Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn ứng hòa hà nội hiên nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.7 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

THỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Ở NÔNG THÔN ỨNG HÕA - HÀ NỘI
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

THỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Ở NÔNG THÔN ỨNG HÕA - HÀ NỘI
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học

TS. PHẠM THỊ THÖY VÂN


HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN

Với sự biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo
TS. Phạm Thị Thúy Vân đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện khóa luận này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục
Chính trị đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ cho em trong quá trình
nghiên cứu để em hoàn thành khóa luận. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới gia
đình, bạn bè luôn ở bên động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đây là lần đầu em tham gia nghiên cứu khoa học, kiến thức và kĩ năng
còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận
được sự góp ý của thầy cô, các bạn để khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Tuyến


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài do chính tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Phạm Thị Thúy Vân. Những trích dẫn trong khóa luận lấy từ các
công bố chính thức và có ghi chú rõ ràng. Các số liệu và kết quả nghiên cứu
trong khóa luận này là trung thực và không trùng lặp với những kết quả đã

công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Tuyến


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ... 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 6
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ của nhân dân ...... 8
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 15
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH
DÂN CHỦ VÀO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH DÂN CHỦ
CỦA NHÂN DÂN Ở NÔNG THÔN ỨNG HÒA – HÀ NỘI HIỆN NAY ... 19
2.1. Những yếu tố tác động đến thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay............................................................................ 19
2.2. Thực trạng thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn Ứng Hòa – Hà
Nội hiện nay và nguyên nhân.......................................................................... 21
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .............................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 43
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 46


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Hiểu biết về đường lối, chính sách, pháp luật của người dân ... 22

Biểu đồ 2.2. Đánh giá mức độ quan trọng của các văn bản............................ 23
Biểu đồ 2.3. Tình hình tuyên truyền, phổ biến các nội dung về dân chủ ....... 24
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ người dân tham gia bàn và quyết định trực tiếp về chủ
trương xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng...................... 25
Biểu đồ 2.5. Mức độ bàn bạc và quyết định về mức đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng ........................................................... 26
Biểu đồ 2.6. Mức độ người dân tham gia bàn bạc và quyết định các công việc
khác trong dân cư ............................................................................................ 27
Biểu đồ 2.7. Những nội dung nhân dân được bàn và biểu quyết để cấp có
thẩm quyền quyết định .................................................................................... 27
Biểu đồ 2.8. Các nội dung nhân dân tham gia giám sát.................................. 30
Biểu đồ 2.9. Mức độ nhân dân giám sát chính quyền địa phương.................. 30


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân chủ là khát vọng hướng tới, là mục tiêu của con người và xã hội loài
người, dân chủ là nhu cầu khách quan đối với sự phát triển bền vững, hoàn
thiện của tất cả các nước trên thế giới. Ngày nay, cuộc đấu tranh vì dân chủ,
vì sự tiến bộ xã hội đang trở thành một xu thế không thể nào tách rời của thời
đại.
Đối với Việt Nam, trong quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
cách mạng đã luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của dân chủ. Trong giai đoạn
đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề dân chủ lại càng được coi trọng
hơn bao giờ hết, dân chủ được khẳng định là bản chất của chế độ, là mục tiêu,
động lực thúc đẩy của sự phát triển.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đổi mới đất nước ngày nay,
đất nước ta đang ngày một khẳng định vị thế của mình về một nền độc lập, tự
do, dân chủ, tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Để
đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh khó khăn với những hy

sinh, mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông chúng ta. Và
cũng để có và giữ được nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống
hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những người con kiệt xuất với
phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho
Tổ quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp
năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độc lập tự do cho Tổ quốc
mình. Nhắc tới chủ tịch Hồ Chí Minh là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc,
một danh nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là
người cha già kính yêu của dân tộc. Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà không một sách vở nào có
thể dạy nổi. Trong đề tài này em nghiên cứu vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ đồng thời áp dụng vào thực tế thực hành dân chủ nhân dân ở địa
phương Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay.
Vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội
hiện nay đã và đang được thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của

1


Đảng và Nhà nước đề ra. Việc thực hành dân chủ của nhân dân ở huyện Ứng
Hòa là một chủ trương đúng đắn nhằm tiếp tục cụ thể hóa phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong quá trình triển khai, thực hành
dân chủ nhân dân ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay đã được sự quan
tâm, giám sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia
nhiệt tình, có trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng.
Cùng với đó, trình độ học vấn của cán bộ, Đảng viên các cấp của huyện Ứng
Hòa được nâng cao, cơ sở vật chất, kỹ thuật để tuyên truyền ngày càng được
đầu tư, phát triển. Chính vì vậy, việc thực hành dân chủ ở nông thôn Ứng Hòa
– Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả rõ
rệt.

Tư tưởng dân chủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc
bản chất của giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, vừa thể hiện đặc sắc
những giá trị truyền thống của dân tộc, đông thời tiếp thu một cách sáng tạo
những tinh hoa của giá trị nhân loại góp phần vô cùng to lớn vào sự hoàn
thiện đường lối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy,
em quyết định chọn đề tài “Thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Ứng Hòa - Hà Nội hiên nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Bàn về vấn đề dân chủ, đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu ở nhiều phạm vi khác nhau; được đề cập trong nhiều đề tài, bài
viết, một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ. Trong đó, có thể khái quát thành
các nhóm công trình sau:
* Các công trình đề cập tới tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh nói
chung
Cuốn sách: Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh (2009) của
Phạm Văn Bính (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, nêu những vấn đề lý
luận, thực tiễn của phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, những yêu cầu đặt ra
trong việc vận dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh để hoàn thiện
phương pháp lãnh đạo dân chủ của Đảng về chính trị, cải cách bộ máy, hoàn


thiện chức năng quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển ý thức công dân và năng lực thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ…củng cố khối liên minh công - nông
- trí thức, tăng cường pháp chế, chống khuynh hướng dân chủ cực đoan.
Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới (2010) của Giáo sư - Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị
Quốc gia, nêu rõ tầm quan trọng của dân chủ đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông
thôn từ khi triển khai công cuộc đổi mới đất nước đến nay; đề xuất các giải

pháp góp phần thực hiện hiệu quả việc phát huy dân chủ trong đời sống xã
hội, tạo động lực, mục tiêu cho việc xây dựng thành công mô hình chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Cuốn sách: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (1992) của
Đỗ Nguyên Phương và Trần Ngọc Đường (chủ biên), Nhà xuất bản sự thật Hà
Nội, phân tích những nội dung cơ bản về vấn đề hệ thống chính trị và dân chủ
XHCN nêu trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng;
những nội dung cơ bản về Nhà nước pháp quyền với cải cách bộ máy Nhà
nước và hoàn thiện hệ thống chính trị.
* Các công trình liên quan trực tiếp đến chủ trương và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hòa – Hà Nội
-

Lịch sử Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2010), Nxb. Lao động.

-

Ứng Hòa trong hành trình phát triển, Nxb. Văn hóa thông tin.

Ủy ban nhân dân huyện Ứng Hòa, Báo cáo quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội huyện Ứng Hòa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030.
Các công trình nêu trên nhìn chung tập trung đề cập đến đặc điểm, tình
hình, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban,
ngành, đoàn thể trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng
đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị qua các thời kỳ.
Như vậy, qua việc nghiên cứu các công trình, đề tài đề cập đến vấn đề
dân chủ nói chung cũng như vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực, địa bàn, chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống đầy đủ, toàn
diện về



vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của
huyện Ứng Hòa – Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận có mục đích làm rõ những nội dung cốt lõi cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, thực hành dân chủ, từ đó vận dụng hệ thống
tư tưởng này vào việc nâng cao hiệu quả chất lượng thực hành dân chủ của
nhân dân ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
thực hành dân chủ
Chỉ ra thực trạng thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
đó
- Đề xuất một số biện pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả thực hành dân chủ ở nông thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nghiên cứu về những vấn đề,
những yếu tố của quá trình thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn Ứng
Hòa – Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu quá trình thực hành dân chủ nhân dân tại nông
thôn Ứng Hòa – Hà Nội theo tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm
2018.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận



Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ, các văn
kiện của Đảng và Nhà nước, có tham khảo, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa
học hiện đại về dân chủ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin; các phương pháp logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa của đề tài
Phân tích làm rõ hệ thống các quan điểm về dân chủ và phương pháp
thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh sẽ là một đóng góp nhỏ và việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh – một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây cũng là một đóng góp vào
việc tìm tòi cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc hoàn thiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta và đặc biệt là ở nông thôn huyện Ứng Hòa – Hà Nội.
Kết quả đạt được trong khóa luận sẽ góp phần nâng cao nhận thức của
người dân huyện Ứng Hòa – Hà Nội về tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh,
về quyền làm chủ của nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
huyện Ứng Hòa – Hà Nội vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
khóa luận gồm 2 chương và 4 tiết.


CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm “Dân chủ”

Dân chủ là hiện tượng lịch sử - xã hội, gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người và xã hội loài người. Theo nguồn gốc của tiếng
Hy Lạp, dân chủ gồm 2 từ “demos” có nghĩa là nhân dân, “kratos” có nghĩa là
quyền uy, sự cai trị. Như vậy theo nghĩa gốc, dân chủ là quyền làm chủ của
nhân dân, là trạng thái tổ chức xã hội trong đó quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã hội;
chỉ quyền của người dân và chỉ một phương thức công tác, phong cách quản
lý, lãnh đạo [44, tr.137].
Lý luận về dân chủ chiếm một phần rất trọng yếu trong lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, từ dân chủ chủ nô
đến dân chủ tư sản rồi đến dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) đều là
những bước tiến của lịch sử. Các ông đã đánh giá cũng như xem xét một cách
khách quan nhất nền dân chủ tư sản, mặc dù nó còn rất nhiều hạn chế, khuyết
điểm, song là bước tiến bộ hơn cả so với chế độ chuyên chế phong kiến. Cùng
với đó, các ông đã vạch ra bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, đó chính là
dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chuyên chính đối với đa số nhân dân lao
động. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong giai đoạn đầu tiên của cách mạng
xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản bắt buộc phải trở thành giai cấp thống trị,
phải “giành lấy dân chủ”. Chỉ có giành được chính quyền nhà nước, giai cấp
vô sản mới xây dựng và phát huy được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mới
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình là đưa nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động trở thành người chủ của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất
của mọi quyền lực. Tư tưởng đó của C. Mác và Ph. Ăng-ghen nói lên bản chất
dân chủ của xã hội mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng đúng đắn của C. Mác và Ph. Ăngghen về dân chủ, V.I.Lê-nin cũng đi đến nhấn mạnh: “Dân chủ trở thành giá


trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của đời
sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con người, tạo ra ngày

càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con
người”. Vì vậy V.I.Lê-nin cho rằng: “dân chủ vô sản là dân chủ gấp triệu lần
dân chủ tư sản”.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ đối với quảng đại quần chúng
nhân dân lao động, là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa không loại trừ đấu tranh giai cấp, nó kiên quyết đấu tranh chống lại mọi
hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ
chân chính của nhân dân. Do vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân
chủ và chuyên chính không tách rời nhau, dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ
cương, kỷ luật.
Mục đích cao nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con
người và xã hội loài người, xây dựng một xã hội không có giai cấp, mọi người
đều bình đẳng, tự do; đây là nền dân chủ tiến bộ nhất. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; tác động mạnh
mẽ đến các quyền tự do về chính trị, tư tưởng, văn hóa và các lĩnh vực khác.
Kế thừa những yếu tố tốt đẹp và phát triển hơn nữa những tư tưởng về
dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm đặc
sắc về dân chủ bằng những diễn đạt rất súc tích, ngắn gọn: “Dân là chủ”,
“Dân làm chủ”, “Dân là gốc”, “Nước ta là nước dân chủ”, “Dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng”. Theo Người, ở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, những giá
trị dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị, trong
đó Nhà nước là trụ cột. Dân chủ là mục tiêu, động lực của phát triển. Các giá
trị dân chủ trở thành phổ biến, chi phối mọi hoạt động của đời sống xã hội,
mọi công dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức, vận dụng làm chủ
bản thân và làm chủ xã hội. Theo C.Mác một nền dân chủ thật sự phải gắn
liền với sự nghiệp của nhân dân “Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp
của mọi hình thức chế độ nhà nước…ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của
nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp
của bản thân nhân dân” [33, tr.349].



Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước là công cụ quyền lực để
thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, luôn chịu sự giám sát của nhân
dân. Nhà nước và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên. Cán bộ,
công chức Nhà nước là người đại diện cho pháp luật để bảo vệ nhân dân. Để
tồn tại và khẳng định rõ vị thế, Nhà nước phải đề ra những cơ chế, biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa, xử lý tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm trong
cán bộ; giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao
ý thức pháp luật.
1.1.2. Khái niệm “Thực hành dân chủ”
Thực hành dân chủ là sự thể chế hóa, pháp luật hóa phương châm: “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành những quy phạm và hành động cụ
thể trong đời sống cộng đồng dân cư cấp xã.
Để các quyền dân chủ được thực hiện trong cuộc sống, các quyền đó
phải được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng
những thiết chế tương ứng của Nhà nước. Ở đây, dân chủ và pháp luật, dân
chủ và kỷ cương không bài trừ, phủ định nhau, trái lại, chúng nằm trong sự
thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề phát triển của nhau. Thực tế cho
thấy, cả vô chính phủ lẫn độc đoán chuyên quyền đều trái với bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Không thể có dân chủ mà thiếu pháp luật, kỷ
luật, kỷ cương.
1.1.3. Khái niệm “thực hành dân chủ nhân dân ở nông thôn”
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (1994), nông
thôn được định nghĩa là khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông.
Nhân dân được hiểu là đông đảo những người dân, thuộc mọi tầng lớp,
đang sống ở một khu vực địa lý nào đó. Nhân dân ở nông thôn Việt Nam bao
gồm nhiều đối tượng khác nhau, tuy nhiên, lực lượng chiếm số lượng đông
đảo là nông dân, những người gắn bó trực tiếp với sản xuất, lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh người nông dân, khu vực nông thôn còn có
những người làm nghề trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch

vụ, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh… tuy không gắn bó trực tiếp với lao động
sản xuất song luôn gắn bó về lối sống, sinh hoạt ở khu vực nông thôn.


Nông thôn với tính chất là cấp cơ sở trong hệ thống quản lý hành chính
nhà nước, là đơn vị hành chính thấp nhất - xét về mặt không gian quản lý; là
cấp gần dân nhất, tiếp nhận, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; theo dõi, giám sát, kiểm tra
công dân thực hiện các nghĩa vụ, pháp luật. Nông thôn chính là hình ảnh thu
nhỏ của nhà nước; là nơi thể hiện trực tiếp, cụ thể bản chất của chế độ nhà
nước, của chế độ xã hội; thể hiện trực tiếp sự hoàn thiện hay hạn chế, yếu
kém của thể chế, của cơ chế và mô hình tổ chức quyền lực; thể hiện cụ thể
thái độ của người dân, là nơi mà việc làm, đời sống, tâm tư, nguyện vọng của
người dân được bộc lộ đầy đủ, rõ rệt; nơi thể hiện và đánh giá trực tiếp hiệu
lực, hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở.
Từ khái niệm về Dân chủ, Thực hành dân chủ và khái niệm Nông thôn,
có thể hiểu thực hành dân chủ ở nông thôn là quá trình nhân dân cùng các
chủ thể khác thực hiện thể chế về dân chủ ở cơ sở, cụ thể là quy định pháp
luật về các quyền biết, bàn, làm, kiểm tra trực tiếp và đầy đủ nhất ở chính
nông thôn - địa bàn mà nhân dân đang sinh sống và lao động hàng ngày.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ của nhân dân
1.2.1. Nội dung thực hành dân chủ
Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ của nhân loại,
Hồ Chí Minh lí giải khái niệm dân chủ một cách ngắn gọn, đơn giản, cô đọng,
dễ hiểu, dễ thực hiện và dễ kiểm soát. Việc lí giải này thường được Hồ Chí
Minh gắn với vấn đề nhà nước. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là dân làm chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, có địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”.
Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức về dân chủ và đó
là quan niệm ngắn gọn nhất phản ánh đúng bản chất và nội dung quan niệm

của Hồ Chí Minh về dân chủ.
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân


Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [36, tr.698].
Để thực hiện các quyền làm chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân dân
không chỉ có mỗi quyền mà điều quan trọng là phải có năng lực làm chủ.
“Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”
[35, tr.40].
Hồ Chí Minh luôn chú trọng việc thực hành dân chủ để nước ta trở
thành một nước dân chủ thực sự. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành
dân chủ được thể hiện ở các tác phẩm, bài nói, bài viết, ứng xử và tác phong
làm việc với nhiều góc tiếp cận khác nhau. Dựa trên quan điểm về dân chủ là
dân “là chủ” và dân“làm chủ”, Hồ Chí Minh xác định, quần chúng nhân dân
vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể của quá trình thực hành dân chủ.
Theo Hồ Chí Minh, phải làm sao cho người dân có quyền làm chủ, có
điều kiện làm chủ, biết hưởng quyền làm chủ, đồng thời biết dùng quyền làm
chủ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Việc gì cũng hỏi ý kiến quần chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho
dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức
làm”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra quy trình của thực hành dân chủ đối với nhân
dân: (1) Cán bộ lãnh đạo cần phải biết “hỏi”, biết “bàn bạc” để thực hiện vai
trò “là chủ” của nhân dân trong xã hội. (2) Khi thảo luận cần biết “giải

thích” để nhân dân cùng hiểu nội dung của vấn đề cần tạo sự đồng tình, ủng
hộ. (3) Cần “làm” theo sự thống nhất để phát huy cao độ tinh thần và hành
động“làm chủ”của nhân dân trong xã hội. Có như vậy, việc thực hành dân
chủ mới công khai, hiệu quả, tạo được niềm tin nơi dân.
Có thể thấy, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trong nhận
thức về dân chủ, so với tư tưởng dân chủ thời phong kiến và cả dân chủ tư
sản. Các nhà tư tưởng với ý thức hệ phong kiến quan niệm dân chủ là chủ của


dân. Dưới chế độ phong kiến, quyền lực và quyền uy đều tập trung trong tay
nhà vua. Dân chỉ là thần dân, thảo dân, là bề tôi tự nhiên chịu ơn huệ và bị
trói buộc bởi luật lệ và những quy định của triều đình. Dân chủ tư sản chỉ đem
lại lợi ích và quyền lực cho một thiểu số người giàu có.
Thứ nhất, để nhân dân được làm chủ, nhân dân phải được quyền biết mọi
việc.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người
dân hiểu rõ rằng: “Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng
hái làm cho kỳ được”. Nhất là, đối với người dân làm nghề nông, những
người có trình độ học vấn không cao nhưng lại chiếm đa số trong xã hội, thì
cán bộ phải tuyên truyền, giải thích “làm sao cho bà con hiểu mình là người
chủ tập thể, làm chủ hợp tác xã, làm chủ Nhà nước”.
Phạm vi dân biết ở đây là: Tình hình phát triển kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội nói chung của đất nước, của địa phương; nhân dân cần biết những
vấn đề cụ thể, rõ ràng liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình,
của mỗi gia đình, cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội và được quyền "biết" đến
những vấn đề, như: Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước nói chung và của địa phương – nơi mà mình sinh sống nói
riêng; Kết quả thanh tra, kiểm tra và giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng của cán bộ, đảng viên; Về việc triển khai thực hiện chính sách đối với

gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh liệt sĩ, bệnh binh, vấn
đề an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
Thứ hai, những nội dung nhân dân “bàn bạc” và “thi hành”.
Khi dân đã được biết, được hiểu thì cần phải tạo điều kiện để mọi
người được bàn bạc thật sự: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý
kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt ra kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương”. Sau khi dân đã biết, đã hiểu, đã bàn bạc và xây dựng
kế hoạch của địa phương mình, cơ sở mình, thì nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo
là “động viên và tổ chức cho toàn dân ra thi hành”. Trong triển khai thực hiện,
phải theo dõi, gúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân nhân dân tự giác tham gia,


“đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Trong chế độ dân chủ, nhân
dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, góp phần xây dựng nhà nước. Dân có thể
bàn để hiểu sâu sắc, để nâng cao kiến thức, bàn để thống nhất xây dựng, bàn
để làm. Dân có thể bàn ở nhiều nơi, trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Để nâng cao nhận thức và phát huy trí tuệ, dân có quyền được cung cấp thông
tin, có định hướng để mỗi người dân tự hình thành quan điểm, làm cơ sở cho
việc bàn bạc, thảo luận, xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng phù
hợp. Theo đó, vấn đề dân biết, để bàn, để làm là nhu cầu hết sức cấp bách và
khách quan. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Mỗi công dân đều có quyền bầu
cử, ứng cử để cùng lo việc nước. Quyền ấy phải được tôn trọng và bảo vệ.
Người công dân là con người chính trị, có quyền tham gia chính sự. Người
kêu gọi các tầng lớp nhân dân ta, công nhân, nông dân, lao động trí óc, các
nhà công thương, đồng bào thiểu số, ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người
công dân, người chủ nước nhà.Và Hồ Chí Minh tha thiết mong muốn, làm
cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lấy mọi công việc của mình, để mau
chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện các dân tộc bình
đẳng về mọi mặt”.
Thứ ba, nhân dân cùng tham gia giám sát, kiểm tra các công việc của

Đảng và Nhà nước.
Dân kiểm tra là một trong những nội dung cơ bản trong thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng
các đoàn thể vững mạnh, trong sạch và bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp
của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của kiểm tra, giám sát là
“để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”.
Do đó, sau khi dân biết, dân bàn, dân thực thi, thì công đoạn cuối cùng là
mỗi tổ chức, đơn vị, địa phương, cơ sở khi thi hành xong “phải cùng với
nhân dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”,
để giúp tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa những nhiệm vụ khác.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân cần được kiểm tra, giám sát những gì có
liên quan tới nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Giám sát việc thực thi nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước, quản lý sản xuất kinh doanh
và hoạt động của cán bộ, công chức ở nông thôn; kiểm tra từng con người cụ


thể gắn với chức trách cụ thể, trọng tâm và việc thực hiện những quy định về
tiền bạc, tài chính, kinh tế, quản lý và sử dụng đất đai, chính sách xã hội và
việc giải quyết những đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương đơn vị cơ sở; giám sát,
phát hiện những vi phạm của công dân, giúp chính quyền địa phương và thủ
trưởng đơn vị xem xét, xử lý kịp thời, đúng mức.
Cũng theo Hồ Chí Minh, để thực hiện được những nội dung nói
trên, cần truyên truyền, vận động để người dân thấy rõ được trách nhiệm,
quyền lợi của bản thân mình, và có cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi để quần
chúng nhân dân có thể đóng góp ý kiến, giám sát, phản biện trong công tác
xây dựng Đảng. Bởi vì, cùng sống trong cộng đồng nên nhân dân cũng là
những người am hiểu các vấn đề của tổ chức Đảng và gần gũi với đảng viên.
Ở mỗi địa phương, mỗi cơ sở, nếu tổ chức đảng làm tốt việc phát huy quyền
dân chủ của nhân dân thì nhân dân sẽ tích cực tham gia đóng góp xây dựng

Đảng. Điều quan trọng là trong mỗi tổ chức, mỗi đảng viên phải thật sự cầu
thị, chính trực, thật thà, khiêm tốn lắng nghe, có phương pháp, có hình thức
thích hợp để nhân dân dám nói và nói thật, nói đúng với tinh thần xây
dựng. Người yêu cầu: “Tổ chức đảng phải tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn
cụ thể về nội dung, cách thức để người dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, có
phương pháp, kế hoạch ghi nhận, tiếp thu có chọn lọc những ý kiến sát đáng
của quần chúng nhân dân. Đối với những ý kiến phê bình đúng của quần
chúng thì phải tiếp thu nghiêm túc và có biện pháp sửa chữa. Còn với các ý
kiến không đúng hoặc chưa đúng thì cần phải phân tích, giải thích đầy đủ với
thái độ thực sự “trọng dân”.
Hồ Chí Minh là một tấm gương của tinh thần dân chủ, phát huy dân
chủ và luôn mong muốn đồng bào luôn giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
bình để cán bộ làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đày tớ trung thành
của nhân dân. Vì thế, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân thường xuyên giám sát
các hoạt động, công việc của Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở. Bằng tình
cảm của mình, Hồ Chí Minh đã nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong
nhân viên có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ
đen, khinh dân, mưu vinh thân, phì gia.... Xin đồng bào hãy phê bình giúp đỡ


giám sát công việc Chính phủ. Còn những việc làm, mà chưa làm được thì xin
đồng bào nguyên lượng”.
Tóm lại, thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn là một trong
những nội dung quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình
nhân dân thực hiện các quy định của pháp luật về quyền dân chủ của nhân
dân. Về bản chất, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là những nội dung
liên hoàn của trình tự công khai hóa và dân chủ hóa. Thực hiện đầy đủ các
khâu này nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp
và pháp luật quy định. Nhà nước không thể có dân chủ khi nhân dân không
được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra những nội dung thiết thực, ảnh

hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích của họ.
1.2.2. Hình thức thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
Từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân làm chủ” là một bước tiến quan
trọng về chất của vấn đề dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, chúng ta phải làm như
thế nào cho người dân có được quyền làm chủ, có điều kiện làm chủ, biết
hưởng thụ quyền làm chủ, đồng thời biết dùng quyền làm chủ. Muốn vậy
nhân dân cần phải có năng lực làm chủ. Năng lực làm chủ đó không phải
bỗng dưng mà có, không phải từ trên trời rơi xuống, không phải do “ban
phát” mà một mặt, Đảng và Nhà nước phải tạo ra những cơ chế, chính sách và
pháp luật phù hợp; mặt khác, người dân phải ra sức phấn đấu, rèn luyện, phải
học về dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ của bản thân,
phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Chỉ có như
vậy, nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh triệt để tình trạng dân chủ
chung chung và tình trạng dân chủ hình thức.
Luôn thấm nhuần quan điểm toàn diện và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra sự cần thiết phải quan tâm đến mọi mặt của đời sống và chú ý hài hòa
các mối quan hệ. Trọng tâm có bốn vấn đề phải coi là quan trọng ngang nhau:
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Không được xem nhẹ một mặt nào. Nội
dung toàn diện của dân chủ thể hiện ở các mặt ấy. Người nêu trước hết là dân
chủ trong chính trị. Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ. Bởi thế, thực hiện dân chủ chính trị thì phải bảo


đảm phát huy quyền làm chủ của dân. Đây là bản chất của dân chủ mà cũng là
bản chất của chủ nghĩa xã hội. Phải thể chế hóa quyền dân chủ chính trị,
quyền làm chủ của dân qua Hiến pháp và các đạo luật, qua thể chế bầu cử để
dân được tự do lựa chọn người xứng đáng làm đại diện cho mình. Ủy quyền
kèm theo kiểm tra, giám sát thực hiện quyền. Dân là chủ thì từ Chủ tịch nước,
các bộ trưởng cho đến tất cả các công chức, viên chức phải là người phục vụ
dân, chịu sự kiểm tra, giám sát, đánh giá, bãi miễn của dân theo luật định.

“Hồ Chí Minh yêu cầu, cần lựa chọn nội dung và phương thức truyền tải
phù hợp với từng đối tượng người dân ở từng địa bàn dân cư để nhân dân phát
huy quyền là chủ và làm chủ. Bên cạnh đó, cần làm cho người dân hiểu rằng,
cán bộ được trả lương là để phục vụ người dân, phụng sự đất nước, đó là
quyền được hưởng, đồng thời cũng là nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên. Vì vậy,
khi phát hiện thấy cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức, lối sống cần báo ngay
cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Nếu mỗi người dân không nhận thức
được điều này thì chẳng những họ không thực hiện được quyền giám sát của
mình mà còn góp phần làm hư hỏng cán bộ. Cũng theo Người, cần phải có cơ
chế khen thưởng, động viên kịp thời để khuyến khích người dân giám sát
những việc làm sai trái trong đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, cũng là
để nhân lên những hành động đẹp, những tấm gương đẹp.
1.2.3. Phương pháp thực hành dân chủ
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi.
Ngay từ năm 1941, trong Chương trình của tổ chức Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ
cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện giành
được thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện các mục tiêu dân chủ, xác định
rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân Việt Nam trước vận mệnh của nước
nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã chủ
trương thiết kế, xây dựng và ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm
1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
Điều đó thể hiện rõ ở Chương II Hiến pháp năm 1946 gồm 18 điều quy định


về nghĩa vụ và quyền lợi công dân. Điều 6 ghi rõ: "Tất cả các cơ quan nhà
nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà
nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp

và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
Thứ hai, xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội.
Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng tới
việc xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Xây
dựng mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ
chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước; xây dựng
các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân dân.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân chủ ở
trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo
của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc
và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố
tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở
thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.
Thứ ba, vận động, tuyên truyền quần chúng thực hành dân chủ.
Người đi vận động, tuyên truyền phải xác định rõ mục đích và đối tượng
tuyên truyền, giáo dục; mục đích của công tác vận động, tuyên truyền là nhằm
biến những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, những tri thức khoa học thành niềm tin, thành hành động cụ thể, xây
dựng, bảo vệ quê hương đất nước, làm cho cuộc sống mỗi người dân ngày
càng tiến bộ, ấm no, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh nói rằng: “Tuyên truyền cũng thế, huấn luyện cũng thế, phải
làm sao cho dễ hiểu, nói sao để người ta hiểu được, hiểu để làm”. Để đạt được
mục tiêu đó theo Hồ Chí Minh thì trong tuyên truyền phải “nói thiết thực, nói
đúng lúc”.


Vì điều kiện dân tộc, vùng miền mỗi nơi mỗi khác nên Hồ Chí Minh đòi hỏi
việc vận động tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện đường lối, chính

sách cũng phải có những nội dung, hình thức và bước đi phù hợp.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn
là một nội dung có ý nghĩa quan trọng về lí luận và thực tiễn. Đó là hệ thống
tư tưởng về nội dung thực hành dân chủ, hình thức thực hành dân chủ và biện
pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hành dân chủ. Cho đến nay, hệ thống tư
tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC
HÀNH DÂN CHỦ VÀO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH
DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN Ở NÔNG THÔN ỨNG HÕA – HÀ NỘI
HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động đến thực hành dân chủ của nhân dân ở nông
thôn Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư
- Điều kiện tự nhiên:
Ứng Hòa là huyện đồng bằng nằm ở đông nam tỉnh Hà Tây cũ (nay
2

thuộc Hà Nội) có diện tích tự nhiên là 183,72 km .
Địa giới hành chính huyện Ứng Hòa gồm 29 đơn vị hành chính: 1 thị
trấn và 28 xã. Dân số năm 2005 là 195.941 người, trong đó: Đô thị là 13.568
người (chiếm 6,92%), nông thôn: 182.373 người (chiếm 93,08%). Mật độ dân
2

số trung bình là 1.066 người/km .
Ứng Hòa là huyện đồng bằng nằm trong vùng thuộc miền văn minh lúa

nước sông Hồng. Huyện nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, có điều kiện
khí hậu đất đai đa dạng, phù hợp với khả năng phát triển một nền nông nghiệp
sinh thái toàn diện, mang đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp truyền
thống. Nhân dân có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, đoàn kết, yêu quê
hương xóm làng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được xây dựng và cải thiện là một
khâu đột phá tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Các tuyến
trục giao thông quan trọng kết nối huyện Ứng Hòa với thành phố Hà Đông;
các trung tâm kinh tế của thành phố Hà Nội; vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
và các tỉnh đồng bằng sông Hồng đã và đang hình thành mở rộng.
- Điều kiện dân cư:
Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới đất ước, tình hình
kinh tế - xã hội của Ứng Hòa có nhiều biến chuyển, đạt được nhiều thành tựu.
Bối cảnh này tạo ra môi trường sống ổn định, phát triển cho cư dân trên địa
bàn. Dân số Ứng Hòa tăng thêm khoảng 30.000 người. Đặc biệt, trong khoảng


×