Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số giải pháp giúp trẻ 5 6 tuổi phát triển ngôn ngữ tại điểm trường na tao trường mầm non pù nhi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.21 KB, 17 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Để tiến tới một đất nước văn minh, hiện đại, có nền kinh tế và chính trị
vững vàng, có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến thì đòi hỏi phải có những con
người tiên tiến, con người xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế hệ kế thừa những thành tựu trên là ai? Câu trả lời không ai khác
đó chính là những mầm non tương lai của đất nước.
Trẻ sinh ra, chào đời với sự ngây thơ, ngộ nghĩnh và lớn lên nhờ vào dòng
sữa mẹ, không chỉ thế giọng nói vỗ về, tiếng hát và lời ru của mẹ là chất men
xúc tác hình thành ở trẻ một khả năng duy nhất chỉ loài người mới có: “Khả
năng dùng ngôn ngữ để giao tiếp”.
Để phát triển toàn diện cho trẻ, ngoài việc trẻ được cung cấp đầy đủ về thể
chất thì việc giáo dục ngôn ngữ là một phần không thể thiếu. Phát triển ngôn
ngữ cho trẻ còn mang một tầm quan trọng hết sức lớn lao.
Khi trẻ còn đang trong thời kì bú mẹ thì phạm vi giao tiếp của trẻ mới chỉ
là những người thân trong gia đình. Rời bàn tay âu yếm của bố mẹ thì thầy cô
giáo là người cha, người mẹ thứ hai nâng niu, ấp ủ trẻ. Đây cũng là trách nhiệm
nặng nề không hề đơn giản đè nặng lên đôi vai của người giáo viên mầm non.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ giao tiếp một cách thuần thục và mạch
lạc là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục mầm
non, đó là phát triển ở trẻ khả năng nghe hiểu ngôn ngữ của người khác, khả
năng biết trình bày, thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ, ý muốn, nguyện vọng….của
mình cho người khác biết một cách có trình tự, có logic, có nội dung, đúng và
biểu cảm. Đối với trẻ mẫu giáo, nói mạch lạc là một nội dung tương đối khó, trẻ
có thể giao tiếp với bạn, với người lớn nhưng giao tiếp của trẻ chưa có trình tự,
chưa thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ của mình một cách logic, đúng và biểu cảm.
Vì vậy, khi được đặt một nhiệm vụ giao tiếp cụ thể, trẻ rất ngại trình bày, hoặc
nếu có trình bày, trẻ chỉ nói những từ đơn giản, ngắn gọn theo kiểu vuốt đuôi,
nói không rõ ràng. Thậm chí, có trẻ chỉ đứng lên mà không hề dám nói một từ
nào mặc dù sau đó trẻ chơi với bạn vẫn giao tiếp cho bạn hiểu được ý mình.
Chính vì ngôn ngữ trẻ còn hạn chế, chưa phong phú và mạch lạc, nên trẻ không


tự tin, chưa chủ động trong giao tiếp với thầy, cô, với bạn, dần dần trẻ sẽ trở nên
thụ động, nhút nhát.
Ngoài ra, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ hiện nay chủ yếu chỉ là tích
hợp, lồng ghép thêm trong các hoạt động khác nên không có đủ thời gian để
quan tâm, rèn luyện cho những trẻ yếu. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
phần nào còn phó mặc cho sự phát triển tự nhiên của trẻ, trẻ nào có khả năng
ngôn ngữ khá, biết dùng các từ các câu hợp lí, logic khi trả lời hoặc giao tiếp thì
cứ được yêu cầu trả lời nhiều, thường xuyên, còn những trẻ có vốn từ ít, khả
năng biểu đạt ngôn ngữ còn hạn chế thì thường chỉ biết ngồi nghe bạn nói …
Các tài liệu về phát triển ngôn ngữ còn ít nên việc đưa ra các biện pháp
giáo dục, cũng như cách tích hợp, lồng ghép việc dạy trẻ nói và giúp trẻ lựa
chọn các từ ngữ hợp lí khi tham gia vào các hoạt động khác đều do giáo viên tự
nghĩ ra và tích lũy kinh nghiệm nên có phần còn hạn chế, thiếu tính hệ thống và
khoa học, hiệu quả thu được không cao và không có tác dụng đồng đều trên trẻ.
1


Xuất phát từ thực tế trên, bản thân tôi là một giáo viên mầm non trực tiếp
giảng dạy các cháu, tôi nhận thấy ngôn ngữ có ý nghĩa vô cùng lớn trong công
tác giáo dục trẻ nên tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát
triển ngôn ngữ tại điểm trường Na Tao trường mầm non Pù Nhi huyện
Mường Lát ” làm đề tài nghiên cứu trực tiếp trong năm học 2018-2019.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng và cách thức tổ chức các hoạt động nhằm phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo.
Xác định một số nguyên tắc lựa chọn và sử dụng các phương pháp tổ chức
các hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo một cách có hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu :
Trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi A2 điểm trường Na Tao trường Mầm non Pù
Nhi huyện Mường Lát.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp dùng lời
- Phương pháp trò chuyện
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận.
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ. Nó có chức năng là một phương
tiện để giao tiếp và là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ được hình thành trong quá
trình hoạt động và giao lưu của mỗi cá nhân với người khác trong xã hội. Ngôn
ngữ mang bản chất xã hội, lịch sử và tính giai cấp.
Ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng, sự phát triển ngôn ngữ có sự
tương hỗ chặt chẽ giữa não và cơ quan phát âm. Nếu phát triển ngôn ngữ chậm
sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển toàn diện của trẻ. Vì vậy, phát triển ngôn ngữ cho
trẻ sớm, đúng lúc, phù hợp lứa tuổi là vô cùng cần thiết và quan trọng.
Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ. Đây là giai đoạn có
nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và đọc viết ban đầu
của trẻ. Ở giai đoạn này trẻ đạt được những thành tựu vĩ đại mà các giai đoạn
trước và sau không có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của từ, cách sử dụng từ
ngữ để bày tỏ nguyện vọng suy nghĩ, cảm xúc của mình khi còn rất nhỏ để
người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ, là điều kiện quan trọng để
trẻ tham gia vào mọi hoạt động và góp phần hình thành nhân cách trẻ.
Quá trình trưởng thành của trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để
phát triển tư duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ, ngôn ngữ chính là sự hiện hữu của tư
duy. Tư duy của con người có thể hoạt động được chính là nhờ có phương tiện
ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Ngôn ngữ
phát triển làm cho tư duy phát triển. Ngược lại tư duy phát triển càng thúc đẩy
nhanh sự phát triển của ngôn ngữ.
Việc phát triển vốn từ, luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp gắn liền
với các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa

trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng
2


chúng. Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như hình thức, phương pháp phải
phù hợp vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ.
2.2. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến.
2.2.1. Thuận lợi
Được sự quan tâm của các cấp, đặc biệt là sự quan tâm sâu sát của Phòng
giáo dục và đào tạo Mường Lát, đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện
thực hiện. Với đội ngũ lãnh đạo đầy nhiệt huyết, nhiều năm liền trường đạt
trường tiên tiến.
Các giáo viên trong trường luôn giúp đỡ nhiệt tình, chia sẻ kinh nghiệm
qua những buổi họp tổ, học tập chuyên môn hàng tháng và các buổi dự giờ thao
giảng. Được sự ủng hộ nhiệt tình của các phụ huynh, hỗ trợ giáo viên biết được
tính cách của từng học sinh, ủng hộ các nguyên vật liệu để thầy, cô làm đồ chơi
đồ dùng sáng tạo phục vụ học tập.
2.2.2. Khó khăn:
Đa số phụ huynh của các cháu làm nghề sản xuất nông nghiệp, kiến thức
nuôi dạy con còn hạn chế, có nhiều phụ huynh còn bận công việc hay một lý do
nào khác ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng quá
đầy đủ về nhu cầu trẻ cần:
Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay mà
không cần dùng lời hoặc xin phép. Đây là một trong những nguyên nhân của
việc chậm phát triển ngôn ngữ.
Phụ huynh chưa chú trọng việc mua sách, truyện cho các bé xem ở nhà và
chưa giành thời gian kể chuyện cho các bé nghe ở nhà để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ .
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Nhiều phụ huynh quá lạm
dụng vào các thiết bị công nghệ, cho con xem ti vi, xem máy tính, điện thoại quá

nhiều. Làm hạn chế khả năng tương tác của cha mẹ với con cái, giữa trẻ với môi
trường xã hội.
Với những khó khăn như thế tôi tự đặt ra cho mình một mục tiêu là phải
dần dần khắc phục và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn
nhất.
2.2.3. Kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Tổng số trẻ: 25 trẻ

Tốt
Phân loại khả năng
Khả năng nghe hiểu ngôn
ngữ và phát âm
Vốn từ
Khả năng nói đúng ngữ
pháp
Khả năng giao tiếp

Khá

TB

4

Tỷ
lệ
%
16

4
4


16
16

4
5

16
20

15
15

60
60

2
1

8
4

6

24

8

32


10

40

1

4

Số
trẻ

Số
trẻ

Tỷ lệ
%

Số
trẻ

4

16

15

Tỷ
lệ
%
60


Yếu
Tỷ
Số
lệ
trẻ
%
2
8

3


Từ việc khảo sát trên tôi đã chú ý hơn đến những trẻ mà khả năng
ngôn ngữ còn hạn chế. Từ đó tôi thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với ngôn
ngữ ở mọi lúc, mọi nơi.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
2.3.1. Giải pháp 1. Khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc của mình qua hành động
và ngôn ngữ ở mọi lúc mọi nơi.
Mỗi sáng đến trường giáo viên cần chuẩn bị giáo án đầy đủ, lên kế hoạch
cho từng hoạt động cụ thể để chủ động trong mọi hoạt động với trẻ, linh hoạt khi
tiến hành các hoạt động và chú ý đến đặc điểm riêng của từng trẻ.
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động sáng.
- Giờ đón trẻ.
Giáo viên giao tiếp với trẻ bằng ánh mắt, luôn nở nụ cười tươi khi gặp trẻ.
Chủ động giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ, dẫn dắt trẻ đến một vấn đề nào đó để
trẻ tự tin nói về điều mình thích.
Ví dụ: Khi phụ huynh đưa cháu vào lớp giáo viên có thể chủ động chào bố
hoặc mẹ cháu, rồi chào cháu trước, đặt trẻ vào tình huống có vấn đề cần giải
quyết là cần chào thầy, chào cô. Sau đó khen trẻ có cái áo đẹp, hoặc một thứ gì

đó và đặt ra những câu hỏi. Buộc trẻ phải suy nghĩ và trả lời tình huống thầy
(cô) đưa ra. Một cuộc trò truyện ngắn cũng sẽ giúp trẻ mở rộng vốn từ, biết sắp
xếp các từ ngữ hợp lí để giải quyết vấn đề. Từ đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Thầy có thể trò truyện với trẻ về chủ đề mà trẻ đang học, khuyến khích trẻ
thể hiện sự hiểu biết của mình về chủ đề trẻ đang học, giáo viên bao quát động
viên trẻ và chú ý giành thêm một chút thời gian cho trẻ nhút nhát hơn. Thầy đưa
ra những câu hỏi gợi mở tạo cho trẻ cảm giác an toàn, tự tin vào bản thân trẻ để
trẻ mạnh dạn đưa ra ý kiến riêng của trẻ.
- Giờ thể dục sáng.
Ngoài cho trẻ thực hiện các động tác thể dục giáo viên có thể đưa ra các
hoạt động nhỏ giúp trẻ được nói, được giao tiếp.
Ví dụ: Trên đường từ lớp học ra đến sân trường nơi tập trung để tập thể dục.
Thầy có thể cho trẻ vừa đi lấy dép của mình vừa đọc 1 bài thơ hoặc 1 bài vè nào
đấy! để bước ra sân tập.
Ví dụ: Khi tập các động tác thể dục thầy cũng có thể khuyến khích trẻ hát
theo bài hát đang mở.
* Ngoài ra cần làm phong phú lĩnh vực ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc
cho trẻ tham quan, dạo chơi, tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, với nhiều người,
nhiều ngành nghề, trang phục,… Cho trẻ được tiếp xúc với tranh ảnh, sách báo,
các phương tiện nghe nhìn phù hợp: xem ti vi, video, nghe băng,… và linh hoạt
tận dụng các môi trường vật chất (cây, cỏ, nhà, đồ chơi, …) và môi trường ngôn
ngữ (sách, truyện, giáo viên, bạn bè trẻ…) có sẵn xung quanh trẻ để trò chuyện
với trẻ, từ đó khơi gợi kích thích trẻ trò chuyện, kể chuyện, trẻ đưa ra quan
điểm, ý kiến riêng của bản thân.
Ví dụ: Trong giờ thầy dẫn trẻ dạo chơi ngoài trời trẻ thấy có một con
chuồn chuồn bay và đậu trên cành cây, trẻ reo lên: “a! chuồn chuồn kìa, chuồn
chuồn đẹp quá”. Trẻ chạy theo định bắt chuồn chuồn, thầy gợi ý trẻ quan sát con
chuồn chuồn, đặt câu hỏi với trẻ:
4



- Con thấy con chuồn chuồn có gì nổi bật? Thưa thầy, con thấy con chuồn
chuồn có mình dài và 2 hai cánh dài.
- Thầy gọi một số trẻ yếu trả lời về đặc điểm của con chuồn chuồn, nếu trẻ
chưa diễn đạt được, thầy nói lại câu trẻ vừa nói theo đúng trình tự ngữ pháp và
khuyến khích trẻ nhắc lại câu thầy vừa nói.
Nhờ sự nỗ lực làm phong phú vốn sống cho trẻ, tận dụng tối đa môi
trường vật chất, môi trường ngôn ngữ để trò chuyện với trẻ nên trẻ lớp tôi bây
giờ đã tích cực nói hơn, tạo điều kiện tốt cho tôi thực hiện công việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ hơn.
2.3.2. Giải pháp 2: Rèn phát âm cho trẻ mọi lúc, mọi nơi .
* Nói đúng ngữ âm, ngữ điệu: Trong quá trình kể chuyện cho trẻ nghe,
giáo viên chú ý kể chuyện bằng ngôn ngữ diễn cảm, lên giọng, xuống giọng,
ngừng nghỉ đúng chỗ, sử dụng đúng ngữ âm, ngữ điệu của các nhân vật ở các
đoạn đối thoại rồi hướng dẫn trẻ cách thể hiện ngữ âm, ngữ điệu của các nhân
vật đó.
Ví dụ: Thông qua câu chuyện: “Tích Chu” và qua lời của bà gọi Tích
Chu: Tích Chu ơi, lấy nước cho bà uống. Giáo viên giải thích cho trẻ biết: Bà già
rồi, lại ốm nữa nên giọng bà khi gọi Tích Chu lấy nước phải trầm xuống và kéo
dài ra thể hiện sự già nua, mệt mỏi. Sau đó, giáo viên cho trẻ tập nói giọng của
bà khi gọi Tích Chu lấy nước.
Hoặc qua giờ chơi. Giáo viên có thể sử dụng các trò chơi dân gian nhằm
rèn cho trẻ nói đúng ngữ âm, ngữ điệu.
Trò chơi dân gian: Ù à ù ập

- Mục đích chơi: Rèn luyện khả năng nhanh nhẹn, linh hoạt, rèn luyện kỹ
năng đọc đúng ngữ điệu lời đồng dao.
- Cách chơi: Trẻ thuộc lời ca
Ù à ù ập
Cày đồng cho sớm

Bắt chập lá tre
Nuôi lợn cho chăm
Bắt đè lá muống
Nuôi tằm cho rỗi
Bắt cuống lên hoa
Dệt cửi cho mau
Bắt gà mổ thóc
Nuôi trâu cho mập
5


Đi học cho thông
Ù à ù ập
Số trẻ chơi từ 6 đến 8 trẻ, lấy một cái cột làm chuẩn. Một trẻ làm “cái”
ngửa bàn tay ra cho các trẻ khác đặt ngón trỏ vào. Tất cả các trẻ đọc lời ca đến
hết thì trẻ làm cái “ập” thì nắm tay lại. Ai không rụt tay kịp thì phải bịt mắt cho
các bạn đi trốn, các bạn đi trốn hết trẻ tìm mở mắt ra đi tìm các bạn vừa đi vừa
hát bài hát trên.
Những trẻ đi trốn, tìm cách chạy mau về cột chuẩn, không để cho trẻ đi
tìm bắt được, chạy được về đến cột chuẩn nói một tiếng “Đùng”. Trẻ đi tìm nếu
không bắt được ai thì phải nhắm chơi lại. Trẻ đi trốn nếu bị trẻ đi tìm bắt được
thì thay trẻ đi tìm.Trò chơi tiếp tục.
* Sử dụng câu đúng ngữ pháp (đúng cấu trúc câu). Trong giờ đón trẻ,
trò chuyện sáng, giáo viên có thể tận dụng các đồ chơi trong lớp để rèn luyện
cho trẻ nói đúng ngữ pháp:
+ Giáo viên: Đưa ra con búp bê và yêu cầu: Mỗi bạn hãy nói một câu về
con búp bê này?
+ Trẻ: “Búp bê mặc váy”
“Búp bê có mái tóc vàng rất đẹp” (Trẻ đã nói đúng cấu trúc câu).
Nhưng có một số trẻ chưa nói đúng cấu trúc câu, tôi gợi ý thêm cho trẻ

nói. Ví dụ: Bé Tiến Thành lớp tôi sau một lúc ngần ngại không nói về búp bê.
Tôi khuyến khích: Nếu con nói được thầy sẽ thưởng kẹo cho con.
+ Cháu nói: Mắt búp bê đẹp
Dựa vào câu trả lời của trẻ thầy gợi ý cho trẻ nói câu đúng ngữ pháp, đúng
cấu trúc câu.
Ngoài giờ học, giáo viên có thể tổ chức cho trẻ chơi, đọc các bài vè, đồng
dao, ca dao để giúp trẻ rèn luyện phát âm, cung cấp vốn từ, nói đúng ngữ âm,
ngữ điệu, sử dụng câu đúng cấu trúc ngữ pháp. Đó là các điều kiện để rèn luyện
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Ví dụ :
* Rèn luyện phát âm. Thầy dạy trẻ đọc bài đồng dao và cho trẻ cùng đọc
để rèn luyện cách phát âm :
+ Ví dụ: Luyện âm h, k :
“Kéo cưa lừa xẻ
Hai chú khỉ con
Cùng chơi kéo cưa
Kéo qua kéo lại
Cả hai lăn kềnh".
+ Ví dụ: Luyện âm : c
“Cắn con cò
Cò có cẳng
Chạy cuống cuồng
Cáo chạy đến
Cắn con cò
Cò cong chân
Bay đi mất”
6


* Cung cấp vốn từ : Qua bài đồng dao trên, giáo viên có thể tận dụng để

cung cấp vốn từ mới cho trẻ (giải thích cho trẻ hiểu từ “chạy cuống cuồng” có
nghĩa là chạy nhanh).
Rèn cho trẻ phát âm qua lời ca bài hát:
Ví dụ: "Búp bê bằng bông” giúp trẻ không những phát âm đúng: “b” mà
còn giúp trẻ cảm nhận được sắc thái âm nhạc.
- Qua trò chơi dân gian: Trồng đậu, trồng cà.
- Mục đích chơi: Rèn luyện phản ứng nhanh, tập trung thính giác, phát
triển vốn từ gọi tên các loại hoa, loại quả.
- Cách chơi: Trẻ thuộc lời ca
Trồng đậu, trồng cà
Hoa hoè, hoa khế
Khế ngọt, khế chua
Cột đình, cột chùa
Cây cam, cây quýt
Cây mít, cây hồng
Cành đa, lá nhãn
Ai có chân, ai có tay thì rụt. Các trẻ ngồi về một phía sát cạnh nhau theo một
hàng ngang, chân đều duỗi thẳng ra phía trước. Trẻ trưởng trò ngồi ở đầu phía phải
dùng bàn tay phải sờ lần lượt từng cẵng chân các con chơi kể từ đầu phía trái. Mỗi
lần sờ đọc lên một tiếng của bài hát. Khi tiếng cuối cùng rơi vào chân trẻ nào thì trẻ
đó phải rút nhanh chân đó lại. Trẻ vừa chơi vừa hát lời đồng dao.
2.3.3. Giải pháp 3. Dạy trẻ đối thoại
Dạy trẻ nói chuyện:
- Giáo viên chủ động và có kế hoạch nói chuyện với trẻ, chuẩn bị trước
các đề tài nói chuyện, thường xuyên nói chuyện với trẻ khi có cơ hội. Nói về vấn
đề gì? (Về gia đình, cha mẹ, về cây, hoa, về câu chuyện liên quan đến trẻ…)
những từ nào cần giới thiệu thêm với trẻ, cần chú ý sử dụng mẫu câu nào? Nội
dung nói chuyện phải gần gũi với cuộc sống và kinh nghiệm của trẻ.
- Giáo viên phải là người khơi gợi, kích thích trẻ tham gia nói chuyện. Nếu
có điều kiện, tốt nhất giáo viên nên tìm cơ hội để nói chuyện với từng trẻ trong

ngày.
- Khi nói chuyện với trẻ, lời nói, cử chỉ, tác phong của giáo viên phải thu
hút, hấp dẫn làm mẫu cho trẻ bắt chước theo.
- Giáo viên để trẻ tự nói lên những hiểu biết, suy nghĩ của mình, ủng hộ
những câu trả lời hay, bộc lộ ý kiến của cá nhân, không cấm đoán, nhắc nhở, sửa
sai quá nhiều. Tôn trọng trẻ, một câu hỏi có thể chấp nhận nhiều câu trả lời.
Ví dụ: Thầy đặt câu hỏi: “Nếu đi ngoài đường, thấy trời mưa thì con làm
gì?”. Trẻ có thể trả lời bằng nhiều ý tưởng:
+ Con mặc áo mưa.
+ Con trú vào quán ăn bên đường.
+ Con chạy nhanh về nhà.
- Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ được tự do, thoải mái nói chuyện với
nhau. Đặc biệt thông qua trò chơi nhất là là trò chơi đóng vai theo chủ đề (trò
chơi giả bộ có cốt chuyện).
7


Dạy trẻ đàm thoại:
- Đề tài đàm thoại phải gần gũi với cuộc sống của trẻ. Cần giúp trẻ có
những hiểu biết trước về đề tài đàm thoại.
- Số lượng trẻ tham gia vào đề tài đàm thoại không nên quá đông. Nên
chia đôi lớp khi đàm thoại để trẻ nào cũng được tham gia đàm thoại và phát triển
ngôn ngữ mạch lạc.
- Khi đàm thoại, giáo viên nên sử dụng giáo cụ trực quan hỗ trợ.
Ví dụ:
+ Đàm thoại nhận thức môi trường xung quanh: Nhận ra sự thay đổi trong
quá trình phát triển, điều kiện sống của cây.
- Trẻ kết nhóm 5 bạn, mỗi nhóm lấy tranh, thảo luận, sắp xếp tranh theo
sự hiểu biết của trẻ và kể chuyện. Cho từng nhóm kể chuyện theo sự sắp xếp
tranh của nhóm mình.

Giáo viên trình chiếu power point chuyện: Chú đỗ con (quá trình phát
triển của cây từ hạt) và kể cho trẻ nghe câu chuyện kết hợp câu hỏi đàm thoại:
- Muốn có cây con thì việc đầu tiên người ta phải làm gì?
- Qua những giai đoạn nào thì hạt trở thành cây trưởng thành?
- Cây trưởng thành sẽ cho ra cái gì?
- Để cây mau lớn và phát triển tốt cần phải có những điều kiện nào?
+ Đàm thoại về nội dung câu chuyện để giúp trẻ khắc sâu nội dung câu
chuyện và kể lại truyện bằng ngôn ngữ mạch lạc. Sau khi kể cho trẻ nghe câu
chuyện: Ba cô gái giáo viên đặt câu hỏi đàm thoại với trẻ :
- Câu chuyện nói về điều gì?
- Trong chuyện có những nhân vật nào?
- Sóc đã đưa thư cho ba cô gái và cùng nói điều gì?
- Tại sao cô chị cả và chị hai bị biến thành Rùa và Nhện.
- Nếu là con, khi mẹ ốm con sẽ làm gì?
- Con đặt tên câu chuyện này là gì?
Trong quá trình đàm thoại với trẻ, giáo viên yêu cầu trẻ trả lời các câu hỏi
rõ ràng, mạch lạc, đúng cấu trúc câu, ngữ điệu,…để rèn luyện cho trẻ cách sử
dụng ngôn ngữ mạch lạc.
Dạy trẻ đóng kịch:
- Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển
ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Nội dung kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học
mà trẻ đã được làm quen. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt
giũa chọn lọc. Khi đóng kịch, trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân
vật mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt .
Ví dụ: Trẻ đóng kịch truyện: “Chú dê đen”
- Cháu Minh Quân đóng vai Dê đen: Tính cách dũng cảm, can đảm, mạnh
mẽ, tự tin; giọng phải đanh thép.
- Cháu Quỳnh Trang đóng vai Dê trắng: Thể hiện tính cách hiền lành,
nhút nhát, rụt rè; giọng nói nhỏ nhẹ.
- Cháu Hải đóng vai Chó sói: Tính cách hung dữ, giọng nói ồm ồm.

Dạy trẻ chơi trò chơi dân gian: Trò chơi: Rán mỡ.
- Mục đích chơi: Phát triển ngôn ngữ đối thoại qua vai chơi.
8


- Cách chơi: Số lượng trẻ chơi tuỳ ý, trẻ trai và trẻ gái cùng chơi chung.
Một em tự nguyện làm viên mỡ hoặc “oẵn tù tì” để “bị” làm viên mỡ. Tất cả các
em còn lại đứng thành vòng tròn làm chảo.
Viên mỡ đứng giữa vòng tròn, tức mỡ đặt vào chảo. Bắt đầu chơi, vòng
tròn chuyển động các em - chảo - vừa bước (theo đường tròn) vừa cùng nói:
- Rán mỡ xèo xèo
- Mỡ chín chưa?
- Mỡ chín chưa?
- Viên mỡ: - Lửa đun to lên
- Viên mỡ: - Mỡ mới rán
- Để mỡ chóng chín
Chảo: - Rán mỡ xèo xèo
- Tốp trẻ rời tay nhau làm lửa cháy
- Mỡ chín chưa?
- (Ngả nghiêng hai bên)
- Viên mỡ: - Mỡ chưa chín
- Viên mỡ: - Xèo!...Xèo! Xèo!
- Chảo: - Rán mỡ xèo xèo
- Bục!
Mỡ bắn ra thành chảo (bắn vào trẻ vây quanh). Nổ vào em nào thì em ấy
phải làm viên mỡ. Tức viên mỡ đập tay trúng vào ai thì người ấy phải vào giữa
làm mỡ.
2.3.4. Giải pháp 4. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại trong giao tiếp tự do.
Lời nói độc thoại phức tạp hơn lời nói đối thoại. Khi độc thoại, lời nói của
trẻ phải đầy đủ về mặt cấu trúc, có nội dung, các câu nói phải liên kết với nhau

theo chủ đề một cách logic, diễn đạt phải rõ ràng, lưu loát. Nói độc thoại là một
hình thức cấp cao của ngôn ngữ mạch lạc. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại trong giao
tiếp tự do có 2 cách:
- Làm mẫu: Hằng ngày, tùy tình huống giao tiếp, giáo viên nói với trẻ về
các sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày mà mình đã nhìn thấy, đã trải qua.
Giáo viên kể lại các sự kiện đó cho trẻ nghe bằng giọng tự tin, thoải mái hay vui
vẻ, hài hước để gây ấn tượng mạnh cho trẻ, tạo ở trẻ thói quen bắt chước, trao
đổi tự nhiên về những ấn tượng, cảm xúc, kinh nghiệm của mình với mọi người
xung quanh.
- Luyện tập: Để trẻ có thói quen nói một chuỗi lời nói trong giao tiếp hằng
ngày về một nội dung nào đó, giáo viên cần tạo điều kiện để trẻ tự do trao đổi,
dành thời gian cho trẻ nói về mình, về bạn, về cảm xúc, suy nghĩ của mình.
Trong các giờ trò chuyện sáng, hoạt động chiều, giáo viên gợi ý trẻ nói bằng các
câu hỏi, lời hỏi thăm. (Hôm qua ở nhà con đi chơi không ? Làm gì? Con nhìn
thấy gì trên đường, con cảm thấy như thế nào khi được đi chơi?….)
Ví dụ: Bé Mai Chi nói với bạn: “Hôm qua bố chở mẹ và mình đi khám
Bác sĩ, mẹ mình có em bé rồi, mình sắp được làm chị rồi”.
2.3.5. Giải pháp 5. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại trên giờ học
- Dạy trẻ kể lại tác phẩm văn học: Trên giờ học dạy trẻ kể lại tác phẩm
văn học, trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm nội dung của tác phẩm văn
học mà trẻ đã được nghe. Tuy nhiên, giáo viên không nên yêu cầu trẻ kể thuộc
lòng chi tiết nội dung của tác phẩm, mà chỉ yêu cầu trẻ kể lại nội dung chính của
tác phẩm. Trẻ có thể sử dụng ngôn ngữ của tác phẩm kết hợp với ngôn ngữ của
chính trẻ dựa trên sự cảm thụ của tác phẩm để kể. Giáo viên khuyến khích trẻ kể
tự nhiên, thoải mái, sử dụng đúng ngữ điệu của nhân vật.
- Dạy trẻ tự kể chuyện: Dạy trẻ tự kể chuyện khó hơn so với dạy trẻ kể lại
chuyện. Để có thể tự kể chuyện, trẻ phải có vốn hiểu biết nhất định, ngôn ngữ
9



phát triển tương đối tốt, tính tự chủ cao hơn. Đây là một dạng nâng cao cho
những trẻ đã có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc.
- Kể miêu tả về đồ chơi, vật thật: Giáo viên cần chuẩn bị giáo cụ trực
quan (đồ chơi, vật thật) để trẻ nhìn theo và kể.
Ví dụ: Bé Yến Nhi kể về cái điện thoại để bàn: “Đây là cái điện thoại bàn,
có một sợi dây nối cái ống nghe và nối với cái bàn phím để ở trên bàn có nhiều
số. Khi gọi, mình lấy tay nhấn số trên bàn phím để gọi”.
- Kể theo trí nhớ về sự kiện trẻ đã trải qua: Dạng kể này được thực hiện
khi trẻ có khả năng ghi nhớ có chủ định tương đối tốt. Đề tài mà trẻ kể chính là
những gì trẻ đã trực tiếp tham gia hoặc đã trải qua. Việc thường xuyên tổ chức
cho trẻ nói lại các sự kiện đã trải qua giúp cho ngôn ngữ mạch lạc của trẻ phát
triển.
Ví dụ: Bé Minh Quân kể lại cho mẹ bé nghe việc thầy dạy trẻ tập văn
nghệ mừng 20/11 (mẹ bé kể lại): “Thầy Thạo gọi con và bạn Quỳnh Trang, bạn
Yến Nhi, bạn Hoàng Hải, bạn Mai Chi, bạn Thảo lên tập văn nghệ với các bạn ở
lớp khác, thầy cho con đứng đầu hàng và bảo các bạn quên bài thì nhìn theo con
mà tập. Thầy khen con nhớ bài nhanh”…
Kể chuyện sáng tạo: Ở trường mầm non thường cho trẻ kể chuyện sáng
tạo thông qua việc liên kết các tranh trẻ đã vẽ, các sản phẩm tạo hình bằng
nguyên vật liệu mở và với sự gợi ý, giúp đỡ của giáo viên trẻ có thể nhìn các
tranh, các sản phẩm tạo hình để kể chuyện sáng tạo.

Ví dụ: Thầy lấy các bức tranh mà trẻ đã vẽ và gợi ý trẻ kể chuyện sáng
tạo:
Bức tranh 1: Các bé cầm cờ đứng trước Doanh trại bộ đội
Bức tranh 2: Các chú bộ đội đi hành quân
Bức tranh 3: Các chú bộ đội trồng rau
Bức tranh 4: Các bé ngồi xung quanh nghe chú bộ đội đàn, hát.
Bé Lan Anh đã nhìn các bức tranh trên và kể: Ngày thành lập quân đội
nhân dân Việt Nam, em được tham quan Doanh trại bộ đội. Em và các bạn được

xem các chú tập luyện đi hành quân. Em còn được xem các chú bộ đội trồng rau.
Sau đó, chúng em cùng ngồi xung quanh nghe các chú đàn hát rất hay.

10


Gợi mở cho trẻ kể tiếp truyện: Giáo viên nên chọn những chuyện có nội
dung ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu đối với trẻ. Nội dung truyện nên có những
điểm thắt nút logic. Trước khi kể chuyện, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể
cho trẻ: Chú ý lắng nghe xem truyện kể về ai? Đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra
tiếp theo để trẻ chú ý và ghi nhớ có chủ định.
Ví dụ: Giáo viên kể cho trẻ nghe câu chuyện “Ba cô gái” đến đoạn Sóc
đưa thư đến nhà cô chị cả Sóc nói: “Chị cả ơi, mẹ chị đang ốm đấy, chị hãy về
thăm mẹ chị ngay đi”.
Thầy đặt câu hỏi: Theo con, khi nghe Sóc nói như thế, cô cả sẽ làm gì?
Cô nói gì với Sóc?
Có nhiều câu trả lời từ trẻ:
- “Chị cả nghe Sóc nói như thế, chị cả cám ơn Sóc đã đưa thư, chị chạy
nhanh về với mẹ, mua thuốc cho mẹ uống”.
- “Chị cả nói với Sóc cùng đi với mình đến bệnh viện kêu Bác sĩ đến nhà
chữa bệnh cho mẹ”.
- “Chị cả chạy nhanh về nhà và nhờ Sóc đi mua thuốc đem về nhà giúp
chị”.
So sánh việc sử dụng các phương pháp để dạy trẻ nói mạch lạc ở các năm
trước tôi nhận thấy: Năm nay, do được đầu tư, tìm hiểu kĩ các phương pháp dạy
trẻ nói mạch lạc qua tài liệu và áp dụng vào thực tế một cách có hệ thống để phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ từ dễ đến khó, có các phương pháp phù hợp cho
khả năng của trẻ từ yếu đến khá đến giỏi nên trẻ trong nhóm tích cực sử dụng
ngôn ngữ mạch lạc hơn mà không làm cho trẻ mất tự tin hay nhàm chán.Vì
những năm trước giáo viên chỉ làm theo kinh nghiệm, chủ yếu là trò chuyện với

trẻ, vào giờ học mới đặt mục đích để đàm thoại. Khi đó, những trẻ đã có ngôn
ngữ mạch lạc rồi thì cứ xung phong phát biểu và thầy cứ gọi mãi, còn những trẻ
chưa nói mạch lạc thì cứ ngồi im nghe. Năm nay, giáo viên dựa vào khả năng
ngôn ngữ của cá nhân trẻ, nhóm trẻ để có phương pháp phát triển ngôn ngữ
mạch lạc phù hợp:
+ Trẻ yếu: Ban đầu giáo viên tập cho trẻ trò chuyện cùng thầy, cô, cùng
bạn, sau đó nâng cao dần lên đàm thoại.
+ Trẻ khá hơn: Giáo viên bắt đầu từ hệ thống câu hỏi đàm thoại để trẻ
diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc sau đó tập cho trẻ nói độc thoại.
+ Trẻ đã biết diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc: Giáo viên chú ý hướng trẻ sử
dụng ngôn ngữ độc thoại và chủ yếu là tự kể chuyện, kể chuyện sáng tạo,…
Do đó, tránh được hiện tượng trẻ nhàm chán do giáo viên yêu cầu trẻ diễn
đạt ngôn ngữ quá khả năng của trẻ nên trẻ tự tin, thoải mái nói, trẻ sử dụng ngôn
ngữ mạch lạc hơn.
Đồng thời, thông qua các phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc chủ
đạo trên, chúng ta có thể lồng ghép, tích hợp các phương pháp này với một số
môn học khác để vừa phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mà vẫn đảm bảo trẻ
học tập tích cực và không nhàm chán.
Ví dụ: Chủ đề: Các con vật sống trong rừng:
- Ban đầu, giáo viên có thể cho trẻ lấy các nguyên vật liệu mở: đĩa nhựa,
nắp hộp sữa, nắp bánh, đĩa CD,….tạo hình các con vật sống trong rừng theo
11


nhóm. Sau đó, các nhóm sẽ suy nghĩ câu chuyện, lời thoại của các con vật mà
nhóm vừa làm được rồi cùng thi kể truyện.
2.3.6. Giải pháp 6. Phối hợp với phụ huynh
- Thông qua các buổi họp phụ huynh, bảng tuyên truyền, giáo viên động
viên, khuyến khích phụ huynh tích cực trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe thêm
ở nhà, đặc biệt là dành thời gian để lắng nghe trẻ nói và sửa những câu nói, cách

nói sai của trẻ. Muốn vậy, phụ huynh khi trò chuyện với trẻ phải cố gắng phát
âm đúng, phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, trẻ sẽ
bắt chước theo.
- Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh
không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ
không chính xác. Sử dụng đa dạng các phương pháp để dạy trẻ nói mạch lạc.
Ví dụ: Trong lớp, khi dạy trẻ câu chuyện: “Sự tích hoa hồng” giáo viên
cũng in nội dung câu chuyện và dán lên bảng tuyên truyền cho tất cả phụ huynh
cùng xem và yêu cầu phụ huynh phối hợp kể thêm cho trẻ nghe ở nhà hoặc lắng
nghe trẻ kể lại khi trẻ đã được nghe cô kể ở lớp. Sau đó, phụ huynh cùng trò
chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện và có thể sửa cho trẻ cách nói sai, cấu
trúc câu sai...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
* Đối với giáo viên:
Qua các biện pháp thực hiện hoạt động phát triển ngôn ngữ ở trẻ 5-6 tuổi
tôi đã rút ra một số kinh nghiệm :
Là giáo viên mầm non tôi xác định được trách nhiệm của bản thân đối với
trẻ. Tôi luôn xây dựng cho trÎ một môi trường ngôn ngữ nói tốt. Bởi tôi hiểu rõ
cơ chế để phát triển ngôn ngữ của trẻ là bắt chước ngôn ngữ của người khác.
Khi trẻ bắt chước ngôn ngữ của người lớn, trẻ không chỉ bắt chước cái hay mà
bắt chước cả cái dở. Vì thế tôi tự nhủ mình luôn phải nói đúng, làm đúng, thể
hiện đúng tư cách của người giáo viên, luôn gương mẫu ở mọi lúc mọi nơi, luôn
nhẹ nhàng, tình cảm, âu yếm, gần gũi trẻ trong những lúc nghỉ ngơi, thư giãn.
Bên cạnh đó tôi giành nhiều thời gian trang trí lớp học, các góc chơi, làm
đồ chơi sáng tạo từ những nguyên vật liệu mở. Ngoài ra, tôi thường trao đổi, tuyên
truyền với phụ huynh cố gắng giành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ
nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng, mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe
cho rõ.
Tôi luôn ý thức nâng cao chuyên môn bằng cách học hỏi kinh nghiệm các
đồng nghiệp và các tài liệu khoa học. Luôn năng động, sáng tạo trong cách

hướng dẫn trẻ, thu hút trẻ trong các hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển mọi mặt.
* Đối với trẻ:
Sau khi tiến hành thực hiện theo các biện pháp trên tôi đã thu được các kết
quả như sau:
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm.
Tổng số trẻ: 25 trẻ
Phân loại khả năng
Tốt
Khá
TB
Yếu

12


10

Tỷ
lệ
%
40

10
10

40
40

12
12


48
48

3
3

12
12

0
0

13

52

10

40

2

8

0

Số
trẻ
Khả năng nghe hiểu ngôn

ngữ và phát âm
Vốn từ
Khả năng nói đúng ngữ
pháp
Khả năng giao tiếp

Số
trẻ

Tỷ lệ
%

Số
trẻ

12

48

3

Tỷ
lệ
%
12

Số
trẻ

Tỷ

lệ
%

0

- 88 % vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt, ít sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ,
trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.
- 88 % kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên trẻ hứng thú tham
gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.
- 88 % trẻ phát âm chính xác hơn, trẻ nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ, nói
câu mạch lạc hơn.
* Đối với đồng nghiệp:
- Với kết quả thu được ban đầu như thế, tôi nghĩ mình có thể triển khai
các biện pháp này cho các đồng nghiệp trong tổ của mình, thông qua các buổi
họp tổ chuyên môn để tất cả trẻ 5-6 tuổi trong trường tôi đều được phát triển
ngôn ngữ một cách tích cực.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
V.I.Lênin đã nói: “Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của con
người”. Trẻ dùng ngôn ngữ để trao đổi thông tin, diễn đạt nhu cầu, nguyện
vọng, tình cảm và để nhận thức…Hiểu rõ tầm quan trọng đó, tôi luôn tạo cho trẻ
một môi trường ngôn ngữ tốt, có chuẩn mực, chủ động, thuận lợi cho ngôn ngữ
của trẻ phát triển tốt, chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ bước vào các bậc học cao hơn.
Nghề giáo viên – một nghề cao quý mà tôi đã từng ấp ủ từ thuở còn ấu thơ.
Và từ khi tôi mới chập chững vào nghề, tôi luôn tự nhủ mình để xứng đáng là
một người giáo viên, trước hết hãy tập "làm cha, làm mẹ". Yêu trẻ không chỉ
bằng lời nói, bằng suy nghĩ mà bằng chính hành động. Xuất phát từ tình yêu đó
mà trong sâu thẳm tâm hồn tôi luôn chứa chan tình cha, tình mẹ, bởi yêu nghề
nên yêu trẻ.
Tôi rất tự hào mình là người đầu tiên được đón các con vào ngưỡng cửa của

cuộc đời, là người cha, người mẹ thứ hai chăm lo, dạy dỗ các con. Tôi nguyện
mang hết sức lực, lòng nhiệt huyết của mình để phục vụ các con, thế hệ mầm
non - thế hệ tương lai của đất nước.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường:
- Đối với nhà trường cần tăng cường các buổi dự giờ, tổ chức toạ đàm,
thảo luận...về cách thức tổ chức các hoạt động ở trường, ở lớp một cách đa dạng
và linh hoạt nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên học hỏi, trau dồi kinh
nghiệm giúp việc dạy trẻ cũng như phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn.
- Trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ giáo viên nên đề ra những
13


nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ thông qua tất cả các hoạt động trong ngày. Đồng
thời giáo viên hướng dẫn trẻ theo hướng học mà chơi, chơi mà học một cách
khoa học, thường xuyên nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp thành thục cho trẻ,
như thế mới phát huy được hiệu quả sử dụng.
- Đối với phụ huynh, giáo viên trực tiếp trao đổi tình hình của từng cháu
cho từng phụ huynh biết qua giờ đón trẻ, giờ trả trẻ hoặc thông qua các buổi họp
phụ huynh của từng lớp do nhà trường tổ chức. Từ đó tuyên truyền với phụ
huynh về tầm quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ đối với tư duy
cũng như là tương lai của các cháu sau này. Khuyến khích phụ huynh dành thời
gian nhiều hơn cho trẻ, chủ động giao tiếp với trẻ, hỏi trẻ những việc trẻ đã làm
ở trường, trao đổi với trẻ về sở thích của trẻ, dự định của trẻ, hay nguyện vọng
của trẻ cho ngày mai hoặc cho 1 ngày nào đó. Tăng cường tặng trẻ những cuốn
tranh truyện khi trẻ ngoan hoặc vào 1 dịp nào đó, kể cho trẻ nghe những câu
truyện cổ tích mà trẻ thích, giải thích ý nghĩa của các câu chuyện đó và có thể
cùng trẻ tranh luận về 1 vấn đề nào đó trong truyện nhằm kích thích trí tò mò, sự
tư duy của trẻ để trẻ tìm ra câu trả lời và sử dụng ngôn ngữ phù hợp logic để trả
lời được câu hỏi.

* Đối với phòng giáo dục:
Để thực hiện tốt hoạt động Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ Mầm non trong giai
đoạn hiện nay thông qua việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt được
một số kết quả như đã nêu.
Kính mong các cấp lãnh đạo tăng cường thêm các lớp tập huấn, bồi dưỡng
phát triển ngôn ngữ. Quan tâm nhiều hơn nữa trong việc đầu tư cơ sở vật chất
cho trường lớp ngày một khang trang để chất lượng giáo dục mầm non được tốt
hơn.
Trên đây là “Một số giải pháp giúp trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi phát triển ngôn
ngữ” đã áp dụng thành công trên trẻ lớp tôi. Tôi hy vọng có thể ít nhiều góp
phần cho các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và góp ý để từ đó giúp chúng ta
giáo dục trẻ mầm non hình thành những kiến thức, kỹ năng ngôn ngữ cho trẻ
được tốt hơn. Rất mong được sự quan tâm góp ý của Hội đồng khoa học các cấp
để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA

Pù Nhi, ngày 12 tháng 04 năm 2019

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TÔI CAM KẾT KHÔNG COPPY
Người thực hiện

Hà Văn Thạo

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tuyển tập “Trẻ mầm non ca hát”, NXBGD.
2. Hướng dẫn thực hiện chương trình CS-GD trẻ MG 5-6 tuổi, NXB Hà Nội.
3. Tạp chí giáo dục mầm non, NXBGD.
4. Tuyển chọn: Trò chơi, bài hát, thơ ca truyện, câu đố theo chủ đề, 5-6 tuổi
NXBGD
5. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên.

15


MỤC LỤC
1. MỞ
ĐẦU...........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………....1
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………..…2
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….2
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM………………………………….2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………...2
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………..3
2.3. Các giải pháp thực hiện……………………………………………………..4
2.3.1. Giải pháp 1. Khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc của mình qua hành động và
ngôn ngữ ở mọi lúc mọi nơi………………………………..................................4
2.3.2. Giải pháp 2. Rèn phát âm cho trẻ…………………………………………5
2.3.3. Giải pháp 3. Dạy trẻ đối thoại…………………………………………….8
2.3.4. Giải pháp 4. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại trong giao tiếp tự do…………...9
16


2.3.5. Giải pháp 5. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại trên giờ học…………………..10

2.3.6. Giải pháp 6. Phối hợp với phụ huynh………………..…………………..12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ……………………………………...13

GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
3. KẾT LUẬN,SỞ
KIẾN
NGHỊ…………………………………………………...14

PHÒNG GD&ĐT MƯỜNG LÁT

3.1. Kết luận…………………………………………………………………....14
3.2. Kiến nghị…………………………………………………………………..14
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...16

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÚP TRẺ 5-6 TUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TẠI ĐIỂM
TRƯỜNG NA TAO TRƯỜNG MẦM NON PÙ NHI HUYỆN
MƯỜNG LÁT

Người thực hiện: Hà Văn Thạo
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Pù Nhi
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

17

THANH HOÁ NĂM 2019




×