Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 24 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường mầm non thành sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.94 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

Mục lục

STT

Nội dung

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang

1
1. Phần mở đầu
1
2
1.1. Lý do chọn đề tài
1
3
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
4 MỘT1.3.
tượngPHÁP
nghiênNÂNG
cứu
2 TRẺ
SỐĐối
GIẢI
CAO CHẤT LƯỢNG CHO
5 25-361.4.


PhươngTUỔI
pháp nghiên
cứuTRIỂN NGÔN NGỮ THÔNG
2
THÁNG
PHÁT
QUA
6 HOẠT
2. Nội
dung
ĐỘNG NHẬN BIẾT TẬP NÓI Ở TRƯỜNG MẦM NON
7
2.1.Cơ sở THÀNH
lý luận: SƠN, HUYỆN BÁ THƯỚC
2
8
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3
9
2.3. Các giải pháp và biện pháp thực hiện
5->17
10
2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng một số biện pháp
17
11
3. Kết luận, kiến nghị
18
12
3.1. Kết luận
18

Người
thực
hiện:
Nguyễn
Thị
Thường
13
3.2. Kiến nghị
18
vụ: đơn
Giáo
14
Xác nhận của Chức
thủ trưởng
vị viên
19
15
Tài liệu tham Đơn
khảo vị: Trường Mầm non Thành Sơn 20

SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên Môn

THANH HÓA NĂM 2019


Mục lục
STT
1
1.1
1.2

1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1.
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng
để giải quyết vấn đề.
Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực
cho trẻ ngay từ đầu năm học
Xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề để phát
triển ngôn ngữ.
Lấy trẻ làm trung tâm của các hoạt động dạy và học

Luyện phát âm cho trẻ.
Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp.
Cho trẻ nhận biết tập nói ở một số hoạt động trong ngày.

Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
6
6
7
9
10
11
12

2.3.7

Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương làm đồ
dùng, đồ chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

14

2.3.8


Xây dựng góc tuyên truyền và phối hợp vơí phụ huynh
trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ.

16

2.4
3
3.1
3.2

Hiệu quả kiểm nghiệm.
Kết luận và kiến nghị.
Kết luận:
Kiến nghị:

17
18
18
19

2


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Bác Hồ của chúng ta đã dạy “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời
và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ nó”
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non, chúng ta thấy rõ vai trò của ngôn
ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các cháu trở
thành những con người phát triển toàn diện. Hiện nay việc thực hiện đổi mới

trong giáo dục mầm non đã và đang thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu nói chung,
các cán bộ quản lý cũng như hầu hết giáo viên trong nghành học mầm non nói
riêng. Chương trình giáo dục Mầm non đã triển khai thực hiện có hiệu quả việc
đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới hình thức tổ chức nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục trẻ Mầm non. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt
là việc đổi mới phương pháp giảng dạy chưa hiệu qủa, sự lồng ghép tích hợp
các hoạt động và các chuyên đề giáo dục cho trẻ còn nhiều hạn chế, nội dung
còn đơn điệu, rườm rà, lúng túng chưa phù hợp với nội dung yêu cầu của
chương trình.
Giáo dục Mầm non có tác dụng cực kì quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Nhất là trong giai đoạn
hiện nay, đất nước ta đang chuyển mình vươn lên đỉnh cao của thời đại Công
nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển đi lên của xã hội thì việc cải tiến phương pháp giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng, khả năng nhận biết cho trẻ là một vấn đề hết sức cần thiết đối với
mỗi giáo viên, mỗi đơn vị trường Mầm non. Để đảm bảo mục tiêu giáo dục thì
trong trường Mầm non phải kết hợp song song việc chăm sóc thể lực và giáo
dục trí tuệ cho trẻ. Làm tốt được điều đó thì các hoạt động trong trường Mầm
non cũng đóng một vai trò then chốt, trong đó không thể thiếu được hoạt động
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nó là một trong những hoạt động chính, giữ vị trí
quan trọng trong giáo dục phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành
một thành viên của xã hội. Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp của trẻ là rất lớn. Ngôn
ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ nguyện vọng của mình để người
lớn có thể chăm sóc, điều khiển và giáo dục trẻ. Ngôn ngữ là một điều kiện rất
quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành
nhân cách. Sự phát triển chậm về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển
toàn diện của trẻ. Cho nên các nhà giáo dục cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp phát triển ngôn ngữ trẻ đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi. Đối với
trẻ 24-36 tháng tuổi vốn từ còn ít, mức độ hiểu nghĩa còn hạn chế, cách sử

dụng từ chưa chính xác, trẻ còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn. Do đó việc
phát triển làm giàu vốn từ cho trẻ, dạy trẻ nói năng lưu loát, phát âm đúng có kĩ
năng trả lời một số câu hỏi, hiểu được yêu cầu đơn giản bằng lời nói là một điều
rất quan trọng. Chính vì vậy người lớn cần phải chỉnh sửa uốn nắn kịp thời nhất
là cô giáo. Ngày xưa ông cha ta có câu: “Trẻ lên ba cả nhà tập nói”. [1]
3


Là giáo viên mầm non, nhận thức được tầm quan trọng của việc phát
triển ngôn ngữ, qua quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi có những suy nghĩ,
trăn trở làm sao để dạy các cháu phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt. Xuất phát
từ những yêu cầu trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao
chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động
nhận biết tập nói ở trường Mầm non Thành Sơn. ” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra một số giải pháp hay, hiệu quả để áp dụng vào thực tế khi giúp
trẻ 34 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ một cách nhanh nhất. Từ đó thông qua
“Lĩnh vực phát trển ngôn ngữ ” giúp trẻ:
- Tăng thêm vốn từ cho trẻ.
- Giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh.
- Luyện cho trẻ phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt, nói được câu trọn
vẹn đúng nghĩa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi phát
triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm non Thành
Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Nhằm giúp có kiến thức một
cách hệ thống về qui trình điều tra khảo sát trong thực tế.

- Nhóm phương pháp xây sựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp thực nghiệm: Đưa ra một số yêu cầu khảo sát trên trẻ
- Nhóm phương pháp trực quan (Xem vật thật, quan sát tranh ảnh, tham
quan, xem phim)
- Nhóm phương pháp dùng lời (Trò chuyện, đàm thoại, giảng giải, đọc
thơ, kể chuyện)
- Nhóm phương pháp thực hành (Trò chơi học tập, lao động)
- Phương pháp thống kê tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm
giáo dục là quá trình mô tả, phân tích so sánh, phân loại tổng hợp những kinh
nghiệm giáo dục.
2. Nội dung.
2.1. Cơ sở lý luận.
Nhân cách con người phải được đặt nền móng ngay từ buổi đầu tiên chập
chững bước vào đời. Ngày nay, chúng ta coi trọng Giáo dục mầm non, vì giáo
dục mầm non là nền tảng của giáo dục, đó là những năm đầu cuộc đời của trẻ,
nó có tầm quan trọng đặc biệt, vì thời kỳ này sự tăng trưởng và phát triển nhanh
của cơ thể trẻ cũng như về trí tuệ, tình cảm, nhân cách được bắt đầu hình thành.
Phát triển tốt hay không là phụ thuộc vào người lớn xung quanh trẻ, đặc biệt là
giáo viên mầm non, là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Giáo dục trẻ một cách
toàn diện là một công việc vô cùng khó khăn, nó phải là cả một quá trình, đây là
viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng một tòa lâu đài trí tuệ.
Chính vì vậy mà BGD&ĐT đã đề ra mục tiêu của giáo dục Mầm non là phải
4


trang bị cho trẻ những gì tốt nhất kể cả về vật chất và tinh thần nhằm phát triển
toàn diện về nhân cách cho trẻ.[2]
- Theo điều 23 luật giáo dục Mầm non ban hành số 38/2005QH11 ngày
14/06/2005 yêu cầu về nội dung và phương pháp GDMN đã ghi: Phương pháp
GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động để giúp trẻ phát triển

toàn diện. [3]
- Theo chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo TT số
17/2009/TT- BGDDT ngày 25/07/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cũng đã
nêu rõ: Mục tiêu của DGMN là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố dầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào
lớp 1, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm lý, năng lực và
phẩm chất mang tính nền tảng, những kỷ năng sống cần thiết phù hợp với lứa
tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đạt nền tảng cho việc
học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.[4]
- Học thuyết Mác Lê-nin đã chỉ ra rằng: “Ngôn ngữ bắt đầu từ lao
động, bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong
lao động và trong cuộc sống”. Ở đứa trẻ ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu
giao tiếp giữa trẻ với thế giới xung quanh. Trẻ bắt chước mọi người và
được mọi người dạy nói. Vì thế Trường Mầm non phải là nơi để phát triển lời
nói chuẩn mực cho trẻ và cô giáo là tấm gương phản chiếu rõ nhất, ngôn ngữ
phải rõ ràng, chính xác, mạch lạc, cô giáo và người lớn phải sử dụng những từ
có văn hóa, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Để hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả chúng ta phải dựa vào đặc điểm phát
triển tâm sinh lí trẻ:
+ Đặc điểm phát triển sinh lí:
Như chúng ta đã biết quá trình phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là
giai đoạn ngôn ngữ chủ động của trẻ bắt đầu xuất hiện. Chính vì thế trong quá
trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc một số hạn chế sau:
Giai đoạn này tư duy trực quan là chủ yếu, lời nói luôn luôn gắn liền với
mọi hành động đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. Khi trẻ nói chủ yếu trẻ dựa
vào những đặc điểm bên ngoài để nói.
Trẻ phát âm chưa chính xác, trẻ còn hay nói ngọng, nói lắp
+ Đặc điểm phát triển tâm lý
Ở giai đoạn này trẻ rất thích bắt chước người lớn.
Trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp thời và thích những màu

sắc sặc sỡ.Trẻ thường hay đặt ra những câu hỏi để người lớn trả lời như: Vì sao?
Tại sao ? Làm thế nào ?[5]
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tôi căn cứ vào đó để
tìm ra những giải pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với hoạt động này.
2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi phát
triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm non
Thanh Sơn.
Trong quá trình chăm sóc trẻ 24-36 tháng tuổi, tôi nhận thấy cơ thể của
trẻ còn yếu, trẻ chưa nói rõ, vốn từ của trẻ còn ít, khả năng nhận thức còn hạn
5


chế. Phần đa các cháu đang sống trong môi trường chăm sóc, âu yếm, chiều
chuộng trong vòng tay của bà, của mẹ và của những người thân yêu trong gia
đình. Trẻ chưa thể hoà nhập với bạn, chưa quen với cô, chưa quen với nề nếp
sinh hoạt tập thể, chưa có thói quen vệ sinh tự phục vụ. Muốn làm được điều đó
người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình
cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch
sự. Vì vậy trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi gặp những thuận lợi và khó
khăn như sau:
2.2.1. Thuận lợi.
Nhà trường trong năm học qua được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo,
được các bậc phụ huynh tin tưởng. Ban giám hiệu Nhà trường luôn sát sao quản
lý, chỉ đạo và điều hành mọi công việc trong nhà trường tốt.
- Trong năm học này tôi được nhà trường phân công dạy nhóm trẻ 25-36
tại khu trung. Với tổng số trẻ là: 12 Trong Nam :7, Nữ:5
- Với đội ngũ cán bộ giáo viên luôn tâm huyết với nghề, đa số đều đạt
trình độ chuẩn và trên chuẩn, luôn giúp đỡ lẫn nhau, trẻ khỏe nhiệt tình, tạo điều
kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm.
- Bản thân là một giáo viên có tuổi nghề lâu năm, có tinh thần trách

nhiệm cao trong công tác giảng dạy, không ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu,
dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân,
- Bản thân tôi là người dân tộc kinh nói đúng tiếng phổ thông, phát âm
chuẩn. Tôi công tác lâu năm ở vùng dân tộc thiểu số. Nên biết tiếng địa phương
( Tiếng thái) của trẻ nói để phiên dịch sang tiếng phổ thông và uốn nắn kịp thời.
- Trẻ khỏe mạnh, tích cực học tập và hứng thú hoạt động. Một lớp có
chung một độ tuổi nên nhận thức của trẻ tương đối đồng đều,
2.2.2. Khó khăn.
Là xã có địa bàn rộng, nhiều thôn cách xa trường, giao thông đi lại khó
khăn, nên vào những ngày mưa mù, giá rét số trẻ đến trường còn hạn chế, ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học của cô và trẻ.
Trẻ đến lớp học còn nói tiếng địa phương, phát âm sai lệch ảnh hưởng
đến khả năng tiếp thu bài, ngôn ngữ mạnh lạc của trẻ còn hạn chế (nói chưa đủ
câu, nói trống không, nói lắp, nói ngọng, nói tiếng địa phương) nên ảnh hưởng
rất lớn đến việc giao tiếp và dạy trẻ trên lớp.
Cơ sở vật chất phòng học chật hẹp, đồ dùng đồ chơi được đầu tư, chưa
đáp ứng được nhu cầu giáo dục hiện nay.
Một số phụ huynh đi làm ăn xa để con ở nhà với ông bà dẫn đến việc
quan tâm đến trẻ còn hạn chế, chưa nhiệt tình ủng hộ trong việc thu gom các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng dạy học và hoạt động vui
chơi cho các cháu.
Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ dễ nhớ nhưng lại rất chóng quên.
Do điều kiện đặc thù của địa phương đa số là người dân tộc thái nên có
một số phụ huynh phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông làm cho trẻ học theo.
Đa số trẻ chưa qua nhóm trẻ 18-24 tháng tuổi nên lần đầu tiên đến trường
quyấy khóc nhiều, nhút nhát, nói nhỏ, phát âm toàn bộ tiếng địa phương.
6


Qua khảo sát đầu năm tôi thấy khả năng phát triển ngôn ngữ của các cháu

trong lớp tôi như sau:
* Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng tháng 9 năm 2018
Kết quả thực trạng
Đạt
Chưa đạt
Tổn
Nội dung
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém
g số
đánh giá
S T S T S T S T S TL
trẻ
L L L L L L L L L %
%
%
%
%
Khả năng nghe
12
3
25
3
25
5
42
1

8,0
hiểu của trẻ
Khả năng phát âm
2
17
4
33
4
33
2
17
12
đúng từ
Khả năng diễn đạt
2
17
5
42
4
33
1
8,0
ngôn ngữ giao
12
tiếp, nói mạch lạc
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát thực trạng trên cho ta thấy tình hình thực
tế về chất lượng của hoạt động nhận biết tập nói chưa cao, cháu yếu vẫn còn, tỷ
lệ cháu trung bình rất cao.
* Nguyên nhân:
- Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế,

đồ dùng chưa đẹp, chưa sinh động sáng tạo vì vậy chưa thu hút được trẻ tham
gia hoạt động.
- Việc tạo môi trường (nhất là môi trường mở) cho trẻ hoạt động có nhiều
hạn chế, hình thức chưa thu hút được nhiều trẻ tham gia hoạt động.
- Trẻ còn sử dụng tiếng địa phương nhiều, một số trẻ chưa nói rõ từ hoặc
đa số còn nói ngọng, nói chưa rõ lời. Do đó việc trẻ nói đủ câu, từ rõ ràng mạch
lạc còn gặp nhiều khó khăn.
- Còn hạn chế trong việc phát triển vốn từ cho trẻ, chưa phát huy được
tính tích cực của trẻ trong các hoạt động
- Do điều kiện đặc thù của địa phương có một số phụ huynh phát âm chưa
chuẩn tiếng phổ thông làm cho trẻ học theo.
- Nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn đơn điệu, chưa có một hệ
thống logíc nhất định.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
2.3.1. Rèn luyện nền nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ
ngay từ đầu năm học.
Nền nếp thói quen là tính tất yếu chi phối đến việc sử dụng ngôn ngữ của
trẻ, xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp
càng trở nên quan trọng. Nền nếp học tập là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến thành công của tiết học, vì vậy ngay từ lứa tuổi mầm non, người lớn,
đặc biệt là giáo viên mầm non, tôi luôn chú trọng rèn luyện các nền nếp thói
quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với
7


người khác, không rụt rè, e sợ, âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục,
chửi bậy, biết dùng ngôn ngữ nhẹ nhàng tình cảm để thể hiện tình cảm yêu
thương đối với bạn bè, cô giáo và người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục,
cô giáo và người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc
và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói trống không, nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ,

nói ngược vị trí câu.
Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây” tôi sẽ sửa
cho cháu nói lại “Bạn cho tôi mượn quả bóng”….Giáo dục các cháu biết cảm
ơn, xin lỗi, không nói dối, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, biết chào hỏi cô
khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ và người lớn.
Trong sinh hoạt hằng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen
vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng, tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như : Tự
đi dép, đội mũ.
+ Giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp tôi dạy trẻ chào cô, chào bố, mẹ rồi vào lớp.
+ Dạy trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi qui định.
+ Giờ học, vào bài cô kể cho trẻ nghe một đoạn truyện, đọc cho trẻ nghe
một bài thơ, câu đố hay là tổ chức tiết học dưới hình thức trò chơi, chương trình
của bé ( tùy vào nội dung) để gây sự hứng thú khi vào bài.
+ Giờ chơi, giáo dục trẻ khi chơi xong cất đồ chơi ngăn nắp gọn gàng,
vừa cất đồ chơi vừa đọc đoạn thơ: “ Giờ chơi hết giờ rồi, nhanh tay cất đồ chơi,
nhẹ
tay thôi bạn ơi ”
+ Giờ ăn, tôi giáo dục trẻ trước khi ăn phải rửa tay, cho trẻ đọc bài thơ
“giờ ăn” sau đó mời cô giáo, mời các bạn rồi mới ăn. Khi ăn không nói chuyện,
không làm cơm rơi, cơm vãi. Ăn xong lau miệng, uống nước, rửa tay.
+ Giờ ngủ trưa cô cho trẻ đọc bài thơ: “ Giờ đi ngủ ” trẻ lên giường nằm
ngủ không nói chuyện.
Trong tiết học tôi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, không nằm
ra chiếu, không được chạy lung tung trong khi học, biết lắng nghe và trả lời các
câu hỏi của cô.
Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên, tôi đã đưa trẻ vào nề nếp và
thói quen hằng ngày của trẻ, sau một thời gian trẻ thực hiện rất tốt. Từ đó
tôi nhận thấy trẻ tự tin, thoải mái và thích đến trường được học, được chơi,
được
giao lưu với bạn.

Sau một thời gian áp dụng biện pháp, tôi thấy hiệu quả của giờ học được
nâng lên rõ rệt. Nề nếp các cháu đã đi vào ổn định và được BGH Nhà trường
đánh giá rất tốt. Trẻ rất hứng thú trong mọi hoạt động.
2.3.2. Xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
- Giáo viên cần xác định chủ đề và nội dung của chủ đề được thực hiện
trong thời gian đó.
- Trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề
- Lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ phù hợp với chủ đề đó
8


- Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề
- Chuẩn bị các phương tiện học liệu theo chủ đề
- Lên lịch hoạt động theo tuần, ngày và tích hợp nội dung PTNN với các
hoạt động của các lĩnh vực khác.
Ví dụ:
+ Với chủ đề “Phương tiện giao thông đường bộ” tôi lựa chọn nội dung
cho các hoạt động ngôn ngữ như sau:
+ Trò chuyện: Tôi và trẻ cùng trò chuyên về các phương tiện giao thông
như : Ô tô, Xe đạp, Xe máy,...(Hàng ngày ai đưa con đi học? Bố (Mẹ) chở con
đi học bằng xe gì? Đi đường con thấy những xe gì? Tiếng kêu của xe đó như thế
nào?
- Đọc thơ, ca dao, đồng dao, tục ngữ.
+ Đọc bài thơ:
“ Bé và mẹ ”
Tan học mẹ đón về
Dắt tay em qua phố
Mẹ luôn luôn nhắc nhở
Đi bộ trên vỉa hè

Đường rất nhiều loại xe
Nếu sang ngang phải đợi
Đèn xanh mới được đi
Bé ngoan ngoãn thầm thì
“Con nhớ rồi mẹ ạ !”.
(Lương Thị Xiêm)
“ Đèn đỏ đèn xanh”
Dung dăng dung dẻ
Vui vẻ đi chơi
Đèn đỏ báo rồi
Bạn chờ tí nhé!
Dung dăng dung dẻ
Vui vẻ đi chơi
Đèn xanh báo rồi
Bạn ơi ! Đi nhé.
( Định Hải )
+ Các bài ca dao - Đồng dao:
“Bà còng đi chợ trời mưa”
Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tếp đi đưa bà còng
Đưa bà đến quãng đường cong
Đưa bà vào tận ngõ trong nhà bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Tép tôm nhặt được trả bà mua rau.
“ Đi cầu đi quán”
Đi cầu đi quán
Mua một đàn gà
Đi bán lợn con
Về cho ăn thóc
9



Đi mua cái xoong
Mua lược chải tóc
Đem về đun nấu
Mua cặp gài đầu
Mua quả dưa hấu
Đi mau về mau
Về biếu ông bà
Kẻo trời sắp tối.
+ Kể chuyện “Ô tô con học bài”...
+ Trò chơi phát triển ngôn ngữ: Chơi “Ô tô chim sẻ, Chơi đèn tín hiệu…”
+ Làm sách tranh truyện về các phương tiện giao thông đường bộ
- Tôi xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề nhánh “Phương tiện giao
thông đường bộ”:
Ví dụ:
+ Ở góc hoạt động với đồ vật tôi cho trẻ xếp “Ga ra ô tô”
+ Ở góc phân vai: Cho trẻ chơi bán hàng, nấu cho em ăn
+ Ở góc nghệ thuật : Hát các bài hát về phương tiện giao thông, Tô màu
xe máy, ô tô…
+ Ở góc đóng vai tôi cho trẻ chơi trò chơi đóng vai chú cảnh sát
- Với chủ đề này, tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan phục vụ cho các tiết học
là các phương tiện do nhà trường mua sắm, các đồ chơi do chính tay các cô tự
taọ bằng các phế liệu dễ sử dụng và an toàn cho trẻ. Sử dụng máy tính, băng đĩa
có hình ảnh các phương tiện giao thông,cho trẻ quan sát và đàm thoại.
- Tôi trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề: Trang trí nhóm lớp bằng
tranh ảnh các phương tiện có liên quan đến chủ đề “Bé thích đi bằng
phương tiện gì ” ở các góc trong nhóm lớp sao cho trẻ dễ quan sát và đàm thoại.
- Lên lịch cho các hoạt động theo tuần: Mỗi tuần tôi lên kế hoạch cung
cấp kiến thức cho trẻ về 2-3 phương tiện giao thông.

2.3.3. Giáo dục Lấy trẻ làm trung tâm trong các hoạt động.
Thực tế hiện nay quan điểm “Giáo viên làm trung tâm cho mọi hoạt động
giáo dục” Đã chuyển sang quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm”. Trẻ phải được
coi là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. Giáo viên cần phải dựa vào đặc
điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của từng trẻ, từ đó lập kế hoạch giáo
dục phù hợp.
Bên cạnh đó giáo viên Mầm non cần hiểu rằng việc đặt câu hỏi “Trẻ học
gì?” chỉ là hình thức bề ngoài của một vấn đề. Mà cần phải đặt câu hỏi “Trẻ học
như thế nào?” đó mới là điều cốt lõi của quá trình giáo dục trẻ.
Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm là
phương pháp phát huy được tối đa tính tích cực, khả năng tiếp thu và trí tưởng
tượng của trẻ. Vì vậy khi sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy trẻ cô
chỉ nên gợi mở, kích thích sự sáng tạo của trẻ, hướng dẫn trẻ để trẻ được chủ
động tư duy từng chi tiết các nhân vật qua các câu truyện, không sử dụng câu
hỏi đóng mà sử dụng câu hỏi mở.
Ví dụ: Thơ “Yêu mẹ” Tôi đưa ra câu hỏi
+ Bài thơ nói về ai?
+ Trong bài thơ mẹ của bé đã vất vả như thế nào ?
+ Mẹ dậy sớm để làm gì?
+ Ai đã kề vào má của mẹ?
10


+ Em bé yêu mẹ như thế nào?
+ Còn các con thì sao được mẹ yêu thì các con phải ntn?
Hay: Truyện “ Thỏ con không vâng lời”
+ Mẹ dặn Thỏ con như thế nào?
+ Thỏ con có nghe lời mẹ không?
+ Vì sao Thỏ con lại bị lạc đường?
+ Ai đã đưa Thỏ về nhà?

Từ những câu hỏi cô đưa ra kích thích được sự tư duy của trẻ giúp trẻ nhớ
lại, khắc sâu hơn nội dung truyện một cách chính xác và sâu sắc.
2.3.4. Luyện phát âm cho trẻ.
* Rèn luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ.
Rèn luyện thính giác ngôn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh
ngôn ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung.
Ví dụ: Âm thanh của từ “Hoa” khác âm thanh của từ “Lá”
Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt
trẻ vào trong môi trường âm thanh( Bao gồm âm thanh nói chung và âm thanh
ngôn ngữ nói riêng). Trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngôn ngữ bao nhiêu thì sự
phát triển lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi
lặp lại nhiều lần giúp trẻ phát âm đúng.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “ Hoa nở ” khi trẻ đọc đến từ “xinh xinh” một số
trẻ sẽ phát âm sai, vì vậy cô giáo cần chú ý kiên trì sửa sai cho trẻ bằng cách
(không lặp lại lỗi mắc sai của trẻ), không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ
phát âm lại chậm, rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần.
* Luyện cơ quan phát âm cho trẻ.
- Cơ quan phát âm đóng vai trò quan trọng trong quá trình trẻ nói, nó điều
khiển bộ máy phát âm của trẻ. Quá trình giáo dục sẽ tác động đến bộ máy phát
âm của trẻ. Vì vậy chúng ta cần luyện cơ quan phát âm cho trẻ theo 2 nội dung
sau:
Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi chuyển
động nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ Mầm non Trẻ "Học bằng chơi, chơi mà
học” vì vậy giáo viên cần vận dụng khéo léo và kinh hoạt các phương pháp,
biện pháp phù hợp để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chon phương pháp sử
dụng trò chơi để luyện bộ máy phát âm cho trẻ.
Ví dụ: Cô nói: Trời sắp tối rồi các con hãy “Gọi gà” để cho gà ăn nào! cô
hướng dẫn cho trẻ bặm 2 môi vào nhau thật chặt và phát âm( Bập..Bập...Bập)
Như thế tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm.
Hoặc cho trẻ làm đông tác “ Nhai kẹo cao su”, hay cho trẻ “Chậc lưỡi”…tôi đã

luyện tập cho trẻ biết điều khiển hàm theo 2 hướng…
* Luyện thở ngôn ngữ cho trẻ.
- Qua quá trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy đặc điểm của trẻ
là chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói cho phù hợp, có nhiều trẻ nói
rất nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói rất chậm ê..a..vừa

11


nói vừa thở. Vì vậy điều khiển sự thở là không thể thiếu được trong quá trình
rèn luyện phát âm cho trẻ. Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú
trong quá trình giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Để luyện thở ngôn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tôi
có thể cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như: Thổi nơ bay cao, xa; thổi chong
chóng; gà gáy…Thông qua các trò chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn
dần dần trẻ sẽ biết cách lấy hơi khi nói.
* Luyện giọng.
- Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng lời nói
như: âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ…
Ví dụ: Khi cho trẻ đọc bài thơ: “Yêu mẹ”
- Giáo viên cần đọc mẫu bài thơ cho trẻ nghe 2-3 lần, cô đọc chậm và rõ
thể hiện sắc thái tình cảm của mình trong bài thơ, sau đó cho trẻ đọc theo cô.
Trong khi trẻ đọc cô sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc để thể hiện tình cảm của
mình đối với mẹ.
2.3.5. Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ.
- Để phát triển tư duy sáng tạo của trẻ.Trong quá trình trò chuyện, đàm
thoại, chúng ta nên sử dụng các loại câu hỏi khác nhau. Câu hỏi kích thích trẻ
nhận biết phân biệt sự vật hiện tượng, tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác,
gợi ý trẻ đến hoạt động:

- Ở mỗi hoạt động học tôi đã bám sát vào mục đích yêu cầu về kiến thức,
kĩ năng cần đạt của hoạt động đó để tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi phù hợp
với nhận thức của lứa tuổi . Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, là những câu
hỏi mở để phát triển tư duy sáng tạo cho trẻ.
Ví dụ 1: Với tiết nhận biết phân biệt: “To - nhỏ” tôi đưa ra những câu hỏi
khi cho trẻ phân biệt quả cam to - quả táo nhỏ.
Trong rổ có những quả gì?
Quả cam có màu gì?
Quả táo có màu gì?
Quả nào to - quả nào nhỏ?
Sau đó tôi sẽ gọi nhiều trẻ trả lời để trẻ ôn lại màu sắc cũng như biết cách
phân biệt to - nhỏ, khắc sâu các biểu tượng về độ lớn cho trẻ đồng thời phát
triển ngôn ngữ, tăng thêm vốn từ cho trẻ. Sau mỗi lần trẻ trả lời tôi thường động
viên khen trẻ kịp thời.
Ví dụ 2: Với tiết kể chuyện: “Đôi bạn nhỏ”
Tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi để đàm thoại với trẻ hiểu nội dung câu
chuyện, nhớ tên chuyện.
Cô kể câu chuyện gì?
Trong câu chuyện có những ai?
Ai đã đuổi bắt gà con?
Gà con kêu như thế nào?
Ai đã cứu gà con?
12


Thông qua các câu hỏi trẻ hiểu nội dung, tình tiết của câu chuyện, nhớ tên
chuyện, các nhân vật trong câu chuyện qua đó rèn thêm ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ, trẻ phát âm chính xác hơn các từ.
Ví dụ 3: Khi tôi cho trẻ “Xếp đường đi”, tôi đưa ra câu hỏi.
Con đang xếp gì đấy?

Con xếp các khối gỗ như thế nào?
Qua một thời gian áp dụng biện pháp sử dụng đa dạng các loại câu hỏi
với trẻ, tôi thấy vốn từ của trẻ tăng, trẻ nói rõ ràng, mạch lạc. Trẻ tiến triển về
nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm.Trẻ giao tiếp dễ dàng hơn.
2.3.6. Cho trẻ nhận biết tập nói ở một số hoạt động trong ngày.
Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, tôi đã dạy trẻ ở
các hoạt động có chủ định như: Âm nhạc, kể truyện, đọc thơ và dạy trẻ ở mọi
lúc mọi nơi. Ngoài ra tôi còn áp dụng lồng hoạt động học này để tích hợp cho
hoạt động học khác cho tiết học thêm sinh động kích thích sự hứng thú của trẻ.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ đón trẻ.
Tôi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi và hỏi trẻ.
Con đã chào cô và các bạn chưa?
Con chào mẹ rồi vào lớp với cô, chiều mẹ đến đón.
Hôm nay ai đưa con đi học?
Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì?
Sáng nay con được mẹ cho ăn gì?
Trước khi đi học con chào ai ở nhà nữa nhỉ?
Sau khi đón trẻ xong tôi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích , trẻ được
chơi tự do. Trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang
học và tự mình khám phá. Trẻ có thể trò chuyện cùng cô và các bạn về bức
tranh mà trẻ thấy.(tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vọng của trẻ
sau đó nhằm thỏa mãn nhu cầu tò mò ham học hỏi chủ trẻ). Từ đó trẻ sẽ được
nói nhiều và ngôn ngữ cũng sẽ phát triển theo hướng tích cực.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động góc.
Thông qua trò chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận được trước đây được
chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các tri
thức đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ. Đồng thời tạo ra các
tình huống để trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ đã tích lũy được.
Ví dụ: - Thông qua trò chơi “Khám bệnh” cô là người gợi ý cho trẻ
+ Khi khám bệnh Bác sỹ phải đeo gì ? (ống nghe)

+ Thái độ của Bác sỹ đối với bệnh nhân phải như thế nào?
- Thông qua trò chơi “Người bán hàng, em tập làm cô giáo...” , trò chơi
dân gian như: “Nu na nu nống”,” Tập tầm vông”…trẻ được tự mình nói và đóng
vai các nhân vật.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi tham quan.
Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ
mở rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ.
Đối với trẻ 24-36 tháng, vốn từ của trẻ còn rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói
ra một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt, nên
13


cháu thường e..a hay đang nói giữa chừng lại không nói nữa vì không có từ để
diễn đạt. Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn, tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại
với trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây…để trẻ trả lời, cô lắng nghe bổ
sung và tập nói cho trẻ. Ngoài ra tôi còn khéo kéo linh hoạt lồng nghép tích hợp
các chuyên đề vào trong các hoạt động.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại cây ăn quả tôi hỏi trẻ: Con có biết vì
sao “ lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xống đất” không? tôi sẽ giải thích cho
trẻ hiểu vì lá vàng đã già rồi nên rụng xuống cho lá non mọc ra. Đồng thời tôi
còn giải thích cho trẻ hiểu khi lá rụng xuống đất nếu không được con người quét
dọn, nhiều lá rơi xuống sẽ gây ô nhiễm môi trường bẩn sân trường sẽ không
đẹp, cô sẽ hưỡng dẫn tổ chức cho trẻ nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác.
Hoặc khi đang chơi khi nghe tiếng sấm trẻ sẽ nói đó là tiếng pháo nổ, tôi
sẽ tranh thủ giải thích cho cháu hiểu đó là tiếng sấm báo hiệu trời chuẩn bị có
mưa to đấy các con ạ! Như vậy các cháu đã có thêm từ mới, khái niệm mới về
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên…
Khi cho trẻ đi tham quan trẻ biết thêm một số các khái niệm về các Địa
danh.

Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi cháu để
tập trung nói cho cháu nghe khi cháu chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay. Tôi lại
gần gợi ý để cháu ôn lại một số bộ phận của ô tô, máy bay mà các cháu đã học,
thông qua đó để giúp cháu nắm vững hơn các vấn đề đã được học và đồng thời
phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn.
* Phát triển ngôn ngữ trước giờ ăn và giờ đi ngủ.
Ngoài các giờ hoạt động có chủ đích, giờ hoạt động chơi, giờ hoạt động
lao động… Trẻ còn có giờ ăn, giờ ngủ . Ở những giờ này tôi đã dạy nói thêm
cho trẻ . Trong khi giúp trẻ tiến hành các công việc hàng ngày. Tôi lựa chọn
những nội dung thích hợp và nói tên các công việc đó cho trẻ biết.
Ví dụ: Ở giờ ăn trước khi trẻ ăn tôi hỏi trẻ tư thế ngồi, ăn uống như thế
nào là vệ sinh và cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”.
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa bát, đĩa
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng Cơm rơi cơm vãi.
Ở giờ ngủ: Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ”
Giờ đi ngủ
Em lên giường
Nằm im lặng
Hai mắt nhắm
Ngủ cho ngoan.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động lao động.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra cơ sở vật chất cho
xã hội, nhưng chúng ta phải giáo dục trẻ ý thức lao động, cho trẻ tham gia váo
14


các công việc lao động nhẹ nhàng, lao động tự phục vụ mình. Khi trẻ được tham

gia vào các hoạt động lao dộng , trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với đồ dùng
lao động, đồ dùng sinh hoạt… Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu
tượng chưa có và khắc sâu các biểu tượng đã có. Từ đó trẻ sẽ biết sử dụng ngôn
ngữ trong các hoạt động lao động. Vốn ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
Ví dụ: Trẻ biết nói: Đi dép, Đội mũ, Cởi áo.
* Dạy trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi.
Hưởng ứng cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” Trong lớp, tôi luôn xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với cô giáo, từ đó
tạo được niềm tin ở trẻ, trẻ yêu quý cô, thích nghe cô nói, mong muốn được đến
lớp, từ đó cô giáo thực hiện công tác giảng dạy được tốt hơn.
Để giúp cháu nói được tốt hơn, tôi còn dùng các hình thức trò chuyện với
trẻ trong tất cả các hoạt động, từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ. Cô có thể trò
chuyện với trẻ như: Hôm nay ai đưa con đi học? Nhà con có những ai?... Qua
đó cháu sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ đơn giản nói
được câu nhiều từ hơn.
Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như
khi 1 trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi ví dụ như: Bạn Hà đâu? Cô sẽ trả
lời: Hôm nay bạn Hà ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi, cô quan sát trẻ
chơi và dạy trẻ biết nhừơng nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi của
bạn..v.v.. hay khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cô sẽ giải thích cho trẻ
hiểu đánh bạn là sai, là không tốt con hãy xin lỗi bạn đi..v.v.. Như vậy trẻ sẽ có
những hành vi, những thái độ đúng từ đó trẻ sẽ nói được những từ ngữ biểu lộ
những tình cảm tốt đẹp trẻ biết nói lời hay làm việc tốt
Việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi là một nhiệm
vụ cơ bản, thực hiện tốt được nhiệm vụ đó thì những người làm công tác giáo
dục trẻ ở mọi lứa tuổi mầm non phải biết tận dụng mọi hình thức dạy nói cho trẻ
ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động.
2.3.7. Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương làm đồ dùng,
đồ chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Vì đặc điểm tư duy của của trẻ là tư duy trực quan hành động, cho nên

việc tiếp thu của trẻ phụ thuộc nhiều vào các hành động, qua đó trẻ sẽ nhớ, sẽ
lưu giữ lại những hình ảnh mà trẻ được quan sát.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan khoa học, linh hoạt, sáng tạo là thành
công lớn trong việc dạy trẻ. Do đó yêu cầu đồ dùng phải đẹp, chính xác, xong
tùy vào từng bài thơ mà cô giáo làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng sao cho phù
hợp với nội dung bài học.
Cách sử dụng: Ví dụ: Khi cho trẻ học bài thơ “Con tàu”, Chủ đề: Bé đi
khắp nơi bằng phương tiện giao thông. Tôi chuẩn bị mô hình con tàu cho trẻ
quan sát, Bằng các vỏ hộp sữa tôi xúc sạch sẽ sau đó tôi gắn các hộp sữa lại với
nhau để tạo thành các toa tàu, để làm bánh con tàu tôi dùng các miếng xốp cắt
giống bánh xe và gắn vào các toa tàu, Sau đó tôi dùng miếng bìa cứng vẽ đường
ray cho tàu chạy, khi tàu chạy tôi giả làm tiếng còi tàu kêu tu tu, xình xịch làm
như vậy trẻ sẽ hình dung ra được hình ảnh đoàn tàu, các toa tàu và khi tàu
15


chuyển động có tiếng kê tu tu, xình xịch…Hoặc tôi có thể làm đoàn tàu bằng các
miếng gỗ vụn cắt ra làm các toa tàu, các toa tàu được nối với đầu dây, khi tàu
chuyển động tôi chỉ cần kéo nhẹ đầu dây…
Sau đó tôi đàm thoại với trẻ kĩ hơn về đoàn tàu: Đầu tàu để làm gì? Các
toa tàu để làm gì? Tàu hỏa chạy ở đâu? Tàu hỏa là phương tiện giao thông
đường gì? Còi tàu kêu như thế nào? Để biết được tiếng kêu của con tàu như thế
nào, các con hãy lắng nghe cô đọc bài thơ: “Con tàu” của nhà thơ Định Hải. Cô
đọc diễn cảm bài thơ cho trẻ nghe, giảng nội dung và đàm thoại bài thơ. Giáo
dục trẻ biết bảo vệ con tàu, khi ngồi trên tàu không được ghé đầu, đưa tay ra
ngoài sẽ xảy ra tai nạn. Kết thúc tôi cho trẻ hát bài: “Một đoàn tàu”.

Ảnh minh họa: Làm đoàn tàu bằng các miếng gỗ và các hình khối.
Ví dụ: Dạy trẻ bài thơ: “Hoa nở” Chủ đề “Những bông hoa tươi đẹp”. Tôi
dựa vào nội dung bài thơ để chuẩn bị đồ dùng, như mô hình các loài hoa, chuẩn

bị lời giới thiệu sao cho hấp dẫn, đưa đồ dùng ra sao cho phù hợp, tạo được sự
bất ngờ đối với trẻ và tôi dẫn dắt vào bài.
Tôi chuẩn bị mô hình công viên, có nhiều loài hoa đang đua nhau khoe
sắc. Các loài hoa, cây cỏ, được tôi cắt bằng xốp mềm, vải von,…Khi dẫn trẻ đến
thăm quan mô hình công viên tôi dùng lời giới thiệu hấp dẫn để thu hút sự chú ý
của trẻ vào giờ học.
+ Trong vườn có những loài hoa nào? ( hoa hồng, hoa cúc...)
+ Cô chỉ vào từng loại hoa cho trẻ quan sát, gọi tên, màu sắc của hoa.
+ Các loại hoa có những vẻ đẹp khác nhau, nhưng đều có ích lợi làm đẹp
cảnh quan môi trường. Vì thế mọi người phải biết trồng hoa, chăm sóc hoa, đó là
việc làm bảo vệ môi trường. Cô có bài thơ nói về các loài hoa đang đua nhau
cùng nở rất hay đấy. Các con lắng nghe xem trong bài thơ có những loài hoa gì
nhé. Sau đó cô đọc diễn cảm bài thơ cho trẻ nghe. Khi đọc lần 2 tôi cho trẻ xem
tranh, khi đọc lần 3 tôi sử dụng mô hình chiếc nón kì diệu để đọc thơ cho trẻ
nghe. Chiếc nón kì diệu được tôi làm từ tấm bìa cứng to ở phía dưới, sau đó tôi
dùng các miếng xốp ngăn thành từng ô. Ở mỗi ô, tôi gắn hình ảnh của từng nội
dung một, và khi đọc đến đâu tôi quay hình ảnh đến đó. Ở ô thứ nhất là hình ảnh
của cây hoa cà nở, ô thứ 2 là hình ảnh của cây hoa huệ…
16


Ví dụ: Dạy trẻ bài thơ: “Cây bắp cải” - Chủ đề “Những loại rau quả bé
thích”. Để thu hút trẻ vào bài một cách hứng thú, tôi đó sử dụng bằng vật thật để
giới thiệu.
Hôm nay cô có món quà tặng cho các con, các con hãy đoán xem đó là gì
nhé ? Cô đưa cây bắp cải ra và hỏi: Đây là cây rau gì? (Rau Bắp cải), Loại rau
này có trong bài thơ gì? Sau đó cô giới thiệu vào bài học.

Như vậy việc sử dụng đồ dùng trực quan vô cùng quan trọng trong việc
giúp trẻ lĩnh hội, tiếp thu kiến thức của bài học một cách nhanh nhất, vì vậy mà

trong mỗi bài học cần linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng dạy học để giúp trẻ
hứng thú tham gia giờ học, để giờ học đạt kết quả cao.
2.3.8. Xây dựng góc tuyên truyền và phối hợp vơí phụ huynh trong
công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ.
Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ. Trẻ em là một tờ
giấy trắng thì gia đình và nhà giáo dục là những cây bút màu vẽ lên những tác
phẩm đầy màu sắc cho trẻ, vì thế công tác giáo dục phối hợp giữa gia đình và
17


Nhà trường là một biện pháp quan trọng, góp phần nâng cao hoạt động phát
triển ở trẻ đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy song song với
việc dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn chú trọng đến việc phối kết hợp chặt chẽ
với gia đình để trao đổi mọi hoạt động của trẻ cụ thể bằng các hình thức sau:
Ở cửa lớp tôi xây dựng góc tuyên truyền “ Những điều phụ huynh cần
biết” để phụ huynh dễ quan sát. Tôi lên kế hoạch lịch dạy trẻ một tuần học để
cha mẹ cần biết được rằng hôm nay trẻ sẽ học gì? Ngày mai con mình sẽ được
học gì? Như vậy sẽ tiễn cho phụ huynh biết để dạy trẻ ở nhà. Và tôi thấy đây là
biện pháp rất hữu ích.
Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, dụng
cụ hóa trang, vỏ chai, lon bia sạch…
Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: Nói ngọng, ít nói, để phụ
huynh phối kết hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ
được tốt hơn.
Muốn dạy trẻ mầm non nói đúng ngữ pháp, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 24-36
tháng tuổi cô giáo phải tuyên truyền tới các bậc phụ huynh hiểu được tầm quan
trọng của việc nói đúng ngữ pháp và tác hại của việc nói lắp, nói ngọng. Ở độ
tuổi này trẻ hay bắt chước người lớn, nên người lớn không nói xuyên tạc theo ý
thích của mình khi giao tiếp với trẻ, không nên nói bậy, nói lóng, nói thiếu văn
hoá trước mặt trẻ, không nói những lời không phù hợp với lứa tuổi ấu nhi làm

trẻ khó hiểu, đặc biệt câu nói phải rõ ràng mạch lạc, biểu cảm, các từ ngữ đầy
đủ, cụm từ gần gũi với trẻ để trẻ nghe rõ, hiểu nghĩa của từ.
Sau khi phối kết hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn từ của trẻ
được phát triển khá rõ, đặc biệt là việc nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát
âm chuẩn, nói rõ ràng trẻ hoạt động một cách sôi nổi tự tin, giao tiếp trước mọi
người không còn rụt rè e sợ. Thực hiện biện pháp này mang lại hiệu quả rất cao.
2.4. Hiệu quả kiểm nghiệm.
Những kết quả đạt được khi áp dụng biện pháp như sau:
* Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng tháng 9 năm 2018
Kết quả thực trạng
Đạt
Chưa đạt
Tổn
Nội dung
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém
g số
đánh giá
S T S T S T S T S TL
trẻ
L L L L L L L L L %
%
%
%
%
Khả năng nghe
12

3
25
3
25
5
42
1
8,0
hiểu của trẻ
Khả năng phát âm
2
17
4
33
4
33
2
17
12
đúng từ
Khả năng diễn đạt
2
17
5
42
4
33
1
8,0
ngôn ngữ giao

12
tiếp, nói mạch lạc

18


* Bảng 2: Kết quả khi áp dụng biện pháp của lớp tôi áp dụng khảo sát
tháng 03 nămm 2019:
Nội dung
đánh giá

Tổng
số trẻ

Tốt
SL TL
%

Kết quả thực trạng
Đạt
Chưa đạt
Khá
TB
Yếu
Kém
SL TL SL TL SL TL SL TL
%
%
%
%


Khả năng nghe
12
5
42
6
50
1
8.0
hiểu của trẻ
Khả năng phát âm 12
6
50
5
42
1
8,0
đúng từ
Khả năng diễn đạt 12
5
42
4
33
3
25
ngôn ngữ giao
tiếp
So sánh kết quả khảo sát của bảng 1 và bảng 2 ta thấy số trẻ hiểu và tiếp
thu bài tốt, khá được tăng lên rõ rệt. Số cháu trung bình giảm, cháu yếu không
còn.

- Trẻ phát âm đúng tiếng việt, nói rõ ràng mạch lạc hơn, hứng thú say mê
trong học tập. Trẻ hoạt động không bị áp đặt, gò bó, phát huy được khả năng,
năng lực của bản thân, giúp trẻ trở nên năng động sáng tạo.:
- Trẻ mạnh dạn tự tin và hăng hái tham gia vào các hoạt động.
- Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, vốn từ
của trẻ phong phú. Trẻ nói được nhiều câu có nhiều từ, trẻ nói ngọng và tiếng
địa phương chiếm tỉ lệ thấp.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
- Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng rất quan trọng nó
được thể hiện rõ ở các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường mầm non, giúp trẻ
hoàn thiện về nhân cách. Qua thời gian tìm tòi và thực hiện các biện pháp trên,
kết quả khảo sát đầu năm so với kết quả cuối năm học của trẻ được tăng lên rõ
rệt. Từ những kết quả trên tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ phát
triển ngôn ngữ.
- Cô giáo phải yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc, luôn tìm tòi
nghiên cứu các hình thức, biện pháp dạy trẻ phù hợp với khả năng nhận thức
của trẻ.
- Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ
- Cô giáo cần nắm vững tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của cô phải mẫu mực
chính xác đúng tiếng việt, không nói ngọng, nói lắp, không nói tiếng địa
phương.
- Để có được một tiết dạy tốt giáo viên phải chuẩn bị các cụm từ để tăng
cường tiếng việt cho trẻ. Phải có đồ dùng trực quan đầy đủ, bền đẹp, đảm bảo
tính thẩm mỹ và khoa học thu hút trẻ vào tiết học đạt kết quả cao.
- Là người giáo viên cần làm rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc
hình thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, tự rèn luyên ngôn ngữ cho mình để phát âm chuẩn
19



tiếng phổ thông. Xây dựng môi trường học tập phong phú thuận lợi, tạo cảm
xúc để kích thích trẻ đến với môi trường học tập.
- Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ động viên, thu hút trẻ trò
chuyện với trẻ, với các bạn và với những người khác .
- Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ, từ đó có biện pháp
thích hợp để giúp đỡ trẻ
Giáo viên cần phối kết hợp với phụ huynh về các biện pháp giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ mà cô đã thử nghiệm đạt kết qủa trên lớp và tuyên truyền cho
phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ, tăng cường tiếng
việt cho trẻ.
3.2. Kiến nghị.
- Đối với nhà trường: Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với
các cấp, các ngành, làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục bổ xung thêm phòng
học, mua sắm thêm trang thiết bị như: Ti vi, máy chiếu, đồ dùng đồ chơi để
phục vụ các hoạt động học được tốt hơn. Xây dựng khuôn viên trường bổ sung
thêm đồ chơi ngoài trời cho trẻ để giúp trẻ hoạt động đạt kết quả cao hơn.
- Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho giáo viên tiếp thu học hỏi. Tổ chức các tiết học về chương
trình nhà trẻ về tất cả các môn học, về cách sử dụng các phương tiện nghe nhìn
tiên tiến: Cách sử dụng máy chiếu hình, ghi hình…Cung cấp bổ sung thêm các
tài liệu, tập san cho các Nhà trường để giáo viên tham khảo phục vụ cho công
tác chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học đối
với hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi. Rất mong được sự
góp ý của Hội đồng khoa học các cấp để tôi tiếp tục làm tốt hơn nữa việc chăm
sóc giáo dục trẻ 24 - 36 tháng tuổi cũng như các độ tuổi khác trong trường Mầm
non Thành Sơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ.


Bá Thước, ngày 24 tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
Của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến.

Nguyễn Thị Thường

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

1
2
3
4
5
6

TÊN TÀI LIỆU

Phương pháp dạy trẻ học
nói như thế nào
Hướng dẫn và thực hiện
Kế hoạch giáo dục theo
chủ đề.
Luật giáo dục Mầm non

ban hành số 38/2005QH11
ngày 14/06/2005
Chương trình giáo dục
Mầm non
Bồi dưỡng thường xuyên
dành cho cán bộ quản lý
và giáo viên
Hướng dẫn tổ chức thực
hiện chương trình giáo dục
mầm non Nhà trẻ 24- 36
tháng tuổi.

NHÀ XUẤT BẢN

NĂM XUẤT
BẢN

Nhà xuất bản giáo dục 1990
Việt nam
Nhà xuất bản giáo dục 2012
Việt nam
Nhà xuất bản giáo dục 2005
Việt nam
Nhà xuất bản giáo dục 2009
Việt nam
Nhà xuất bản giáo dục Hè 2015- 2016
Việt nam
Nhà xuất bản giáo dục 2013
Việt nam


21



×