng như các thương hiệu nổi
tiếng khác trên thế giới tại chính các cửa hàng ở Việt Nam. Thay đổi này là kết
quả của mô hình kinh doanh hiệu quả – nhượng quyền thương mại (NQTM).
Với vai trò tích cực của mình, NQTM đã và đang được xem là cách thức
hiệu quả để các bên mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh bằng cách khai thác
các thương hiệu thành công thông qua việc chuyển giao quyền sử dụng các
quyền thương mại của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền. Giống như
các hoạt động thương mại khác, nội dung của quan hệ NQTM cũng thể hiện
các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên, tuy nhiên, HĐNQTM có những
đặc thù nhất định so với các hoạt động cụ thể khác, kể cả đối với đại lý thương
mại hoặc chuyển giao công nghệ. Trong HĐNQTM, bao giờ cũng có các điều
kiện về hạn chế cạnh tranh (HCCT) giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền. Chính vì vậy mà trong các quan hệ nhượng quyền có thể chứa đựng
những hạn chế có khả năng tác động đến môi trường cạnh tranh. Những hạn

chế này trong nhiều trường hợp được giải thích là cần thiết, hợp lý nhằm bảo vệ
lợi ích của bên nhượng quyền và danh tiếng của hệ thống nhượng quyền. Tuy
nhiên, dưới góc độ pháp luật cạnh tranh (PLCT), những điều kiện về HCCT
1


này có thể gây ra những hệ quả nhất định đối với môi trường cạnh tranh lành
mạnh, vì vậy, các bên phải hết sức cẩn thận khi đưa các điều kiện này vào trong
hợp đồng, vì nếu một điều khoản nào đó trái với pháp luật về cạnh tranh thì hợp
đồng có thể coi là vô hiệu. Điều kiện về HCCT muốn có giá trị pháp lý sẽ được
thể hiện trong hợp đồng NQTM. Đó là kết quả của sự thống nhất ý chí của các
bên, là cơ sở để các bên thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình và căn cứ pháp lý
khi có tranh chấp xảy ra. Có thể nói, hợp đồng NQTM có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với các bên tham gia quan hệ nhượng quyền.
Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ
ràng về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền. Các quy
định hiện hành chỉ đề cập đến các hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng
nhắc, chưa tiếp cận được bản chất phản cạnh tranh của các hành vi này. Việc
nghiên cứu để tìm hiểu rõ hơn về các điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM ở
Việt Nam và việc điều chỉnh, kiểm soát nó bằng pháp luật hiện nay như thế nào là
yêu cầu có tính cấp thiết. Đây cũng là lý do mà học viên lựa chọn đề tài “Điều
khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại theo
pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước khi có Luật Thương mại 2005, hầu như pháp luật nước ta không
đề cập đến hình thức kinh doanh NQTM còn khá mới mẻ này. Mặc dù cùng
nằm trong tổng thể pháp luật thương mại nói chung, song hai lĩnh vực cạnh
tranh và NQTM vẫn được quy định và có những điều chỉnh riêng, đặc thù, do
đó, khi đề cập đến điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM thì đây được coi
là một vấn đề khá lạ lẫm và có nhiều nội dung cần nghiên cứu, phân tích. Cho

đến nay, nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh các điều khoản HCCT và hợp
đồng NQTM dưới góc độ của PLCT có một số công trình đã đề cập đến như:
- Đào Đặng Thu Hường, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại trong
pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2007;
- Nguyễn Thanh Tú, “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ của pháp
luật cạnh tranh”, Luận án Tiến sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Lund, Thuỵ
Điển, 2007;
2


- Vũ Đặng Hải Yến, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2008;
- Nguyễn Thị Như Nguyên, “Pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng
quyền thương mại – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ
luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2012;
- Trần Thị Hồng Thúy, “Kiểm soát hợp đồng nhượng quyền thương mại
theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ”, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
- Nguyễn Thị Hồng Vân, “Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử, 2016.
Bên cạnh đó, còn có công trình đi sâu vào nghiên cứu lý luận, các quy
định hiện hành, phương thức kiểm soát và những vấn đề thực tiễn về các
TTHCCT trong hợp đồng NQTM như: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong
hợp đồng nhượng quyền thương mại” của ThS. Hằng Nga, Nxb. Tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh, 2009. Tuy nhiên, tác phẩm này có phạm vi bao quát khá rộng các
vấn đề liên quan đến TTHCCT trong hợp đồng NQTM ở cả hệ thống pháp luật
thế giới và Việt Nam sau khi Luật Thương mại 2005 được vận dụng vào thực tế
nên việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn còn nhiều khó khăn. Do đó, dựa trên
cơ sở tình hình nghiên cứu này, Luận văn sẽ kế thừa một số luận điểm nghiên

cứu, phân tích chuyên sâu pháp luật về TTHCCT trong toàn bộ hoạt động
NQTM nói chung, tập trung vào nghiên cứu hệ thống pháp luật và thực tiễn thi
hành ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại ở Việt Nam, từ đó, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về HCCT trong hợp đồng
NQTM tại Việt Nam.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh
trong nhượng quyền thương mại và pháp luật về hợp đồng nhượng chuyền
thương mại.
- Thực hiện nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về kiểm soát
điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về điều
khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam hiện nay, chỉ ra những bất cập, tồn tại của hệ thống pháp luật cũng như
thực tiễn quá trình áp dụng.
- Đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, thực tiễn và hệ
thống các quy định pháp luật điều chỉnh điều khoản HCCT trong hợp đồng
NQTM được quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Thương mại năm
2005 và các văn bản liên quan như: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các văn bản,
quy định pháp luật liên quan của các quốc gia khác trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM ở Việt Nam từ khi
Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Thương mại năm 2005 được ban hành đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm nghiên cứu được đặt ra, tác giả nghiên cứu đề
tài dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng
các phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
4


cơ bản về điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM; phương pháp so sánh
giữa các quy định của pháp luật về điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM
giữa các văn bản pháp luật liên quan như Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh,
giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.
Ngoài ra, để nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện các quy định về điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM, tác giả còn áp
dụng phương pháp hệ thống hoá, khảo sát thực tiễn và xã hội học kiểm chứng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống về
điều khoản HCCT hợp đồng NQTM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần xây dựng các giải pháp tổng thể
hoàn thiện pháp luật về điều khoản HCCT trong hoạt động NQTM, xây dựng cơ

chế thực thi pháp luật về vấn xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về vấn đề này
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự vận hành phương thức kinh doanh NQTM,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về điều khoản hạn chế cạnh
tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh điều khoản hạn chế cạnh
tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát điều
khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KHOẢN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hạn chế cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm hạn chế cạnh tranh
Một nền kinh tế phát triển lành mạnh luôn cần có cạnh tranh và tôn trọng
quyền tự do cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh. Song mặt trái của nền kinh
tế thị trường nói chung và của cạnh tranh nói riêng luôn tồn tại nguy cơ xuất
hiện những vấn đề mà nếu không được pháp luật kiểm soát sẽ dẫn đến triệt tiêu
cạnh tranh lành mạnh, mất động lực phát triển kinh tế, đó là những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh (HCCT) của các
doanh nghiệp. Mỗi hành vi này thường có mục đích và tác động đến nền kinh

tế ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Về khái niệm, bản thân Luật mẫu
về cạnh tranh của Liên Hợp quốc cũng như Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt
Nam đều không đưa ra định nghĩa pháp lý chính thức về hành vi HCCT. Các
quy định mới chỉ dừng lại ở việc xác định cụ thể những hành vi được coi là
hành vi HCCT theo kiểu liệt kê chứ chưa đưa ra những định nghĩa mang tính
định tính cho những hành vi này. Hành vi HCCT thông thường được chia ra
làm các nhóm như: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT); Lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền; Tập trung kinh tế. Trong đó, hành vi thỏa thuận
của các chủ thể kinh doanh là hành vi có thể dẫn đến nguy cơ HCCT nhiều nhất
trên thị trường.
Thứ nhất, nhóm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: TTHCCT là
hành vi thống nhất ý chí của từ hai doanh nghiệp trở lên nhằm tác động tiêu cực
lên thị trường cạnh tranh làm giảm, sai lệch kết quả cạnh tranh trên thị trường
đó. Các hành vi này có thể bao gồm: Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ

6


một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ,
nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; thoả thuận hạn chế hoặc kiểm
soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ; thoả thuận hạn
chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thoả thuận áp đặt cho doanh
nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc
doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối
tượng của hợp đồng; thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp
khác tham gia thị trường; thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh
nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; thông đồng để một hoặc các bên
của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch
vụ…Điều khoản về TTHCCT được coi là điều khoản hạn chế cạnh tranh chủ
yếu và phổ biến nhất trong hợp đồng NQTM.

Thứ hai, nhóm hành vi lạm dụng ví trí thống lĩnh, vị trí độc quyền: Theo
pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành, chủ thể của hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh và vị trí độc quyền là doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp. Doanh
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu như có thị phần từ 30%
trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh.
Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh nếu nhóm đó có tổng thị phần kết hợp
trên thị trường liên quan là từ 50% trở lên (đối với 2 doanh nghiệp); từ 65% trờ
lên (đối với 3 doanh nghiệp) và từ 75% trở lên (đối với 4 doanh nghiệp) [1].
Doanh nghiệp có vị trí độc quyền là doanh nghiệp không có đối thủ cạnh tranh
nào trên thị trường liên quan, nghĩa là hàng hóa hay dịch vụ mà doanh nghiệp
đó kinh doanh là độc nhất trên thị trường không có bất kì doanh nghiệp nào
khác kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó nữa.
Thứ ba, nhóm hành vi tập trung kinh tế: Tập trung kinh tế là hoạt động
của các doanh nghiệp nhằm tăng cường sức mạnh theo chiều ngang và chiều
dọc bằng những hình thức sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh hay những
hình thức khác theo quy định của pháp luật. Tập trung kinh tế bao gồm các
hành vi: Sáp nhập; hợp nhất; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh
nghiệp và những hành vi tập trung kinh tế khác…
7


1.1.1.2. Đặc điểm của hạn chế cạnh tranh
Thứ nhất, hành vi HCCT diễn ra giữa các doanh nghiệp hoạt động độc
lập trên thị trường. Theo PLCT, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận có thể là
đối thủ cạnh tranh của nhau hoặc không phải là đối thủ cạnh tranh tùy thuộc
vào thỏa thuận dọc hoặc thỏa thuận ngang. Ngoài ra, các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận phải độc lập với nhau (về tài chính, về ý chí) và không phải là
những người liên quan đến nhau về mặt pháp luật. Mặc khác, ý chí của các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải là ý chí độc lập của riêng doanh nghiệp
mà không phụ thuộc và không chịu tác động của bất kì ai như việc thực hiện

hành vi HCCT theo quyết định của công ty mẹ hay tập đoàn…
Trên thị trường các nhóm chủ thể có xu hướng liên kết với nhau nhằm
HCCT như: (i) Nhóm các chủ thể kinh doanh dẫn đầu sẽ có xu hướng thỏa
thuận với nhau về những vấn đề nhằm triệt tiêu cạnh tranh giữa họ và đảm bảo
vị thế của họ trên thị trường một cách lâu dài, hình thành này có khả năng dẫn
đến độc quyền nhóm; (ii) Nhóm các chủ thể kinh doanh có vị thế kém hơn so
với nhóm dẫn đầu sẽ luôn tìm và tạo ra các cơ hội để vươn lên. Một trong các
cách thức được sử dụng đó là liên kết lại với nhau nhằm tăng vị thế và sức
mạnh cạnh tranh trên thị trường, tạo ra những sức ép nhất định đối với những
chủ thể kinh doanh đang chiếm ưu thế nói trên.
Thứ hai, việc tiến hành hành vi có dấu hiệu lạm dụng, có mục đích làm sai
lệnh, cản trở, đặc biệt là mục đích loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường,
thông qua sức mạnh thị trường, năng lực cạnh tranh, liên kết với nhau…
Thứ ba, những hành vi HCCT bị cấm mặc nhiên hoặc có thể bị cấm nếu
thoả mãn những điều kiện nhất định, ví dụ như hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh hoặc độc quyền bị cấm chỉ khi doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên
hoặc có khả năng gây HCCT đáng kể (khoản 1, Điều 11 Luật cạnh tranh).
Thêm nữa, theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, chỉ các thỏa thuận sau đây
mới bị coi là TTHCCT, bao gồm: Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ,
8


nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; thoả thuận hạn chế hoặc kiểm
soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ; thoả thuận hạn
chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thoả thuận áp đặt cho doanh
nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc
doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối
tượng của hợp đồng; thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp
khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; thoả thuận loại bỏ khỏi thị

trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; thông đồng để
một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung
ứng dịch vụ.
Thứ tư, Các hành vi HCCT không những xâm hại trực tiếp đến lợi ích
của các chủ thể kinh doanh, lợi ích của người tiêu dùng xã hội, lợi ích của nền
kinh tế nói chung mà còn có thể phá vỡ hay làm thay đổi trật tự của một thị
trường, một lĩnh vực hay ngành hàng nhất định. Điều này cho thấy, mức độ ảnh
hưởng của hành vi này là tương đối rộng, có khi còn gây tác động tới một khu
vực thị trường rộng lớn như hành vi thoả thuận giữa các chủ thể cùng cấp độ
kinh doanh với nhau, liên quan tới giá cả, phân chia thị trường…
Như vậy, có thể thấy hành vi HCCT luôn hướng đến việc hình thành sức
mạnh thị trường hoặc lợi dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh
tranh trên thị trường bị biến dạng. Điều này có thể dẫn đến làm thay đổi cấu
trúc thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị
trường. Hành vi HCCT gây tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh và cần
phải kiểm soát nó bằng pháp luật và chính sách cạnh tranh của nhà nước [1].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.1.2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Xuất phát từ bản chất của hoạt động NQTM, hợp đồng về NQTM được
nhiều quốc gia trên thế giới quy định. Theo Hiệp ước EEC, “hợp đồng NQTM
là một thoả thuận trong đó, một bên là bên nhượng quyền cấp phép cho một
bên khác là bên nhận quyền khả năng được khai thác một “quyền thương mại”
9


nhằm mục đích xúc tiến thương mại đối với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ
đặc thù để đổi lại một cách trực tiếp hay gián tiếp một khoản tiền nhất định.
Hợp đồng này phải quy định những nghĩa vụ tối thiểu của các bên, liên quan
đến việc sử dụng tên thông thường hoặc dấu hiệu của cửa hàng hoặc một cách
thức chung; việc trao đổi công nghệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận

quyền; việc tiếp tục thực hiện của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền
trong việc trợ giúp, hỗ trợ thương mại cũng như kỹ thuật trong suốt thời gian
hợp đồng NQTM còn hiệu lực” [11, tr15]
Hợp đồng NQTM mang tính chất đặc thù, vì nó chứa đựng những yếu tố
của hợp đồng li-xăng, đó là việc hướng tới quyền sở hữu công nghiệp như sáng
chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp. Bên cạnh đó, hợp đồng này có
những đặc trưng của hợp đồng chuyển giao công nghệ khi mà nội dung của hợp
đồng luôn nhấn mạnh rõ vấn đề bên nhượng quyền phải chuyển giao về mặt
công nghệ, hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho bên nhận quyền. Không những thế, việc
tìm thấy hình bóng của hợp đồng đại lý hay hợp đồng cung ứng trong hợp đồng
NQTM đã đưa đến một thực tế rằng, hợp đồng NQTM là hợp đồng mang tính
đặc thù và phức tạp.
Ở Đức, mặc dù Hiệp hội NQTM của nước Đức đã đưa ra một khái niệm
chính thức về hoạt động NQTM, nhưng pháp luật thương mại của nước này lại
không đề cập đến khái niệm hợp đồng NQTM với tư cách là một loại hợp đồng
đặc thù, mà chỉ là một loại hợp đồng hợp tác để phân phối sản phẩm. Đối với
nước Đức, hợp đồng NQTM chỉ được nhận biết thông qua sự so sánh chúng
với các hợp đồng phân phối hàng hoá, dịch vụ với các đặc tính: (i) Trong hợp
đồng nhượng quyền, quan hệ cung ứng hàng hoá, dịch vụ từ phía bên nhượng
quyền cho bên nhận quyền không nhất thiết phải tồn tại với lý do bên nhận
quyền có thể tự mình sản xuất ra sản phẩm; (ii) Bên nhượng quyền trao toàn bộ
“quyền thương mại” dưới một thể thống nhất cho bên nhận quyền; (iii) Bên
nhận quyền vẫn có tên thương mại đăng ký theo quy định của pháp luật, mặc
dù dịch vụ hoặc hàng hoá mà bên này cung cấp trên thị trường lại không mang
tên thương mại đã đăng ký với Nhà nước [32].
10


Cộng hoà Pháp cũng không ban hành một luật riêng cho hoạt động
NQTM. Ở đây, các án lệ, các quy định của Hiệp hội NQTM Pháp được coi là

luật lệ chính điều chỉnh hoạt động NQTM. Hợp đồng NQTM được coi là một
tập hợp các thoả thuận của các bên chủ thể, trong đó các bên phải đề cập đến ít
nhất một số vấn đề chủ yếu liên quan đến: (i) Sự chuyển giao các yếu tố của
quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ từ bên nhượng quyền sang bên nhận
quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận; (ii) Sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối
với bên nhận quyền trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng; (iii) Nghĩa vụ tài
chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận quyền đối với bên
nhượng quyền. Với khái niệm này, hợp đồng NQTM đã thể hiện được đúng
bản chất pháp lý của hoạt động NQTM, giúp cho công chúng có thể dễ dàng
phân biệt được loại hợp đồng thương mại đặc biệt này với một số loại hợp đồng
khác có cùng một hoặc một số tính chất nhất định.
Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (FTC) [33], khái niệm một
hợp đồng NQTM là hợp đồng, theo đó bên giao hỗ trợ đáng kể cho bên nhận
trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều
hành doanh nghiệp của bên nhận; li-xăng nhãn hiệu cho bên nhận để phân phối
sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của bên giao; yêu cầu bên
nhận thanh toán cho bên giao một khoản phí tối thiểu.
Như vậy, hợp đồng NQTM là một tập hợp các thoả thuận của các bên
chủ thể, trong đó các bên phải đề cập đến các yếu tố có liên quan như: Sự
chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ từ bên
nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận; sự hỗ trợ
của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá trình thực hiện
hợp đồng; nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận
quyền đối với bên nhượng quyền [26].
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng NQTM mà
chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật Thương mại
năm 2005. Trên phương diện pháp luật, khái niệm hợp đồng NQTM được hiểu
11



là thoả thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền về việc xác lập, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện hoạt động thương
mại, mà ở đây là hoạt động nhượng quyền. Trên cơ sở đó, hợp đồng NQTM
cũng mang những đặc điểm của hợp đồng dân sự được quy định tại Bộ luật
Dân sự 2005, đồng thời thoả mãn các điều kiện của một hợp đồng thương mại.
Không đưa ra một khái niệm cụ thể về hợp đồng NQTM nhưng tại Nghị
định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ lại nêu định nghĩa về
các dạng đặc biệt của hợp đồng NQTM như hợp đồng phát triển nhượng quyền
thương mại hay hợp đồng thứ cấp, trong đó bên nhượng quyền có nghĩa vụ trao
quyền thương mại và cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật đối với việc kinh doanh
quyền thương mại cho bên nhận quyền, và bên nhận quyền có nghĩa vụ thanh
toán cho bên nhượng quyền. Bên nhận quyền có thể tiếp tục chuyển nhượng
quyền thương mại cho người khác nếu hợp đồng nhượng quyền thương mại đã
có thỏa thuận hoặc người đã chuyển quyền thương mại đồng ý cho chuyển tiếp
[7]. Theo ý kiến đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, việc đưa ra định nghĩa về
các loại hợp đồng đặc biệt là điều cần thiết. Tuy nhiên, khi giải thích về nghĩa
của các hợp đồng đặc biệt, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ NQTM.
Như vậy, ở đây có sự thiếu chính xác khi pháp luật không đưa ra định nghĩa về
hợp đồng NQTM mà lại dùng chính thuật ngữ này để diễn đạt cho các hợp
đồng khác có liên quan, đối chiếu với pháp luật của một số nước trên thế giới
thì điều này là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Dù hoạt động NQTM có phát triển như thế nào thì về bản chất, pháp luật
của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận NQTM không phải là
“việc kinh doanh” cụ thể nào đó mà là một phương thức kinh doanh. Đó chính
là phương thức hợp tác giữa ít nhất là hai bên chủ thể: Chủ sở hữu các quyền
SHTT (như nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, biển hiệu hay các
biểu tượng quảng cáo…) với một hoặc nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh
khác trong việc cùng khai thác giá trị thương mại của các đối tượng NQTM của
12



bên nhượng quyền. Đổi lại, bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí do
bên nhận quyền trả. Dựa vào bản chất đã phân tích, có thể thấy hoạt động
NQTM có một số đặc điểm sau:
Một là, về chủ thể: Hoạt động này bao gồm bên nhượng quyền và bên
nhận quyền, trong đó bên nhượng quyền bắt buộc phải là thương nhân có một
hệ thống và cơ sở kinh doanh đang có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Bên
nhận quyền là một doanh nghiệp độc lập về mặt tài chính, pháp lý và đầu tư,
đồng thời chấp nhận rủi ro đối với nguồn vốn bỏ ra khi thực hiện việc tham gia
vào hệ thống nhượng quyền của bên nhượng quyền. Điều này nghĩa là các bên
của hợp đồng NQTM là các thương nhân có quyền kinh doanh độc lập. Sự độc
lập này thể hiện ở chỗ, bên nhượng quyền khai thác hệ thống NQTM vì lợi ích
của chính mình và bên nhượng quyền được tự do thực hiện các hoạt động khác,
ngoài hợp đồng NQTM. Đặc điểm độc lập này là đặc điểm quan trọng giúp
phân biệt giữa quan hệ NQTM với quan hệ chi nhánh.
Hai là, về tính đồng bộ, thống nhất: NQTM là sự phát triển đồng bộ một
thương hiệu tạo ra sự thống nhất một hình ảnh các cửa hàng, để khách hàng vào
bất cứ cửa hàng nào trong hệ thống cũng đều cảm thấy thoải mái, hài lòng như
nhau. Hệ thống nhượng quyền như một guồng máy mà mỗi cửa hàng, cơ sở là
một mắt xích để tạo nên chính thể đó, sự thay đổi của một mắt xích tất yếu làm
ảnh hưởng tới cả hệ thống. Đây là điểm nhạy cảm của NQTM, bởi nó có thể
giúp phát triển danh tiếng của hàng hoá, hệ thống nhượng quyền một cách
nhanh chóng nhưng cũng có thế làm cho uy tín xây dựng trong một thời gian
dài của sản phẩm/dịch vụ nhượng quyền đó sụp đổ.
Ba là, về khái niệm “quyền thương mại”: Tuỳ thuộc vào từng loại hình
NQTM và sự thoả thuận của các bên mà nội dung của khái niệm này rộng, hẹp
khác nhau. Đây là một khái niệm trừu tượng, có mối liên hệ đặc biệt đối với
các đối tượng của SHTT. Theo cách hiểu NQTM là nhượng quyền phương thức
kinh doanh, thì quyền thương mại không chỉ dừng ở việc sử dụng tên thương

mại, kiểu dáng thiết kế của hàng hoá mà còn mở rộng không ngừng bao gồm
13


nhiều quyền năng khác trong hoạt động kinh doanh. Cũng như các quan hệ
khác, NQTM càng phát triển mở rộng, thì khả năng chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, tranh chấp càng cao. Sở dĩ như vậy là do, bản thân “quyền thương mại”
đã liên quan đến lợi ích thiết thân của một nhà kinh doanh. Việc nhượng lại
quyền thiết thân này cho một chủ thể kinh doanh khác để cùng kinh doanh,
cùng chia sẻ những lợi thế mà quyền kinh doanh đem lại, vì thế, chắc chắn sẽ
gây ra không ít tranh chấp, vì đặc điểm này mà NQTM phải được pháp luật
điều chỉnh.
Bốn là, về tính gắn kết của các bên trong hợp đồng NQTM: NQTM luôn
tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, sự
gắn bó này là vô cùng chặt chẽ. Bởi NQTM về bản chất là sự nhân rộng một
mô hình kinh doanh đã thành công, bên nhận quyền được bên nhượng quyền
chia sẻ các công thức kinh doanh, các bí quyết kinh doanh, phương thức kinh
doanh của bên nhượng quyền nhằm tạo ra sự đồng bộ ở tất cả các cửa hàng
nhượng quyền so với cửa hàng chính của bên nhượng quyền. Vì thế, bên
nhượng quyền và bên nhận quyền phải tạo ra một mối quan hệ liên tục, thông
suốt trong toàn bộ thời gian của hợp đồng NQTM. Bên nhượng quyền phải
hướng dẫn, giúp đỡ kĩ thuật, đào tạo những nhân viên chủ lực cho bên nhạn
quyền, đồng thời bên nhận quyền không thể tự mình sáng tạo thêm các ý tưởng
mới trong kinh doanh, nhất là các ý tưởng có khả năng phá vỡ sự đồng nhất
trong hệ thống NQTM.
1.1.3. Điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại
Các điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM chủ yếu phải kể đến các
điều khoản về TTHCCT. Giống như các loại hợp đồng thương mại khác, nội
dung của hợp đồng NQTM và ghi nhận trong các hợp đồng NQTM là các

quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên tham gia vào quan hệ nhượng quyền,
tuy nhiên, với những đặc thù nhất định của hợp đồng NQTM như đã phân tích
ở phần trên, có thể thấy, để xác định một thỏa thuận thương mại bất kỳ là một
14


TTHCCT cần phải xác định rất nhiều yếu tố liên quan như chủ thể, khách thể
cũng như tính chất và mức độ HCCT của thỏa thuận đó.
Nhắc đến TTHCCT trong hợp đồng NQTM có thể bao gồm điều khoản
thỏa thuận giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh thuộc các hệ thống
nhượng quyền khác nhau hoặc thỏa thuận giữa chính bên nhượng quyền và bên
nhận quyền trong một hệ thống NQTM. Theo đó, các TTHCCT được chia
thành TTHCCT theo chiều ngang và TTHCCT theo chiều dọc, cụ thể:
Thứ nhất, thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận giữa các chủ thể
kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh, diễn
ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau. Ví dụ, thỏa thuận giữa
các doanh nghiệp hoạt động theo hình thức nhượng quyền trong cùng một thị
trường sản phẩm như: Gà rán, đồ uống…Có thể kể đến một số hành vi cụ thể
như: Điều khoản thỏa thuận ấn định giá giữa các hệ thống nhượng quyền trên
cùng một thị trường liên quan, nhằm tăng, giảm, ấn định hoặc duy trì giá sản
phẩm, dịch vụ trên thị trường; điều khoản thỏa thuận hạn chế về sản lượng sản
xuất, sản lượng bán hoặc tỷ lệ tăng trưởng thị trường; điều khoản thỏa thuận
phân chia thị trường là thỏa thuận mà các bên tham gia phân chia các thị trường
với nhau theo lãnh thổ, theo lượng cung, cầu của từng doanh nghiệp hoặc theo
nhóm khách hàng cụ thể.
Thứ hai, thỏa thuận theo chiều dọc là thỏa thuận giữa hai hay nhiều doanh
nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá trình sản xuất, hoặc phân
phối trên thị trường. Như đã phân tích, chủ thể ký kết hợp đồng NQTM là các
thương nhân có quyền kinh doanh độc lập, hoạt động kinh doanh theo mô hình
mạng lưới thống nhất về hành động của bên nhượng quyền và các bên nhận

quyền, để đảm bảo lợi ích của bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác.
Các bên nhận quyền phải tuân thủ trung thành mô hình NQTM, khai thác bí quyết
một cách nhất quán trong mạng lưới NQTM, phải trả phí khai thác lợi ích cho bên
nhượng quyền và phí sử dụng thương hiệu trong suốt thời gian nhận quyền (đối
với quan hệ đại lý, bên nhận đại lý không phải thực hiện nghĩa vụ này). Bên
15


nhượng quyền có quyền kiểm soát bên nhận quyền trong việc tuân thủ trung thành
mô hình NQTM (bên đại lý cũng không có quyền kiểm soát này đối với bên nhận
đại lý). Hoạt động của hệ thống NQTM thường dẫn tới hệ quả phân chia thị
trường và có thể gây HCCT trong thoả thuận về phân chia lãnh thổ, thể hiện ở
“điều khoản về địa điểm bán hàng” (location clause); cấm bên nhận quyền quảng
cáo ngoài phạm vi của mình; mua bán độc quyền liên quan đến nhãn hiệu
hàng hoá, thương hiệu sản phẩm; quy định bán kèm. Ngoài ra, trong hoạt động
NQTM, nhiều trường hợp còn quy định về ấn định giá bán cho các thành viên của
hệ thống NQTM và có thể có một số ràng buộc khác. Căn cứ vào tính chất của đối
tượng điều chỉnh, hoạt động NQTM có thể được chia thành các loại: (i) NQTM về
dịch vụ, theo đó bên nhận quyền chào bán một dịch vụ dưới tên thương mại hoặc
biểu tượng và đôi khi là nhãn hiệu thương mại của bên nhượng quyền, theo những
chỉ dẫn của bên nhượng quyền; (ii) NQTM về sản xuất, quy định bên nhận quyền
sản xuất các sản phẩm theo đúng những chỉ dẫn của bên nhượng quyền và bán
chúng dưới nhãn hiệu thương mại của bên nhượng quyền; (iii) NQTM về phân
phối, trong đó bên nhận quyền đơn thuần bán các sản phẩm nhất định trong một
cửa hàng mang tên thương mại hoặc biểu tượng của bên nhượng quyền. Do đó,
mỗi loại đối tượng của hoạt động NQTM sẽ có khả năng dẫn đến HCCT khác
nhau tuỳ thuộc vào ngữ cảnh kinh tế và nội dung nhượng quyền cụ thể.
Có thể nói, điều khoản HCCT trong hợp đồng NQTM là loại điều khoản
thỏa thuận được ra đời bởi sự cho phép và bảo vệ của Nhà nước. Căn cứ các quy
định về TTHCCT, các thỏa thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền

được ghi nhận trong các hợp đồng NQTM có thể dẫn tới TTHCCT, chúng thường
được thể hiện dưới các dạng sau: Thoả thuận quy định phân chia khu vực kinh
doanh; thoả thuận phân phối và cung ứng độc quyền; thoả thuận mua bán cả gói;
thoả thuận ấn định giá bán lại; kiểm soát số lượng đầu vào, đầu ra của sản phẩm.
Ngoài ra, trong hợp đồng NQTM có thể kể đến một số thỏa thuận hợp tác, mang
lại lợi ích kinh tế cho bản thân các chủ thể thỏa thuận và người tiêu dùng. Ví dụ
như các thỏa thuận nghiên cứu và phát triển; thỏa thuận sản xuất; thỏa thuận định
16


chuẩn (xác định thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật, phương pháp sản xuất
cần tuân thủ…); thỏa thuận về các điều kiện kinh doanh [23, tr 24].
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KHOẢN
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1.2.1. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với điều khoản hạn chế cạnh
tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
NQTM là một hình thức kinh doanh trong đó bên nhượng quyền trao cho
bên nhận quyền quyền khai thác nhãn hiệu và bí quyết kinh doanh. Bên nhận
quyền, là các thương nhân độc lập, có nghĩa vụ khai thác mô hình kinh doanh
theo đúng các quy định và quy trình do bên nhượng quyền đặt ra. Mục đích của
NQTM là nhân rộng mô hình kinh doanh đã được bên nhượng quyền thực hiện
thành công trên một phạm vi địa lý nhất định. Vì vậy, việc tạo ra và duy trì tính
độc đáo và đồng nhất của mô hình kinh doanh đóng vai trò then chốt. Các yếu tố
liên quan trực tiếp đến mô hình kinh doanh là chất lượng hàng hoá, dịch vụ (gọi
chung là sản phẩm); nhãn hiệu hàng hoá, biểu tượng kinh doanh, tên thương mại
của bên nhượng quyền; hoạt động quảng cáo, khuyến mại; phương thức phục vụ;
cách thức bài trí cơ sở kinh doanh…Tính đồng nhất trong các mắt xích của chuỗi
NQTM chỉ có thể được bảo đảm khi các bên nhận quyền tuân thủ trung thành
mô hình kinh doanh, khai thác bí quyết kinh doanh một cách nhất quán trong

toàn mạng lưới NQTM. Để đạt được mục đích này, bên nhượng quyền thường
đưa vào hợp đồng các điều khoản độc quyền về lãnh thổ, độc quyền cung cấp
sản phẩm, và trong một số trường hợp còn ấn định giá bán lại sản phẩm. Nếu
như các thỏa thuận có bản chất HCCT này là cần thiết để duy trì sự ổn định của
hệ thống, bảo vệ bí quyết kinh doanh, uy tín của thương hiệu, thì mặt khác chúng
có thể ảnh hưởng tới lợi ích của bên nhận quyền, người tiêu dùng và các doanh
nghiệp khác trên thị trường sản phẩm liên quan. Bởi vậy, pháp luật cần có sự
kiểm soát quá trình này nhằm đảm bảo tính lành mạnh trong các hoạt động
thương mại. Pháp luật kiểm soát HCCT trong hợp đồng NQTM được hiểu là
17


những quy định của pháp luật điều chỉnh, kiểm soát các hành vi HCCT nói
chung và các điều khoản có liên quan trong hợp đồng NQTM nói riêng.
Một số công trình nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng, các điều
khoản HCCT trong hợp đồng NQTM luôn cần thiết có sự điều chỉnh của pháp
luật bởi: (i) Hành vi HCCT trong quan hệ NQTM tồn tại một cách tất yếu,
khách quan và cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh; (ii) Hoạt
động NQTM là hoạt động thương mại tương đối đặc thù, cần phải có những ghi
nhận những ngoại lệ nhất định cho phép hành vi HCCT được tiến hành trong
một số trường hợp để đảm bảo tính đồng bộ, bảo vệ danh tiếng của hệ thống
nhượng quyền. (iii) Hành vi HCCT trong hoạt động NQTM được điều tiết khá
mềm dẻo, có tính đến bản chất đặc thù của hoạt động NQTM. Theo đó, cho
phép một số hành vi HCCT mặc dù đạt đủ điều kiện của một hành vi HCCT bị
cấm theo pháp luật cạnh tranh thông thường nhưng áp dụng trong quan hệ
NQTM lại được phép nếu hành vi đó là cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ của
hệ thống nhượng quyền; (iv) Nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, đại diện là
Mỹ, mặc dù không có quy định riêng điều chỉnh hành vi HCCT trong hoạt
động nhượng quyền, nhưng lại sử dụng án lệ như một nguồn luật quan trọng để
giải quyết các tranh chấp liên quan đến hành vi HCCT trong hoạt động NQTM.

Ở Việt Nam, hành vi HCCT và điều khoản HCCT trong hợp đồng
NQTM chủ yếu chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004, ngoài ra còn có
các quy định trong Luật thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn luật khác.
Kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành đã tạo cơ sở pháp
lý trong việc điều chỉnh lĩnh vực cạnh tranh trong các hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, các quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004 và các quy định có
liên quan còn khá mới mẻ với người dân nói chung và các chủ thể có hoạt
động kinh doanh nói riêng. Những quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004
mới điều chỉnh, kiểm soát những vấn đề cơ bản nhất, đưa ra những quy định
chung nhất về hành vi TTHCCT trong nền kinh tế nói chung, khái quát cho
tất cả các ngành, lĩnh vực, tìm ra giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực
18


của hành vi này, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam. Đối với việc điều chỉnh, kiểm soát các TTHCCT trong từng lĩnh
vực cụ thể, đặc biệt trong các hoạt động kinh doanh thương mại riêng biệt
như NQTM thì PLCT Việt Nam chưa có quy định rõ ràng và hiện nay các
văn bản pháp luật chuyên ngành cũng chưa đề cập nhiều đến các hành vi
HCCT trong lĩnh vực mà mình điều chỉnh [28]. Vì vậy, Luật Cạnh tranh hiện
nay khó có thể điều chỉnh một cách hợp lý, hiệu quả đối với lĩnh vực đặc thù
này. Và khi áp dụng PLCT vào hoạt động NQTM cần phải có sự xem xét,
đánh giá mối tương quan giữa những lợi ích cho nền kinh tế và người tiêu
dùng với tác động HCCT một cách đáng kể của thỏa thuận ấy để làm cơ sở
cho việc xử lý.
Bản thân pháp luật về NQTM cũng chỉ quy định một cách chung nhất,
khái quát về quyền và nghĩa vụ của các bên, đăng ký hoạt động NQTM…mà
chưa có những quy định cụ thể liên quan đến việc điều chỉnh mối quan hệ giữa
hoạt động này và các lĩnh vực chuyên ngành khác, mà cụ thể là các thỏa thuận
của các bên trong hợp đồng NQTM. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến

quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam một cách sâu rộng, bởi hệ
thống pháp luật về thương mại đang còn nhiều bất cập, vốn hiểu biết về pháp
luật NQTM của các bên nhượng quyền và các bên dự kiến nhận quyền của Việt
Nam còn hạn chế mà không có văn bản pháp luật nào có khả năng hướng dẫn
các chủ thể kinh doanh về ranh giới giữa hai lĩnh vực pháp luật cạnh tranh và
pháp luật về NQTM.
Trong hợp đồng NQTM thường thấy xuất hiện quy định bên nhượng
quyền yêu cầu bên nhận quyền không được chuyển cửa hàng khỏi vị trí đã
được xác định trong hợp đồng; hay không được chuyển giao cửa hàng cho bên
thứ ba bất kỳ mà không có sự đồng ý của bên nhượng quyền; hoặc bên nhượng
quyền có quyền chuyển giao quyền thương mại cho nhiều bên nhận quyền khác
nhau; bên nhận quyền có quyền độc quyền sử dụng thương hiệu, sản phẩm kinh
doanh trong một khu vực địa lý xác định trong hợp đồng NQTM. Việc pháp
19


×