Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP GIÁO dục hòa NHẬP TRẺ KHUYẾT tật TRÍ TUỆ ở TRƯỜNG mầm NON đạt HIỆU QUẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HÒA NHẬP
TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ Ở TRƯỜNG MẦM NON
ĐẠT HIỆU QUẢ

Người thực hiện: Lê Ánh Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thành Kim
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THẠCH THÀNH, NĂM 2019


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trí tuệ đạt hiệu
quả.
2.3.1. Lập kế hoạch giáo dục theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ


khuyết tật trí tuệ
2.3.2. Xây dựng môi trường giáo dục phù hợp tạo điều kiện cho trẻ
khuyết tật hoạt động hòa nhập.
2.3.3. Phát huy tính tích cực của trẻ khuyết tật trí tuệ
2.3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy để tạo
điều kiện cho trẻ khuyết tật hứng thú hoạt động hoà nhập.
2.3.5. Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở mọi lúc, mọi nơi.
2.3.6. Phối hợp với phụ huynh và các cơ quan, tổ chức xã hội trong
việc giáo dục trẻ khuyết tật hoà nhập.
2.4. Hiệu quả sau khi thực hiện biện pháp GDHN trẻ KT tại trường
Mầm non Thành Kim
3. Kết luận kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
5
5
10
12
14
16

17
19
19
19
20


1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Để đáp ứng được nhu
cầu này, cần có sự đóng góp của rất nhiều ngành nghề trong đó giáo dục góp
phần to lớn trong sự đổi mới của đất nước. Nói đến giáo dục, các nhà khoa học
đã đưa ra nhiều quan điểm nhưng chung quy lại đều khẳng định rằng “Giáo dục
là chìa khóa, là cơ sở cho sự phát triển nhân cách sau này của một con người”
Như chúng ta đã biết giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ
thành những những con người mới, con người có ích cho xã hội. Giáo dục Mầm
non có nhiệm vụ xây dựng nền móng làm cơ sở ban đầu cho việc hình thành
nhân cách con người. Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là tương lai của dân
tộc. Việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ không chỉ là trách nhiệm của mỗi gia
đình mà là trách nhiệm của toàn xã hội và của cả nhân loại.
Sinh thời Hồ Chủ Tịch đã dành nhiều tình cảm và sự quan tâm đặc biệt cho
trẻ em, tình thương ấy xuất phát từ tư tưởng, tầm nhìn và chiến lược “Trăm năm
trồng người” mà người đã dày công vun trồng cho thế hệ mai sau. Thấm nhuần
tư tưởng của người, Đảng nhà nước và nhân dân ta đã và đang quan tâm thực
hiện tốt hơn công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em, bởi trẻ em là những mầm xanh
tương lai của đất nước là mối quan tâm hàng đầu của gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội. Tuy nhiên, không phải tất cả trẻ em trên thế giới này sinh ra và lớn
lên đều được sở hữu một thân hình hay một trí tuệ hoàn hảo mà thay vào đó bên
cạnh những “Bé khoẻ, bé ngoan” vẫn còn những em bé khuyết tật, sinh ra với

những khiếm khuyết về thể chất, tinh thần khiến các em gặp nhiều khó khăn, bất
hạnh và vô cùng thiệt thòi, do đó trẻ cần được hưởng sự giáo dục dạy dỗ chu đáo
của mọi người từ gia đình đến xã hội và đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng
đầy tính nhân văn của ngành giáo dục nói chung và ngành giáo dục mầm non
nói riêng [1].
Theo công ước của liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989) ghi rõ: “Tất cả
mọi trẻ em sinh ra đều được quyền đi học” do vậy trẻ khuyết tật nói chung và trẻ
khuyết tật trí tuệ nói riêng có quyền được học tập, vui chơi như bao trẻ bình
thường khác [2].
Trên thực tế đối với những trẻ bị khuyết tật trí tuệ do bị hạn chế về trí tuệ
nên khuyết tật trí tuệ chậm chạp, gặp khó khăn trong giao tiếp, ứng xử xã hội, tự
phục vụ bản thân và tiếp thu kiến thức. Trong số đó có những trẻ không thể tự
phục vụ bản thân mình mà nhờ người khác giúp đỡ, hỗ trợ. Nhìn chung trẻ
khuyết tật trí tuệ thường gặp rất nhiều khó khăn trong học tập, vì khả năng quan
sát, chú ý, ghi nhớ của trẻ bị hạn chế, trẻ rất mau quên...Là một giáo viên mầm
non đứng lớp 5-6 tuổi và đặc biệt là trong lớp có trẻ khuyết tật trí tuệ tôi nghĩ
rằng việc giáo dục trẻ khuyết tật hoà nhập là vô cùng khó khăn đòi hỏi bản thân
phải tâm huyết với nghề dạy trẻ, chăm sóc và bày tỏ tình thương với trẻ, bên
cạnh đó tôi luôn mong muốn truyền đạt thật nhiều kiến thức cho trẻ, giúp trẻ
chuẩn bị cho cuộc sống hiện tại cũng như cuộc sống tương lai của trẻ ở trường

1


mầm non và tôi mong muốn rằng tại ngôi nhà thứ hai này trẻ học được các kiến
thức, các kỹ năng và được tham gia vào tất cả các hoạt động như trẻ bình thường
khác. Vì thế tôi đã luôn trăn trở, tìm tòi để tìm ra những cách thức hay, những
phương pháp giảng dạy tốt nhất, mạnh dạn áp dụng những sáng tạo mới trong
việc tổ chức các hoạt động và các hình thức dạy trẻ khuyết tật trí tuệ mang tính
chức năng, ngoài việc cung cấp các kiến thức cơ bản cho trẻ còn cần tập trung

vào dạy kỹ năng sống cho trẻ bao gồm: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự phục vụ,
kỹ năng xã hội nhằm hình thành cho trẻ khả năng sống độc lập và giúp trẻ có thể
hoà nhập vào cộng đồng xã hội như những trẻ bình thường.
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo
dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật trí tuệ đạt hiệu quả” làm đề tài sáng kiến kinh
nghiệm cho bản thân.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tìm ra những biện pháp giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trí
tuệ ở trường Mầm non đạt hiệu quả tốt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật trí tuệ nói riêng của độ tuổi mẫu
giáo 5-6 tuổi trường mầm non Thành Kim - Thạch Thành - Thanh Hoá.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp khảo sát điều tra
+ Phương pháp thực hành - trải nghiệm
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ra qui định về GDHN cho TKT làm
cơ sở giúp cho các bộ phận quản lý giáo dục các cấp, nhà trường và giáo viên
thực hiện GDHN cho TKT một cách hiệu quả .
- Quyết định số 23/2006/QĐ/ BGDĐT ngày 22/5/2006 về việc qui định
Giáo dục hòa nhập dành cho người tàn tật, khuyết tật.
- Công văn số 9890/ BGDĐT-GDTH , ngày 17/9/2007 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho
học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Từ đó nâng dần chất lượng GDHN cho TKT.
Vậy trẻ khuyết tật và giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật tại trường Mầm non

là gì?
Trẻ khuyết tật là những trẻ bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận trên cơ
thể như: Giác quan, vận động, trí tuệ…v…v… được biểu hiện dưới nhiều dạng
khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho trẻ gặp nhiều khó khăn
trong lao động, sinh hoạt, học tập, vui chơi.
Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở trường Mầm non là phương thức
giáo dục cho trẻ khuyết tật vào sinh hoạt và hoạc tập hoà nhập trong môi trường

2


giáo dục bình thường. Trẻ khuyết tật Mầm non được vui chơi, học tập cùng với
trẻ bình thường cùng lứa tuổi ngay tại nơi trẻ sinh ra và lớn lên. Trong môi
trường đó, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật
được tham gia tiếp xúc, giao tiếp với mọi người, được tham gia hoạt động với
các bạn để lĩnh hội những kiến thức văn hóa, hình thành những kỹ năng sống
phù hợp với lứa tuổi Mầm non, giúp trẻ có thói quen và tự tin vào bản thân.
Hơn thập kỷ qua, mô hình giáo dục hoà nhập ở việt nam đã được thực hiện.
theo số liệu báo cáo của các địa phương: Trong năm qua đã có hơn 100 nghìn trẻ
khuyết tật được hoà nhập với trẻ bình thường. tại một số địa phương đã huy
động trên 90% trẻ khuyết tật ở độ tuổi ra lớp học hoà nhập theo chương trình
[4].
Như vậy, trẻ khuyết tật là trung tâm của quá trình giáo dục điều chỉnh. Các
em cũng có nhu cầu được tôn trọng được tham gia đầy đủ và bình đẳng trong
mọi hoạt động của trường Mầm non để thừa hưởng các quyền lợi và phát huy
hết những khả năng vốn có của mình cho phép tạo cho trẻ khuyết tật có niềm tin,
lòng tự trọng, ý chí vươn lên trẻ tự tin mạnh dạn trong giao tiếp hoà nhập với
bạn bè, cộng đồng xã hội. đồng thời giáo dục lòng nhân ái, tình cảm yêu thương
của các cháu phát triển bình thường đối với những bạn bị khuyết tật.
Có thể nói Giáo dục hòa nhập trong trường Mầm non là môi trường vô

cùng cần thiết và cũng là nơi tốt nhất để trẻ khuyết tật có cơ hội vươn lên thể
hiện những khả năng của mình và tự tin, hòa nhập vào cộng đồng. Cạnh đó giáo
dục hoà nhập còn giúp cho những trẻ bình thường học được cách quan tâm, giúp
đỡ bạn bè và bồi dưỡng lòng nhân ái ở trẻ em.
Từ đó ta có thể khẳng định giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật là mô
hình giáo dục trẻ khuyết tật có hiệu quả nhất.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
* Thuận lợi:
- Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu
giáo 5- 6 tuổi với tổng số học sinh là 35 cháu trong đó có một cháu khuyết tật
chậm phát triển trí tuệ đó là cháu: Trịnh ngọc Thái.
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao về
chuyên môn của phòng giáo dục và đào tạo qua các buổi tập huấn chuyên đề
trong đó có nội dung giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non.
- Ban giám hiệu nhà trường là người đóng vai trò lãnh chỉ đạo tích cực
mang tính hỗ trợ cao trong giáo dục hào nhập trẻ khuyết tật, nhà trường có đầy
đủ hồ sơ theo dõi trẻ khuyết tật, quan tâm đầu tư mua sắm trang thiết bị giáo
dục, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy- học tập phù hợp
với trẻ như: Hình ảnh trực quan, ti vi, đầu đĩa...dành để dạy các tiết học cho cả
lớp và các tiết học cá nhân cho trẻ khuyết tật, qua đó giáo viên có thể ôn tập và
củng cố lại kiến thức, kỹ năng mà trẻ chưa nắm được ở các hoạt động trong
ngày.

3


- Nhà trường cùng với giáo viên có trẻ khuyết tật thường xuyên tiếp xúc
,trao đổi với các bậc cha mẹ trẻ khuyết tật để phối hợp trong công tác chăm sóc
trẻ được tốt hơn.
* Khó khăn:

Thực trạng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật của ngành học Mầm non nói
chung và việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật nói riêng ở trường Mầm non
Thành Kim vẫn còn nhiều những hạn chế:
Đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo chuyên sâu về giáo dục trẻ khuyết
tật và làm thế nào để trẻ khuyết tật hoà nhập ở trường mầm non được tốt, một số
giáo viên nhận thức chưa đầy đủ về công tác chăm sóc trẻ khuyết tật, đặc biệt là
GDHN trẻ khuyết tật trí tuệ, việc trẻ khuyết tật vào lớp hoà nhập cần có thời
gian để quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ do đó cũng phần nào có ảnh hưởng đến
việc chăm sọc giáo dục chung cả lớp.
Tài liệu phục vụ cho khuyết tật còn rất ít, công cụ để theo dõi đánh giá sự
tiến bộ của trẻ chủ yếu giáo viên tự làm
Mặt khác trên thực tế nhiều phụ huynh kể cả gia đình có trẻ bị khuyết tật
chưa nhận thức đầy đủ về giáo dục trẻ khuyết tật nói chung và giáo dục hòa
nhập nói riêng nên chưa tích cực đưa con đến lớp, đa số phụ huynh làm nông
nghiệp, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên ít có thời gian quan tâm đến trẻ.
Cạnh đó, một số phụ huynh của trẻ khuyết tật còn có tâm lý e ngại, giấu
diếm bệnh tật của con em mình, chưa mạnh dạn phối hợp với giáo viên để thống
nhất biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ. Phụ huynh chưa mạnh dạn nói ra những
đặc điểm của trẻ nên chúng tôi chưa có sự hiểu biết toàn diện về tâm lý, nhận
thức...của trẻ khuyết tật nhiều phụ huynh không nghĩ đến việc chạy chữa hay
khắc phục hậu quả khuyết tật cho con em mình, số trẻ trong lớp chưa được giảm
theo quy định. Vì vậy cúng có ảnh hưởng đến thời gian gần gũi, chăm sóc cho
trẻ khuyết tật.
Trang thiết bị, đồ dùng dạy học đặc thù hỗ trợ cho trẻ khuyết rật trí tuệ học
tập chưa có.
Bản thân trẻ chưa biết hòa nhập cùng các bạn tất cả các khả năng của trẻ
còn quá thấp so với những bạn bình thường, ý thức của trẻ phát triển chậm.
* Kết quả thực trạng:
Công tác GDHN cho trẻ khuyết tật ở trường mầm non là một vấn đề không
còn là mới mẻ, đã được triển khai trong các đợt học chuyên đề, hầu hết các giáo

viên đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác này. Tuy nhiên để đánh
giá chung tôi thấy thực tế việc giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật chưa thực sự
được chú trọng theo đúng nghĩa và tầm quan trọng của nó đặc biệt khi được cọ
sát với môi trường học tập, cùng với các hình thức tổ chức tiết học của cháu
Thái trẻ khuyết tật trí tuệ tại lớp tôi, nhìn vào các khả năng cơ bản ở tất cả các
thời điểm 1 ngày tôi thấy cháu còn gặp nhiều hạn chế nên việc giáo dục hoà
nhập chưa thực sự mang lại hiệu quả thiết thực.

4


Cụ thể được thể hiện ở bảng khảo sát đầu vào của cháu như sau:
KQ của trẻ
STT ND Khảo sát

Mức độ đạt được của trẻ KTTT
Tốt

1
2
3
4

Khả năng nhận thức

0
Khả năng giao tiếp
0
Khả năng tự phục vụ 0
Khả năng hòa nhập

0
cùng các bạn

Khá

Trung bình Yếu

0
0
0

0
x
0

x
0
x

0

0

x

Đứng trước những khó khăn trên đã đặt ra cho tôi nhiều lo lắng và suy nghĩ
phải dùng những phương pháp, biện pháp nào để giúp trẻ khuyết tật trí tuệ có
thể hòa nhập được với các bạn trong lớp và trẻ có hứng thú tham gia vào các
hoạt động cùng cô, cùng các bạn để từ đó giúp bản thân tôi nói riêng và các bạn
đồng nghiệp nói chung có thêm thật nhiều kinh nghiệm trong công tác chăm sóc,

giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
2.3. Các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trí tuệ đạt hiệu
quả:
Hòa nhập không chỉ đơn giản là đưa trẻ khuyết tật vào trong một chương
trình giáo dục chung với trẻ bình thường, mà phải thiết lập những bước rõ ràng
để đảm bảo cho trẻ khuyết tật được tham gia hoà nhập một cách đầy đủ và tích
cực trong những hoạt động trong ngày của trẻ. Việc thiết lập những bước rõ ràng
là vai trò của giáo viên, chính vì thế mà tôi đã dựa trên cơ sở phân tích những
đặc điểm phát triển của cháu Thái lớp tôi, qua thực trạng và điều kiện thực tế
của nhà trường, tôi đã tìm ra được một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục hòa nhập trẻ 5 -6 tuổi khuyết tật trí tuệ ở trường Mầm non như
sau:
2.3.1. Lập kế hoạch giáo dục theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ khuyết tật
Để có thể xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ khuyết tật trí tuệ
của lớp mình, việc đầu tiên tôi xác định mức độ chức năng hiện tại của chaus
Thái hay nói cách khác, tôi đi sâu vào tìm hiểu tình trạng ban đầu của cháu, đây
là một việc làm bắt buộc trong giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật.
Có nhiều công cụ để đánh giá tình trạng ban đầu, đối với trẻ khuyết tật trí
tuệ trước tiên tôi thu thập những thông tin chung như: Đặc điểm cá nhân, mức
độ khuyết tật và thông tin về sự phát triển của cháu, quan sát, đánh giá các lĩnh
vực phát triển của cháu như: Thông qua vận động thô; vận động tinh; giao tiếp;
nhận thức và kĩ năng cá nhân - xã hội...dựa vào các lĩnh vực phát triển sau:
- Phát triển thể chất: Cháu Thái vẫn có khả năng thực hiện các vận động
thô: đi, chạy, nhảy…và thực hiện một số vận động tinh như: Sờ mó, cầm nắm…;
tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe vẫn bình thường

5


- Kỹ năng tự phục vụ (ăn, uống, vệ sinh...) Cháu Thái vẫn tham gia sinh

hoạt như các bạn khác, tuy nhiên cháu chậm chạp hơn.
- Phát triển kỹ năng nhận thức: Đây chính là điểm nhấn, là nguyên nhân
chứng minh rằng cháu Thái bị khuyết tật trí tuệ. Vì thế khả năng nhận thức của
cháu vô cùng hạn chế, cháu ngơ ngác trong mọi hoạt động về nhận thức. Có thể
nói khi có tác động từ cô đến cháu đòi hỏi ở cháu sự tư duy để trả lời của cô
cháu thờ ơ không quan tâm, hoặc mãi mãi cháu mới hiểu được một tý vấn đề.
- Phát triển ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp: Cháu vẫn biết nói, biết giao
tiếp với mọi người xung quanh, nhưng rất ít. Do trong giao tiếp cháu không hiểu
được nghĩa của đối phương nên dần dần cháu ngại tiếp xúc
- Phát triển kỹ năng xã hội: Cháu có khả năng tự lập nhưng kép kín bản
thân. làm gì cũng chậm chạp.
- Chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng: Cháu Thái bị khuyết tật trí
tuệ, nhìn chung cháu chậm chạp hơn rất nhiều so với các bạn cùng trang lứa.
Tuy nhiên vẫn có khả năng phục hồi chức năng phần nào nếu được chăm sóc,
giáo dục hoà nhập nhiệt tình và đúng cách.
Căn cứ vào hiện trạng cụ thể của cháu Thái, tôi thấy mình phải lập kế
hoạch một cách cụ thể, bảo đảm tính liên tục, đảm bảo tính khả thi, vừa sức, phù
hợp với khả năng và nhu cầu của trẻ. Hàng tuần tôi lập kế hoạch để dạy cho trẻ
và hướng dẫn trẻ thực hiện, trong quá trình tổ chức các hoạt động, tôi luôn quan
sát và theo dõi từng biểu hiện của trẻ, nếu trẻ chưa thực hiện được trong ngày,
trong tuần đó thì tôi tiếp tục đưa kế hoạch đó vào tuần sau và tìm ra những
phương pháp hướng dẫn để trẻ thực hiện tốt hơn.
Mặt khác, tôi lập sổ theo dõi trẻ trong suốt quá trình trẻ học tại lớp theo
mẫu gồm các nội dung như sau:
Xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập cho cả năm học:
Xây dựng kế hoạch giáo dục tháng/chủ đề:
Ví dụ: Kế hoạch giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập năm học 2018 - 2019
Họ tên trẻ: Trịnh Ngọc Thái: Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi C
Giáo viên phụ trách: Lê Ánh Tuyết
A. Những đặc điểm chính của trẻ:

1. Điểm mạnh:
Về thể chất: Trẻ vẫn đi, chạy, nhảy được nhưng so với độ tuổi thì yếu hơn
so với các bạn khác
Về các kỹ năng: Trong sinh hoạt hàng ngày trẻ vẫn có thể tự mặc quần áo và
tự lấy đồ dùng cá nhân.
Ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi: Thính giác của trẻ nghe rõ bình thường vì
vậy trẻ vẫn nói và diễn đạt được điều mình muốn của nhu cầu bản thân.
2. Khó Khăn:
Về thể chất: Trẻ đi chạy chậm cháp và khó khăn hơn trẻ khác, không thực
hiện được các loại vận động phức tạp

6


Về nhận thức: Đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ đặc điểm cơ bản đó là nhận
thức chậm phát triển, không có khả năng học tập, rất mau quên, trẻ thường hay
lơ đãng không chú ý nghe cô dạy
Về ngôn ngữ giao tiếp: Trẻ còn gặp khó khăn khi phát âm các từ khó, do
ngôn ngữ bị hạn chế nên trẻ khó nhận ra mối quan hệ của các sự vật hiện tượng
xung quanh.
Về các kỹ năng hàng ngày: còn gặp rất nhiều khó khăn như: chưa biết rửa
tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, chưa biết đánh rằng hàng ngày...
3. Nhu cầu của trẻ:
Tôi thường xuyên quan tâm sát sao tới trẻ, tập cho cháu có thói quen rửa tay
trước khi ăn, tập một số thói quen cơ bản trong sinh hoạt như: tự xúc cơm ăn, tự
lấy nước uống khi khát, tự mặc quần áo..., Dạy trẻ cách phát âm các câu, từ để
thể hiện được các nhu cầu, mong muốn của bản thân trong giao tiếp. Tôi luôn
động viên, khuyến khích trẻ, cho trẻ tham gia tất cả các hoạt động trong lớp giúp
trẻ tự tin vào mình.
B. Kế hoạch giáo dục cá nhân:

*Mục tiêu năm học:
1. Phát triển thể chất:
Vận động thô: Tôi thường xuyên gần gũi trẻ quan sát nhắc nhở, động
viên, khích lệ cháu thực hiện và tham gia các vận động như: Đi, chạy, nhảy và
các bài tập vận động khác cùng với các bạn.
Vận động tinh: Tôi hướng dẫn, động viên hoặc dùng những lời chỉ dẫn
ngắn gọn, dễ hiểu để hướng dẫn cháu thực hiện được các hoạt động như: tô màu,
vẽ, nặn…
2. Kỹ năng tự phục vụ:
Tôi làm mẫu cho cháu xem, dẫn trẻ đến chỗ cất đồ dùng, đồ chơi, hướng
dấn cháu lấy và cất đồ dùng một cách gọn gàng và đúng quy định.
Khi ăn cơm tôi thường gần gũi động viên cháu ăn hết xuất và trò chuyện
cho cháu biết về nhiều loại thức ăn khác nhau, cần phải ăn kết hợp nhiều loại
thức ăn mới đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cơ thể mới khoẻ mạnh được
Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi: Khi đón trả trẻ, sau giờ học giờ ngủ trưa.
3. Phát triển ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp:
Cô thường xuyên gần gũi với trẻ, trò chuyện với trẻ khuyết tật bằng ngôn
ngữ hoặc câu nói đơn giản để kích thích trẻ giao tiếp với cô, với bạn.
4.Phát triển khả năng nhận thức:
Đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ đặc điểm của trẻ là rất mau quên, cháu
thường hay lơ đãng không chú ý nghe cô dạy. vì thế tôi phải chú ý nhắc nhở
cháu nhiều lần và dùng những lời nói ngắn, đơn giản, dễ hiểu và gần gũi để dạy
trẻ nói. Sau đó tăng dần mức độ khó của câu, từ.
5. Phát triển kỹ năng xã hội:
Trẻ thực hiện một số yêu cầu đơn giản của cô đề ra, tập cho trẻ thói quen
đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết gọi cô khi quần áo bị bẩn, biết tránh xa những
nơi không an toàn và không tự ý đi ra ngoài khi cô không cho phép.

7



6. Chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng:
Tôi luôn luôn người gần gũi trẻ ở tất cả các hoạt động trong ngày, dành
thời gian để hướng dẫn trẻ từ lời ăn tiếng nói đến các thao tác trong sinh hoạt
hàng ngày, tập cho trẻ cầm bút, tô màu, nhận biết, phận biệt theo yêu cầu của
từng hoạt động. Cạnh đó tôi phối hợp với gia đình cháu trong giờ đón - trả trer
để cùng kết hợp giáo dục và phục hồi tốt các lĩnh vục phát triển của cháu.
Ví dụ: Kế hoạch GDHN trẻ KT tháng 9/Chủ đề: Trường Mầm non
Đánh
Tháng Nội
Biện pháp thực hiện
Người
Kết quả
giá
dung
thực
điều
hiện
chỉnh
Phát - Cô hướng dẫn, động viên Cô và -Trẻ
biết
9
triển hoặc dùng những lời chỉ trẻ
thực
hiện
vận
dẫn ngắn gọn, dễ hiểu để khuyết
được các kỹ
động hướng dẫn trẻ thực hiện các tật cùng năng:
vẽ,

hoạt động như: tô màu, vẽ, các bạn nặn, tô mầu
nặn…
trong
những hình
- Cô thường xuyên động lớp
ảnh
đơn
viên, khích lệ trẻ tham gia
giản,
các vận động như: Đi, chạy,
- Trẻ biết
nhảy và các bài tập vận
thực
hiện
động khác cùng với các
các
vận
bạn.
động đơn
giản theo cô
Phát - Cô thường xuyên gần gũi, Cô và Trẻ
biết
triển trò chuyện với trẻ khuyết trẻ
giao
tiếp
ngôn tật bằng ngôn ngữ ký hiệu khuyết
với cô và
ngữ
hoặc câu nói đơn giản để tật
bạn



kích thích trẻ giao tiếp với
những hoạt
giao cô, với bạn giúp trẻ nói
động trong
tiếp
được tên trường, lớp và tên
ngày,
gọi
các ban trong lớp
được
tên
- Dạy trẻ đọc những bài
bạn, tên cô
thơ, chữ cái trong chủ đề
giáo.
Phát Giáo viên phải dùng những Cô và
Trẻ có
triển lời nói ngắn, đơn giản, dễ trẻ
được sự chú
nhận hiểu và gần gũi để tạo được khuyết
ý và ghi nhớ
thức sự tập trung chú ý, ghi nhớ tật
về một số
của trẻ trong sinh hoạt và
việc, một đố
vui chơi....
câu nói đơn
- Giúp cho trẻ tập làm một

giản trong
sỗ việc đơn giản theo yêu
các
hoạt
cầu
động

8


Giáo
dục
kỹ
năng
tự
phục
vụ
Khả
năng

hội
Phục
hồi
chức
năng

Cô thường xuyên gần gũi
với trẻ, quan sát nhắc nhở
trẻ và hướng dẫn trẻ tự xúc
cơm, rửa tay, lay mặt, mặc

quần áo, đi giày, dép....

Cô và
trẻ
khuyết
tật

Trẻ biết tự
xúc
được
cơm ăn, tự
rửa tay, mặc
quần áo...

Dạy trẻ một số kỹ năn ứng
sử lễ phép với cô giáo, mọi
người xung quanh, biết
thực hiện một số yêu cầu
của cô đề ra.
Phối hợp với gia đình trẻ
chăm sóc và phục hồi các
chức năng khiếm khuyết
của trẻ.

Cô và Trẻ
biết
trẻ
cách ứng sử
khuyết
phù hợp

tật
Cô giáo
và người
thân của
trẻ

Trẻ đã biết
ngồi đúng
tư thế, tập
trung chú ý
hơn
Sau khi lập xong kế hoạch giáo dục, căn cứ vào kế hoạch cụ thể của từng
tuần, từng tháng mà tôi đã dành thời gian từ 10 – 15 phút trong ngày để hướng
dẫn riêng cho cháu sau các hoạt động chung của lớp. Có thể gọi đây tiết học cá
nhân dành riêng cho trẻ khuyết tật vì nó mang tính đặc thù của giáo dục hoà
nhập, trong khoảng thời gian này tôi đi sâu vào việc cung cấp, luyện tập những
kiến thức sơ đẳng, cần thiết nhằm giúp cháu phần nào hiểu được những nội dung
kiến thức cô truyền tải. Do cháu có khả năng tập trung chú ý thấp, dễ bị phân tán
nếu có sự tác động của môi trường xung quanh, nên khả năng tiếp thu kiến thức
của cháu chậm hơn rất nhiều so với trẻ bình thường nên nếu chỉ tổ chức cho trẻ
học với các bạn bằng chương trình chung thì sẽ không đủ để giúp trẻ khuyết tật
hình thành những kiến thức, kĩ năng cần thiết. Đo đó trong quá trình hướng dẫn
cháu, dù là dùng lời chỉ dẫn hay dùng cử chỉ, điệu bộ, kí hiệu... tôi luôn nói
chậm, nói rõ ràng, các động tác dứt khoát để giúp trẻ hiểu và thực hiện bài tập
một cách chính xác theo sự hướng dẫn của cô. Mỗi tuần tôi dành 1 đến 2 lần
để dạy trẻ, tôi động viên trẻ lên thực hiện bài học còn lại các bạn khác cổ vũ tinh
thần để trẻ có thể tập trung chú ý, tần xuất của tiết học cá nhân phụ thuộc vào sự
tiến bộ và mức độ phát triển của trẻ, giáo viên cần có sự linh hoạt, nhanh nhạy

9



khi vận dụng các biện pháp sao cho hiệu quả giáo dục trẻ đạt ở mức cao nhất.

H/ả: Hướng dẫn cháu Thái tập kỹ năng vận động

Sau khi áp dụng phương pháp này đối với cháu Thái tôi thấy rằng hiệu quả
nâng lên rõ rệt, cháu đã mạnh dạn tự tin hơn cộng với sự cổ vũ động viên khích
lệ của các bạn trong lớp, sự dịu dàng ân cần khi hướng đẫn của cô giáo giúp cho
khả năng tư duy của trẻ ngày càng được phát triển rõ nét hơn, cháu đã biết tập
chung chú ý và hứng thú hơn trong mỗi giờ học.
2.3.2. Xây dựng môi trường giáo dục phù hợp tạo điều kiện cho trẻ khuyết
tật hoạt động hòa nhập.
Môi trường thuận lợi cho giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là những điều
kiện vật chất và tâm lí tinh thần phù hợp với đặc điểm của trẻ khuyết tật giúp trẻ
khuyết tật tham gia một cách có hiệu quả trong các hoạt động giáo dục. Môi
trường thuận lợi cho giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật gồm môi trường vật chất
và môi trường tâm lí [3].
Trong thực tế, lớp do tôi phụ trách với 35 cháu, dù là trẻ khuyết tật hay
không khuyết tật đều hoạt động chung trong lớp, đây là một trở ngại rất lớn, do
trẻ khuyết tật có những khiếm khuyết riêng nên nhiều khi môi trường trong lớp
học chưa thực sự thuận lợi cho trẻ khuyết tật hoạt động và học tập. Vì vậy, trong
xây dựng môi trường tôi vừa phải chú ý đến đặc điểm chung của tất cả các trẻ và
đặc điểm riêng của trẻ khuyết tật học hòa nhập trong lớp của mình để trẻ khuyết
tật tham gia một cách hiệu quả trong các hoạt động.
Ví dụ: Hình ảnh trên các mảng tường phải rõ ràng, màu sắc cụ thể có nội
dung rõ ràng, dễ hiểu.
* Về môi trường vật chất: Tôi luôn bố trí và tổ chức môi trường cho cháu
chơi và hoạt động đảm bảo nguyên tắc “Chơi bằng chơi, chơi mà học” và đảm
bảo các yếu tố sau:

Không gian thực tế của trường và bố trí không gian trong lớp học để sinh
hoạt và hoạt động gọn gàng, găn nắp.
Mục đích tổ chức hoạt động.
Các yếu tố an toàn cho trẻ.
Các nhu cầu đặc biệt cho trẻ Khuyết tật trí tuệ
Sự linh hoạt và dễ thay đổi theo mục đích giáo dục, theo các chủ đề.

10


Việc tạo môi trường giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật là nhiệm vụ vô
cùng quan trọng, giúp trẻ khuyết tật cảm thấy được sự quan tâm, gần gũi chia sẻ
và giúp đỡ của mọi người xung quanh. Từ đó sẽ tạo cho trẻ sự tự tin hơn trong
cuộc sống. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập một cách thường
xuyên và phải luôn được cải tiến, đổi mới, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và
sở thích của trẻ, giúp trẻ có chế độ học tập, vui chơi hợp lý ở mọi lúc mọi nơi,
tránh mọi hình thức gò bó, áp đặt, mệnh lệnh làm căng thẳng, ức chế tâm lý trẻ.
Mặt khác tôi thường xuyên trò chuyện, âu yếm vỗ về trẻ, tạo cho trẻ tâm thế vui
vẻ, thoải mái, tạo môi trường đẹp, thân thiện để trẻ được hòa nhập cùng với bạn
bè, xây dựng nhóm bạn cùng chơi với trẻ. Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin thích đến
trường.
* Về môi trường tâm lý:
Là giáo viên chủ nhiệm hàng ngày tiếp xúc với cháu: Trịnh ngọc Thái
đặc điểm của cháu là khuyết tật trí tuệ, vì vậy cháu rất nhút nhát, e dè, chức năng
nhận thức kém, khó tập trung, vì vậy khi tạo một môi trường giáo dục bản thân
tôi luôn luôn tránh mọi hình thức gò bó, áp đặt làm căng thẳng, ức chế tâm lý
trẻ. Bên cạnh đó, tôi sẽ tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái, thân thiện để trẻ dễ
dàng hòa nhập với các bạn, đồng thời bản thân tôi luôn thấy rằng mình cần phải
tạo ra các tình huống và các cơ hội để cháu Thái được chủ động, sáng tạo, được
tích cực hoạt động, tư duy, tự chiếm lĩnh kiến thức và kinh nghiệm.


Hình ảnh cháu Trịnh Ngọc Thái học và vui chơi thân thiện cùng bạn bè

Trẻ khuyết tật thường có những biểu hiện khác khác với trẻ bình thường
cùng tuổi do khuyết tật tạo ra dễ làm cho các trẻ trẻ khác chú ý hoặc chế nhạo,

11


xa lánh. chẳng hạn như trẻ khuyết tật trí tuệ nhận thức chậm chạp, vận động
vụng về nên dễ bị các bạn khác chê cười chế nhạo. Do đó tôi xây dựng bầu
không khí vui tươi, ấm áp và chia sẻ trong lớp để làm được điều này tôi dựa vào
một số điểm sau đây:
Phát hiện và sử dụng những điểm mạnh của cháu Thái đồng thời tạo cơ
hội cho cháu thể hiện điểm mạnh của mình, ví dụ trong giờ chơi tự chọn cháu
Thái rất thích chơi với đất nặn để nặn bông hoa, hoặc số đã học và nặn được sản
phẩm đẹp. Những lúc đó tôi thường động viên, khuyến khích kịp thời, sau đó
tuyên dương cháu trước các bạn để cháu Thái tự tin hơn và các bạn cũng công
nhận bạn từ đó không chê cười, chế nhạo bạn nữa.

Hình ảnh: Cháu Thái đang hoạt động theo nhóm cùng các bạn trong lớp

Hàng ngày vào những thời điểm thích hợp tôi trò chuyện với cả lớp để
cho trẻ không khuyết tật cảm nhận được những khó khăn của bạn. Từ đó các bạn
có những cảm thông chia sẻ nhất định.
Ví dụ: Trước giờ đi ngủ tôi kể cho cả lớp nghe câu truyện “Bạn mới” nội
dung câu truyện kể về Bạn Hoa có đôi tay bị tật “Ngón tay bạn ấy quắp lại bé
tẹo” không ai muốn chơi, giờ học cô giáo dậy múa Hoa lúng túng rồi mếu máo
“Thưa cô con không múa được! Rối bạn Hoa ngồi thụp xuống dấu bàn tay trái
vào lòng rồi khóc nức nở, cô giáo ôm Hoa vào lòng và ngẹn ngào nói: Cô đã

chứng kiến “bàn tay tật nguyền” của bạn hoa biết trông em biết nầu cơm tuy bạn
ấy bị khuyết tật nhưng bạn ấy rất đáng trân trọng và tuyên dương. Qua câu
chuyện tôi dẫn dắt đến bạn Thái trong lớp cũng bị khuyết tật trí tuệ vì thế bạn ấy
chậm chạp hơn các con, các con phải biết cảm thông, yêu thương và giúp đỡ bạn
trong các hoạt động, như thế các con mới là những bé ngoan, được cô giáo và
mói người yêu mến.
Với những cách làm như trên nhìn chung các trẻ trong lớp đã biết quan
tân, chia sẻ và động viên cháu, tôi thấy cháu Thái đã tự tin lên rất nhiều và khả
năng nhận thức của cháu cũng tiến bộ rõ rệt.
2.3.3. Phát huy tính tích cực của trẻ khuyết tật trí tuệ
Quá trình nhận thức của trẻ khuyết tật trí tuệ diễn ra chậm hơn trẻ “bình
thường” rất nhiều do vậy nhằm tạo điều kiện phát huy tính tích cực của trẻ giúp
trẻ nhớ và khắc sâu các kiến thức đã học. Để đạt được điều này trong mọi hoạt
động tôi luôn giúp trẻ từ thế hoạt động thụ động sang thế chủ động nhằm phát

12


huy năng lực mạnh mẽ của từng cá nhân trẻ trong lớp nói chung và trẻ khuyết tật
nói riêng cũng như tính tích cực, năng động theo từng mức độ của trẻ làm cho
mỗi giờ học trở nên lý thú nhiều bất ngờ trẻ tích lũy nhiều kiến thức kỹ năng
được học.
Chẳng hạn: Nội dung và yêu cầu đối với trẻ khuyết tật trí tuệ trong hoạt
động làm quen với toán tôi đã tiến hành các hoạt động điều chỉnh cho phù hợp
với trẻ như sau:
* Mục tiêu chung: Yêu cầu trẻ phát hiện được quy tắc xắp xếp của các đối
tượng và hoàn chỉnh cách sắp xếp đó.
* Mục tiêu riêng cho trẻ khuyết tật trí tuệ: Trẻ phát hiện được quy tắc sắp
xếp của 2 đối tượng và hoàn chỉnh cách sắp xếp đó.
* Chuẩn bị: Vở “Giúp bé làm quen với toán qua hình vẽ”, Bút chì, bút

màu và thực hiện theo yêu cầu trong vở.
* Tiến hành đối với trẻ khuyết tật: Quan sát trình tự xắp xếp của các hình
trên từng hàng và chọn một hình ở cột bên phải cho phù hợp với cách xắp xếp
đó và tô mầu, hoặc nối hình đó với vị trí số 5 trên mỗi hàng để có trình tự xắp
xếp phù hợp.
Cách làm 2: Nội dung so sánh, phân loại và sắp xếp theo quy tắc
* Mục tiêu chung: Yêu cầu trẻ phát hiện được quy tắc xắp xếp của các
đối tượng và hoàn chỉnh cách sắp xếp đó.
* Mục tiêu riêng cho trẻ khuyết tật trí tuệ: Trẻ phát hiện được quy tắc sắp
xếp của 2 đối tượng và hoàn chỉnh cách sắp xếp đó.
* Chuẩn bị: Các hình rời: Hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình tam
giác bằng bìa cứng.
* Cách tiến hành (Với hoạt động này tôi lựa chọn tiến hành trong góc hoạt
động hoặc hoạt động tự chọn trong buổi chiều).
- Tiến hành riêng cho trẻ khuyết tật trí tuệ: Cho trẻ cầm hoặc chỉ và gọi
tên lần lượt các hình. Hỏi trẻ thứ tự các hình cô đã sắp xếp trên bảng, sau đó cho
trẻ chọn các hình dời trong rổ để gắn vào vị trí sắp xếp đúng như quy luật sắp
xếp của cô yêu cầu. Tương tự với các hình khác. khi trẻ đã thành thạo tôi cho trẻ
chơi cá nhận hoặc cho trẻ chơi chung với các bạn bình thường trong nhóm.

13


(Hình ảnh: Cháu Thái đang học cách sắp xếp các hình)
Trong khi hướng dẫn trẻ khuyết tật tôi luôn hướng dẫn từ nhưng hoạt
động đơn giản nhấn, khi trẻ đã thực hiện được mới tiếp tục với những hoạt động
phức tạp hơn.
+ Trẻ khuyết tật trí tuệ nhận thức chậm chạp, tôi lựa chọn hệ thống câu
hỏi phù hợp với nhận thức của trẻ. Cùng một nội dung cần cung cấp cho trẻ,
nhưng với cháu Thái tôi điều chỉnh câu hỏi phù hợp để trẻ có thể hiểu nội dung

câu hỏi và trả lời chính xác.
VD: Trong giờ khám phá khoa học. Đề tài Tìm hiểu về một số loại hoa.
Khi cho trẻ khám phá các loại hoa đối với cháu phát triển bình thường tôi
sử dụng hệ thống câu hỏi khó như: Bông hoa này có đặc điểm gì? hoặc con có
nhận xét gì về bông hoa này? Từ đó để trẻ tự đưa ra nhận xét phán đoán của
mình theo ý hiểu.
Còn đối với cháu Thái tôi đưa ra những câu hỏi cụ thể, đơn giản dễ hiểu
như: đây là hoa gì? hoa có những bộ phận gì đây? (đồng thời tôi chỉ vào từng bộ
phận của hoa như: Cành hoa, lá hoa, … cho trẻ nhận xét và biết từng bộ phận).
+ Tăng cường giao nhiệm vụ cho trẻ và thường xuyên chỉ dẫn, động viên
để trẻ khuyết tật tham gia thực hiện. Trẻ cần phải được thường xuyên tập luyện
bằng những công việc cụ thể để khắc phục những khiếm khuyết của bản thân.
VD: Giờ hoạt động góc tôi giao nhiệm vụ cho cháu tham gia vào góc xây
dựng với nhiệm vụ lắp ghép các mô hình ngôi nhà hoặc lắp ghép xe ôtô tải mà
trẻ thích.
Hơn thế nữa, khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, trẻ sẽ cố gắng huy động
tối đa khả năng vốn có của mình và tích cực hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt
nhất để nhận được sự động viên, khen ngợi. Tôi cần căn cứ vào khả năng và nhu
cầu của trẻ để lựa chọn và giao cho trẻ những công việc phù hợp. Khi trẻ hoàn
thành nhiệm vụ, tôi cùng các bạn của trẻ động viên, khuyến khích trẻ. Việc động

14


viên, khuyến khích kịp thời khi trẻ hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa rất lớn, dù
công việc đó nhỏ bé, bình thường so với trẻ khác nhưng đối với trẻ khuyết tật thì
đó là một việc làm có nhiều cố gắng và tiến bộ.

Hình ảnh: Cháu Thái đang lắp ghép các hình


2.3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy để tạo điều
kiện cho trẻ khuyết tật hứng thú hoạt động hoà nhập.
Ngày nay khoa học công nghệ thông tin phát triển đã góp phần rất lớn cho
việc nâng cao chất lượng giáo dục, giúp đổi mới các phương pháp dạy học, trang
bị, đổi mới phương tiện dạy học đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trong những năm
gần đây, cùng với sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể và nhân dân địa
phương đã đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường, giúp trường mua sắm được
máy vi tính, màn hình phục vụ cho công tác giảng dạy. vì vậy tôi thường xuyên
truy cập mạng in tơ nét tìm hiều về thông tin giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trí
tuệ, tìm tòi những hình ảnh, tư liệu giáo dục, thiết kế các trò chơi trong bài giảng
papol để trẻ tiếp cận công nghệ thông tin và đặc biệt là trẻ khuyết tật rất hứng
thú tham gia.

15


Giờ học tổ chức trò chơi chữ cái
Việc đưa công nghệ thông tin ứng dụng vào công tác giảng dạy sẽ tạo cho
giờ học thêm sinh động và trẻ cũng rất hứng thú học tập và giúp trẻ tư duy
nhanh nhẹn thông minh hơn trẻ rất hứng thú tham gia và đặc biệt là khả năng
nhận biết, chú ý, ghi nhớ của trẻ khuyết tật trí tuệ tiến bộ rõ rệt.
Ví dụ: Tôi thiết kế những tiết học như: Nhận biết các hình khối với những
tiết học như thế này trẻ sẽ được quan sát các hình khối với các mầu sắc khác
nhau từ đó giúp trẻ ghi nhớ lâu hơn về đặc điểm và mầu sắc của hình.
Hoặc thiết kế các trò chơi như: Bé tinh mắt, Ai đoán giỏi... nhằm mục đích mở
rộng cho trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh, nhận biết đoán tên những con vật,
các loại rau củ quả... trong các bài giảng tôi thiết kế hình ảnh ngộ nghĩnh bài tập
mới lạ vừa sức với trẻ nên trẻ tỏ ra rất hứng thú.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ, đồng thời thực hiện mục tiêu
chung của ngành và của trường đề ra, đó là việc ứng dụng công nghệ thông tin

vào công tác giảng dạy đạt hiệu quả. Những năm học vừa qua tôi đã ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy bằng cách xây dựng các bài giảng điện tử
trong đó có các bài tập nhằm củng cố và cung cấp kiến thức cho trẻ như bài
giảng: “Tìm hiểu về các phương tiện giao thông’’ tôi xây dựng các ứng rõ hình
ảnh đẹp gần gũi với trẻ các câu hỏi tương ứng ví dụ: câu hỏi xe đạp là phương
tiện giao thông đường bộ đúng hay sai trong bài giảng có âm thanh hiệu ứng rõ
ràng ví dụ sai thì sẽ có hình mặt mếu và tiếng bé sai rồi vì vậy trẻ vừa chơi vừa
học rất dễ nhớ.

16


Hình ảnh: giờ học KP các phương tiện giao thông đường bộ

Muốn công tác giảng dạy cho trẻ khuyết tật hứng thú hoạt động hoà nhập
ở trường mầm non đạt kết quả tốt đặc biệt là trong lớp có cháu khuyết tật, bản
thân là một giáo viên tôi luôn cần phải biết vận dụng đổi mới hình thức tổ chức,
ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động học tập vui chơi với phương
châm: “Học bằng chơi, chơi mà học’’. Tuy nhiên trong tất cả các hoạt động tôi
không phải chỉ chú ý đến trẻ khuyết tật mà phải quan tâm chung đến cả trẻ trong
lớp. Muốn biện pháp này thực hiện tốt đòi hỏi giáo viên phải nhạy bén sáng tạo,
quan sát theo dõi và sử lý tình huống kịp thời. bản thân là người tổ chức, hướng
dẫn, đưa ra những yêu cầu gợi mở để trẻ trả lời và giao lưu với nhau lôi cuốn trẻ
vào việc tham gia tìm tòi khám phá một cách tích cực, trẻ được chơi thoải mái
không gò ép, trẻ tự bộc lộ cảm nghĩ của mình trong lúc chơi và phản ánh những
kiến thức mà các cháu đã tiếp thu được ở mọi lúc mọi nơi và trong các hoạt
động.
Qua các tiết dạy giáo án điện tử tôi thấy đa số trẻ rất hứng thú tham gia
hoạt động và kết quả đạt được trên trẻ là rất cao. Nhất là đối với cháu Thái, tôi
cảm thấy rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy đã khơi dậy

sự tò mò ham hiểu biết ở cháu, tôi thấy cháu rất thích thú và chú ý. Đây chính là
một thành công lớn khi tôi tổ chức các giờ học cho trẻ nói chung và giáo dục
hoà nhập cho trẻ khuyết tật nói riêng và tôi thấy rất tự tin khi dạy bằng các giáo
án thiết kế điện tử.
2.3.5. Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở mọi lúc, mọi nơi.
Là một giáo viên mầm non, với tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, mến
trẻ và đặc biệt với tình yêu thương những đứa trẻ kém may mắn tôi đã không
ngại khó khăn chăm sóc cháu, tìm tòi nghiên cứu qua mạng Internet, tham khảo
tài liệu sách báo… đưa ra những biện pháp cụ thể để giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật một cách có hiệu quả, giúp trẻ tự tin, nhanh nhẹn, hoạt bát, phát triển

17


ngôn ngữ, lĩnh hội những kiến thức quý báu làm hành trang cho trẻ bước vào đời
hòa nhập với cộng đồng xã hội. Để làm được điều đó ngoài những biện pháp
trên tôi chú ý đi sâu vào việc giáo dục hoà nhập cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Vì
việc giáo dục trẻ khuyết tật phải được thực hiện một cách thường xuyên, kiên trì,
nhẫn nại, thường xuyên nhắc nhở, giáo dục trẻ cả ở trường và ở nhà.
* Giờ đón, trả trẻ:
Mỗi buổi sáng khi cháu Thái đến lớp tôi thường xuyên trò chuyện với
cháu, hỏi thăm tình hình sức khoẻ, hỏi trẻ ở nhà ai thương con nhất,….con yêu
ai nhất… bằng những tình cảm trìu mến, yêu thương Tôi đã tạo cho cháu cảm
giác tự tin, gần gũi và kích thích cháu thích thú và đáp lại cô một cách hồn
nhiên. Cạnh đó tôi thường tổ chức các trò chơi vận động nhẹ và lấy cháu làm
trung tâm.
Ví dụ: Cho trẻ tham gia Trò chơi
“tập tầm vông”, với đặc điểm chậm
phát triển, thông qua trò chơi này trẻ
sẽ có những phản xạ nhanh hơn sau

khi cô kết thúc câu đồng dao, từ đó
trẻ cảm thấy thoải mái, vui vẻ thì
hướng cho trẻ chơi cùng các bạn.
* Giờ Ăn:Do bị khuyết tật trí
tuệ nên trẻ chậm chạp không thể như
các bạn bình thường khác. Tuy trẻ
cũng biết tự phục vụ mình, tự xúc
cơm ăn nhưng cô phải nhắc nhở
nhiều lần và rèn luyện thường xuyên trẻ mới thực hiện được.Nhưng trẻ xúc cơm
còn vụng về, hay làm đổ cơm ra ngoài và thường hay ngồi đợi cô đến đút cơm
cho mình. Nhiều khi ăn hết bát cháu chưa biết xin thêm. Những lúc như thế tôi
đến bên trẻ gần giũ động viên cháu tự xúc. Mỗi lần như thế tôi thấy cháu rất
ngoan, ăn nhanh và phấn khởi hơn nhiều
* Vệ sinh cá nhân: Ở trường Mầm non, chúng ta thường hay nhắc trẻ biết rửa
tay với xà phòng sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn, biết đánh răng sau khi ăn
xong. Những khi cho các cháu thực hiện vệ sinh cá nhân, tôi thường cho cháu
Thái ra cùng với các bạn, dùng lời nói hướng dẫn trẻ từ từ từng các thao tác rửa
tay, đánh răng, cô có thể vừa hướng dẫn, vừa làm cho trẻ xem. Qua nhiều lần
được cô hướng dẫn và nhìn các bạn thực hiện, dần dần cháu đã có một số kĩ
năng tự phục vụ vệ sinh cá nhân cùng với các bạn trong lớp mỗi khi cô yêu cầu.
2.3.6. Phối hợp với phụ huynh và các cơ quan, tổ chức xã hội trong việc giáo
dục trẻ khuyết tật hoà nhập.
Để các trẻ em khuyết tật được đến trường mầm non hòa nhập cùng bạn bè
phụ huynh nắm bắt được vai trò quan trọng của việc giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật trong trường mầm non thì việc phối kết hợp với chính các bậc phụ
huynh là việc làm không thể thiếu vì người đóng vai trò quan trọng, quyết định
đến số lượng trẻ khuyết tật được đến trường mầm non chính là phụ huynh

18



Sinh con ra có những khiếm khuyết về bất cứ mặt nào cũng là điều mà
không bố mẹ nào mong muốn. Tuy nhiên, khi gặp phải điều không may mắn đó
thì bố mẹ nào cũng muốn bù đắp cho con, tìm cho con con đường phát triển tốt
nhất. Biện pháp này nhằm củng cố, ôn luyện và duy trì những kỹ năng đã được
hình thành ở trẻ, đặc biệt nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tất cả các biện pháp
giáo dục của cô giáo ở trường sẽ không có hiệu quả nếu thiếu sự phối hợp của
gia đình. Vì thế trong thực tế giảng dạy, tôi thường xuyên và trực tiếp trao đổi
với ông, bà nội của cháu Thái về việc sinh hoạt và học tập của trẻ (Vì bố mẹ
cháu đi làm ăn xa), tôi cùng với ông, bà nội cháu để thống nhất các biện pháp
chăm sóc- giáo dục trẻ tạo điều kiện giúp trẻ phát huy khả năng của mình.
- Tôi nhắc ông bà cháu dành nhiều thời gian trò chuyện, quan sát cháu Thái
để hiểu rõ hơn tâm lí cũng như sự phát triển các kĩ năng của cháu. Trên cơ sở
nắm rõ những nội dung trẻ được học ở trường, về nhà ông bà cần động viên và
cho tập luyện thêm cho cháu ở nhà để khắc sâu kiến thức cho cháu.
- Đối với trẻ khuyết tật về trí tuệ, tôi vẽ những bức tranh đơn giản về và
hướng dẫn phụ huynh chỉ cho cháu cách tô màu cho phù hợp. Qua những bài
hát, những câu chuyện, bức tranh sẽ giúp phụ huynh có thể theo dõi và phát hiện
những biểu hiện mới, khác của trẻ để trao đổi cùng với giáo viên chủ nhiệm để
tìm ra biện pháp tối ưu nhất giúp trẻ phát triển và hòa nhập.
Tạo điều kiện cho trẻ được đi lại, quan sát, tiếp xúc với một số vật dụng
trong gia đình: Khi trẻ ở nhà, bố mẹ nên dành thời gian cho trẻ quan sát, tìm
hiểu về một số vật dụng trong gia đình. Bố mẹ đóng vai trò như người bạn cùng
đi chơi, quan sát, tìm hiểu siêu thị gia đình của nhà mình, hướng dẫn trẻ gọi tên,
nói đặc điểm của một số đồ dùng trong nhà.
Khi thực hiện biện pháp này tôi
nhắc nhở phụ huynh chú ý không
nên để trẻ có cảm giác bị gò ép, bắt
buộc mà phải để cho trẻ có một tâm
lí thật nhẹ nhàng, thoải mái

Bên cạnh đó, để có thêm kinh
phí, đầu tư thêm cơ sở vật chất,
trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục
vụ cho việc chăm sóc, giáo dục trẻ
khuyết tật, trường Mầm non Thành
Kim cần huy động thêm sự hỗ trợ từ
các lực lượng cộng đồng.
Phối hợp với y tế kiểm tra sức
khỏe, xác định mức độ khuyết tật
của trẻ để có biện pháp chăm sóc,
giáo dục trẻ hòa nhập phù hợp.
Hình ảnh: Trao đổi với phụ huynh trong
việc giáo dục trẻ khuyết tật hoà nhập

19


2.4. Hiệu quả sau khi thực hiện biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật tại trường
Mầm non Thành Kim
Với sự nỗ lực của bản thân và sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám
hiệu, đồng nghiệp trong lớp, trong trường cũng như việc sử dụng các biện pháp
giáo dục hòa nhận cho trẻ khuyết tật trí tuệ có hiệu quả, bản thân tôi nhận thấy
rằng việc giáo dục hòa nhật cho trẻ khuyết tật trí tuệ ở trường Mầm non Thành
Kim nơi tôi đang công tác đã đem lại nhiều kết quả khả quan.
Nhận thức của giáo viên về công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật
ở trường mầm non. So với đầu năm và cuối năm học, thì việc giáo dục hòa nhập
cho trẻ khuyết tật thấy rằng là hết sức quan trọng, có vai trò rất cần thiết đối với
sự phát triển của trẻ. Tỷ lệ này đã tăng lên là 100%
Trẻ khuyết tật đã hòa nhập cùng với các trẻ bình thường trong tất cả các
hoạt động trong ngày

Trẻ linh hoạt, mạnh dạn và tự tin hơn khi tiếp xúc với cô giáo, với các bạn
và với những người xung quanh.
Trẻ biết làm một số việc đơn giản theo yêu cầu, biết làm một số việc tự
phục vụ: cất đồ dùng, đồ chơi, nhận biết được sách và đồ dùng cá nhân của mình
theo đúng ký hiệu, có nề nếp học tập.
Phụ huynh có trẻ khuyết tật cũng tin tưởng hơn vào nhà trường, đã yên tâm
khi đưa con, em mình đến lớp.
Các bậc phụ huynh cũng như các cơ quan, tổ chức xã hội đối với trẻ khuyết
tật đã có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng trong tác giáo dục hòa nhập cho
trẻ khuyết tật ở trường Mầm non, không còn tình trạng phụ huynh kỳ thị hay xin
cho con em mình sang lớp không có trẻ khuyết tật để học.Phụ huynh có con bị
khuyết tật cũng đã thay đổi đáng kể, được thể hiện qua bảng sau:
KQ của trẻ
STT ND Khảo sát

Mức độ đạt được của trẻ khuyết tật trí tuệ
Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

1

Khả năng phát triển
0
0
x

0
Nhận thức
2
Khả năng giao tiếp
x
0
0
0
3
Khả năng tự phục vụ
x
0
0
4
Khả năng sống độc
0
x
0
0
lập
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu và thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình,
tôi nhận thấy rằng năm năm đầu tiên trong cuộc đời trẻ Mầm non là những năm
tháng rất quan trọng, đây là thời gian mà những nền tảng cho cuộc sống được
hình thành. Một nền tảng tốt tạo cho đứa trẻ cơ hội có một cuộc sống hạnh phúc
và có ý nghĩa, đồng thời để chúng trở thành một thành viên có ích cho xã hội.

20



Những năm này rất quan trọng đối với trẻ, và tất nhiên cũng rất quan trọng đối
với trẻ khuyết tật.
Công tác tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật trí tuệ tuy không còn là
vấn đề khá mới mẻ trong những năm gần đây nhưng tuy nhiên việc thực hiện
còn có nhiều vấn đề bất cập. Trường mầm non còn gặp rất nhiều khó khăn
trong vấn đề triển khai thực hiện công tác tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết
tật trí tuệ, chính vì thế việc tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật càng sớm
càng tốt là điều rất cần thiết. Đưa trẻ khuyết tật vào môi trường hòa nhập ở
trường mầm non đóng vai trò giúp trẻ khuyết tật được phát triển toàn diện về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và tự tin, hòa nhập vào cộng đồng.
Qua kết quả thu được sau khi thực hịên và triển khai đề tài của mình ở
trường Mầm non Thành Kim tôi đã phần nào yên tâm hơn khi lựa chọn các biện
pháp giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật.
Từ kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn công tác giáo dục hòa nhập cho
trẻ khuyết tật trí tuệ tại các trường mầm non, tôi đã mạnh dạn đề xuất các biện
pháp để góp phần tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất cho giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật ở trường mầm non.
3.2. Kiến nghị:
- Bộ giáo dục, các cơ quan chức năng và các ban ngành cộng đồng cần đầu
tư một phần kinh phí cho các trường mầm non hòa nhập để xây dựng cơ sở vật
chất, đầu tư trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi đặc thù phục vụ cho việc chăm sóc,
giáo dục trẻ khuyết tật và có chế độ đãi ngộ cho các giáo viên dạy hòa nhập.
- Cơ quan chức năng cần đưa ra các văn bản, quy định hướng dẫn phân loại
trẻ khuyết tật theo mức độ, trẻ nào thì học trường chuyên biệt, trẻ nào thì vào lớp
hòa nhập để thỏa mãn ở mức cao nhất các nhu cầu cá nhân của trẻ.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng, các chuyến tham quan, học tập kinh nghiệm
nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong công tác chăm
sóc- giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường Mầm non.
- Giáo viên, nhà trường và các đoàn thể cùng phối hợp chặt chẽ với gia đình

trẻ khuyết tật trong việc thực hiện các biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ.
Trong quá trình thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi những
thiếu xót. Rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung của hội đồng khoa học các
cấp, các ban ngành, các đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn và tôi
có nhiều kinh nghiệm hơn trong quá trình thực hiện công tác giáo dục hòa nhập
cho trẻ khuyết tật ở trường Mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thạch Thành, ngày 10 tháng 04 năm 2018
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN
Lê Ánh Tuyết

21


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tài liệu hướng dẫn Học tập làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí
Minh trong giáo dục mầm non.
[2] Tạp chí giáo dục số 342
[3] MN 44 Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong giáo dục mầm non.
[4] Đại cương giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ



×