Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.91 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN LÂM

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN LÂM

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRỊNH TIẾN VIỆT



Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Quý khoa xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Xuân Lâm

MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện tại, pháp nhân thương mại là một
trong những yếu tố cấu thành phát triển nền kinh tế của đất nước. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới, các pháp nhân thương mại tại Việt Nam
ngày càng phát triển và từng bước hoàn thịên đã và đang thể hiện vai trò quan
trọng trong của mình trong nền kinh tế nước nhà. Nhận được nhiều chính sách
hỗ trợ từ chính phủ cũng như các ban, ngành trong cơ quan nhà nước pháp
nhân thương mại đã có sự phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất
định như: Thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giảm thiểu tỷ

lệ thất nghiệp, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng năng
xuất lao động, giảm thiểu tỷ lệ đói – nghèo, tăng tính đồng đều phát triển kinh
tế, hạ tầng cơ sở được làm mới, góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
tốt hơn quyền con người, quyền công dân...Tuy nhiên, từ tính phức tạp của
tình hình kinh tế, từ những góc khuất của nền kinh tế thị trường đã tạo cho
một số pháp nhân thương mại vì nhu cầu có lợi của mình xâm phạm nghiêm
trọng đến quyền lợi của xã hội, nhân dân, đất nước như hành vi: huỷ hoại môi
trường khi xả thải ra môi trường chưa qua xử lý, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sức khoẻ con người, sinh ra nhiều bệnh hiểm nghèo, dịch bệnh lây lan, hay
hành vi trốn thuế, đầu cơ, buôn lậu, kinh doanh trái phép. Qua thực tế thấy
rằng, việc núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân để phạm tội ngày càng tăng,
tính phức tạp ngày càng khó, tính chất nguy hiểm ngày càng cao. Họ thực
hiện vì lợi ích của pháp nhân với những thủ đoạn tinh vi, có tổ chức gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tình hình trật tự an ninh - xã hội, nền kinh tế đất nước
và đời sống của người dân, đòi hỏi cần phải có giải pháp mạnh để phòng ngừa
và đấu tranh.
5

5


Quy định về trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại được ghi nhận
trong Bộ luật hình sự năm 2015 của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch
sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại, việc quy định này làm thay đổi nhận thức truyền thống về
vấn đề tội phạm và hình phạt. Giúp góp phần giải quyết những hạn chế trong
việc xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân thương mại trong các lĩnh vực
kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra. Theo Bộ luật hình sự
năm 2015 thì trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại chỉ phải chịu có

31 tội danh, một bước tiến mới trong Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm
2017 là bổ sung thêm 02 tội danh là tội “tài trợ khủng bố” (Điều 300) và “tội
rửa tiền” (Điều 324) cũng như chế định về hình phạt, giảm nhẹ hình phạt. Mặt
khác, những quy định mới của Luật tố tụng năm 2015 về pháp nhân được ghi
nhận và áp dụng linh hoạt. Tuy nhiên, để chế định trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng triệt để
và đưa vào thực tế hiệu quả thì còn gặp nhiều khó khăn, khó tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng đến công tác bảo vệ pháp luật của
cơ quan nhà nước cũng như quyền lợi của tổ chức, cá nhân.
Từ đó, cần phải hoàn thiện hơn nữa để coi đây là công cụ pháp lý sắc
bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ
quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phát triển đúng hướng, đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái
an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế của đất nước. Trong thực trạng như vậy, tác giả chọn: “Trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm
luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn làm rõ quy định của Bộ luật hình
6

6


sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, đồng thời kiến nghị một
số giải pháp trong thực tiễn áp dụng chế định trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một trong những vấn đề cơ bản,

phong phú và phức tạp của luật hình sự nên từ trước đến nay luôn được các nhà
luật hình sự trên thế giới và trong nước quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu
được nhắc đến và là nguồn tham khảo hiệu quả cho các nhà làm luật trong nước
khi nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, đơn cử như:
Ở Pháp, có rất nhiều công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân, như: Tập giản yếu về Luật hình sự, Leffort,
Paris, Sirey 1877; Pháp nhân và vấn đề trách nhiệm hình sự của nó, Maistre,
Paris, A.Rousseaus, 1889; Tình trạng của pháp nhân và vấn đề trách nhiệm
hình sự của nó, S.Glaser, R.D.P.C, 1948 – 1949; Chế tài hình sự và pháp
nhân, A.Huss, R.D.P.C, 1975 – 1976; Sách chuyên luận về luật hình sự và
pháp luật hình sự so sánh, Donnedieu de Vabres, Paris, Sirey, 1947;
Sách chuyên luận về Luật La Mã, A.Braas, Bruylant 1946; Tư cách
pháp nhân trong luật so sánh, V.Simonart, Bruxelles, Bruylant 1995.
Ở Liên Xô trước đây đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn
đề trách nhiệm hình sự nói chung, trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân nói
riêng, điển hình là các công trình: "Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Xô viết" (1963) của Brainhin Ia. M; "Nhân
thân người phạm tội và trách nhiệm hình sự" (1968) của Lêikina N. X; "Trách
nhiệm hình sự và cấu thành tội phạm" (1974) của Karpusin M. P., Kurlianđxki
V. I; "Trách nhiệm hình sự và hình phạt" (1976) của Bagri- Sakhmatôv L. V;
"Những vấn đề lý luận của trách nhiệm hình sự" (1982) của Xantalôv A. I. v.v .
Những thành tựu và hạn chế về mặt lý luận trong việc pháp luật hoá trách nhiệm
7

7


hình sự của pháp nhân tại Nhật Bản của tác giả Kensuke Itoh [13].
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở nước ta, quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là chế định hoàn

toàn mới trong Bộ luật hình sự 2015. Các đề tài nghiên cứu xoay quanh sự cần
thiết phải đưa chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Bộ luật hình sự
Việt Nam đã có những đóng góp tích cực, hiệu quả vào việc xây dựng và ban
hành Bộ luật hình sự 2015. Nhiều đề tài khoa học nghiên cứu sâu chế định trách
nhiệm hình sự của pháp nhân trong hệ thống pháp luật các nước trên thế giới và
quá trình chế định hóa trong Bộ luật hình sự năm 2015. Nhiều bài viết, tọa đàm,
trao đổi về chuyên môn xuất hiện trên các tạp chí chuyên ngành đã đề cập đến
những điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân, về các tội phạm cụ thể của pháp nhân cần phải xem xét, xử lý... Đáng chú
ý là những công trình nghiên cứu, bài viết chuyên ngành sau:


Sách chuyên khảo, giáo trình: Trịnh Quốc Toản (2011) Trách nhiệm hình sự
của pháp nhân trong pháp luật hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật.



Bài viết, đề tài: Phạm Hồng Hải (1999) “Pháp nhân có thể là chủ thể của tội
phạm hay không”, Tạp chí Luật học, số 6, tr. 14-19; Lê Văn Cảm (2000)
“Trách nhiệm hình sự của pháp nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3, tr. 8-13; Trịnh Quốc Toản (2002) “Trách
nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự nước Anh”, Tạp chí Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế-Luật, Số 3; Trịnh Quốc Toản (2003)
“Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Hà Lan”, Tạp chí
Kiểm sát, số 5; Trịnh Quốc Toản (2003) “Phạm vi và điều kiện áp dụng trách
nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Anh”, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế-Luật, số 1; Trịnh Quốc Toản (2005) “Những
vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Luật hình sự Thụy
Sỹ”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7; Trịnh Quốc Toản (2005) “Về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân trong luật hình sự một số nước theo truyền thống luật

8

8


châu âu lục địa”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, tr. 75-83; Trịnh Quốc
Toản (2006), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân và mô hình lý luận của nó
trong luật hình sự Việt Nam tương lai”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5,
tr. 50-62; Trịnh Quốc Toản (2006) “Một số vấn đề trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trong luật hình sự các nước theo truyền thống Common Law”, Tạp
chí toàn án nhân dân, số 18; Nguyễn Anh Tuấn (2011) “Cơ sở thực tiễn của
việc thiết lập chế định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Việt Nam hiện
nay”, Chuyên đề trong công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ “Nghiên cứu
so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với tổ chức” do TS.Cao Thị Oanh chủ nhiệm; Đỗ Đức Hồng Hà (2011) “Quy
định về trách nhiệm hình sự của tổ chức ở Trung Quốc”, Chuyên đề trong
công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ “Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức” do TS.Cao
Thị Oanh chủ nhiệm, Tr. 5-11; Nguyễn Ngọc Hòa (2014) “Trách nhiệm hình
sự của chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp
chí Luật học, số 12, Tr. 9-16; Hoàng Hải Yến (2014) “Một số vấn đề về trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân”, Tạp chí Kiểm sát, số 4, Tr. 27- 32; Đào Trí
Úc (2015) “Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Luật hình sự”, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 03; Lê Văn Cảm (2016) “Nhận thức khoa học về
những quy định chung trong Bộ luật hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 3;
Nguyễn Ngọc Hoà (2016) “Khái niệm tội phạm và việc quy định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015”, Tạp chí
Luật học, số 2, Tr. 3-12; Hà Thanh (2016) “Quy định về trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trong Bộ luật hình sự năm 2015”, < 19/04/2016; Lê Văn Cảm (2016) “Về các điều khoản liên
quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Phần chung Bộ luật hình sự

năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 22; Trịnh Tiến Việt (2018) “Mối liên hệ giữa quy
9

9


định pháp nhân phạm tội với quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp
nhân và một số kiến nghị”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6, Tr. 10 – 17; Hoàng Thị
Quỳnh Chi và Trần Quỳnh Hoa (2018) “Một số vấn đề về điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện”, Vụ pháp chế và Quản lý khoa học
– VKSNDTC.


Đề tài, Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: Hoàng Thị Tuệ Phương (2006),
Trách nhiệm hình sự pháp nhân, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học luật
thành phố Hồ Chí Minh; Cao Thị Oanh – Chủ nhiệm (2011) “Nghiên cứu so
sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với
tổ chức”, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp; Vũ Hải Anh (2012) “Trách
nhiệm hình sự của pháp nhân – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn
thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Quỳnh Nga (2017) “Chủ thể
của Tội phạm là pháp nhân thương mại trong pháp luật hình sự”, Luận văn
thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội; Trần Thị Huyền (2017) “Trách
nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội; Lý Thị Tường Nga (2017)
“Trách nhiệm hình sự của pháp nhân”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật
- Đại học quốc gia Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã làm rõ nhiều nội
dung liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, đã đưa ra
bàn luận và giải quyết nhiều vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự đặt ra. Tuy nhiên, mỗi công trình chỉ tập trung vào một số

khía cạnh chuyên sâu nhất định và tập chung phân tích chi tiết từng vấn đề cụ
thể mà chưa khái quát tổng thể vấn đề chịu trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thương mại.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã làm phần nào tìm hiểu và
đi sâu về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân nói chung và pháp nhân
thương mại nói riêng. Tuy nhiên, việc đề cập một cách có hệ thống về trách
10

10


nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong pháp luật hình sự Việt Nam
cũng như những bất cập hạn chế trong các quy định hiện hành về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại thì chưa có công trình nào đề cập một cách
hoàn chỉnh. Đó chính là lý do mà tác giả luận văn lựa chọn đề tài này. Việc
nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo pháp
luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận,
vừa có tính thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ có hệ thống về mặt lý luận
cũng như pháp lý đối với trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo
pháp luật hình sự Việt Nam. Qua đó, xác định được một số bất cập cũng như
đề xuất những giải pháp hoàn thiện chế định này trong Bộ luật hình sự năm
2015. Đồng thời, luận văn góp phần cho công cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm được hiệu quả ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nghiên cứu của đề tài, các nhiệm vụ cơ
bản sau sẽ được thực hiện:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định trách nhiệm

hình sự của pháp nhân nói chung cũng như pháp nhân thương mại nói riêng;
- Nghiên cứu chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân một số nước
trên thế giới;
- Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại như: Cơ sở của trách nhiệm hình sự,
những điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt áp dụng cũng như
các biện pháp tư pháp khác...
- Trên cơ sở các quy định hiện hành, có liên hệ với thực tiễn áp dụng
đồng thời tham khảo các ý kiến của chuyên gia, học viên đề xuất một số giải
11

11


pháp nhằm hoàn thiện quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, trách nhiệm hình sự của
pháp nhân đối với một số nước trên thế giới và những vấn đề đặt ra khi thi
thành Bộ luật hình sự năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, qua đó làm rõ cơ sở điều kiện,
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại; chỉ ra những tội
danh đối với pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội; đưa ra những
khó khăn, vướng mắc có thể có trong áp dụng chế định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân xuất phát từ thực tiễn, từ đó đề ra một số kiến nghị và giải
pháp áp dụng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của CN Mác - Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học
luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp.
Ngoài ra, một số phương pháp khác được áp dụng như: phương pháp nghiên cứu
chuyên sâu, phương pháp phân tích hệ thống, nghiên cứu tài liệu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là đề tài tương đối đầy đủ và hệ thống những vấn đề về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, làm sáng tỏ được các vấn đề về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
2015 như: Phân tích các vấn đề về điều kiện, phạm vi, hình phạt, tội danh chịu
12

12


trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Bên cạnh đó, đưa ra những kiến
nghị, giải pháp bảo đảm thực hiện quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại trong tương lai.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Do việc áp dụng chế định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại trong thời gian ngắn, nên việc nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn về
chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự
năm 2015 để áp dụng hiệu lực, hiệu quả vào đời sống xã hội còn bỡ ngỡ và
gặp nhiều khó khăn. Trong phạm vi đề tài luận văn, với sự nghiên cứu nghiêm
túc của một học viên, gắn với chức năng nhiệm vụ mà bản thân đang thực
hiện, nội dung đề tài mong muốn sẽ góp phần áp dụng những quy định về
trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự năm
2015. Luận văn còn có giá trị tài liệu, tư liệu khảo khảo cho các nhà lập pháp,

hành pháp và tư pháp, các nghiên cứu sinh, những người làm công tác thưc
tiễn và sinh viên, học viên cao học…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương gồm:
Chương 1: Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự
đối với pháp nhân thương mại
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại

13

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI

1.1. Khái niệm, cơ sở của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thương mại
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Từ “trách nhiệm” thường được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, “trách
nhiệm” là nghĩa vụ, bổn phẩn của một người với một người khác, trước xã hội
và Nhà nước. Thứ hai, “trách nhiệm” là hậu quả bất lợi mà một người phải
gánh chịu trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước do đã có hành vi vi
phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó. Từ đó, theo trách nhiệm pháp lý thì “trách
nhiệm hình sự” là một thuật ngữ pháp lý và được sử dụng đối với người có

hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Như vậy, dưới góc độ khái quát thì trách nhiệm hình sự là một dạng của
trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm
và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội. Mặt khác, trách
nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách nhiệm
hình sự chỉ phát sinh khi có việc phạm tội. Nó chỉ được thực hiện trong phạm
vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có
các quyền và nghĩa vụ nhất định – một bên là Nhà nước, còn bên kia là người
phạm tội. Cụ thể là, Nhà nước thì có quyền truy cứu trách nhiệm người phạm
tội, nhưng phải có nghĩa vụ chứng minh, áp dụng trong khuôn khổ pháp luật
hình sự quy định, còn người phạm tội thì có nghĩa vụ bị hạn chế quyền công
14

14


dân và một số quyền năng cơ bản nhất định đồng thời cũng có quyền yêu cầu
các cơ quan Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật.
Nói tóm lại, trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý
và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện
bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ
luật hình sự quy định đối với người phạm tội [40].
Cũng giống như trách nhiệm hình sự của cá nhân, trách nhiệm hình sự
của pháp nhân cũng là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp nhân
phạm tội phát sinh từ thời điểm tội phạm được thực hiện. Có thể hiểu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm
mà pháp nhân phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước về hành vi phạm tội
của mình.
Trước khi làm rõ khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân chúng

ta cần làm rõ khái niệm pháp nhân thương mại. Theo Điều 74, Điều 75 Bộ
luật dân sự 2015 quy định về pháp nhân và pháp nhân thương mại như sau:
“Điều 74. Pháp nhân
1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường
hợp luật có quy định khác.
Điều 75. Pháp nhân thương mại
1.

Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận
và lợi nhuận được chia cho các thành viên

2.

Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
15

15


3.

Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện
theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp
luật có liên quan.”[19].

Như vậy, một tổ chức để được coi là một pháp nhân thương mại phải
đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, pháp nhân thương mại là phải có mục tiêu chính là tìm kiếm
lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên: Vấn đề này được thể
hiện qua đăng ký ngành nghề kinh doanh, pháp nhân thương mại thực hiện
công việc kinh doanh của mình bằng những ngành nghề đã đăng ký và mang
lại lợi nhuận cho tổ chức của mình, sau khi có lợi nhuận thì pháp nhân thương
mại có thể phân chia lợi nhuận cho người góp vốn.
Thứ hai, pháp nhân thương mại phải được thành lập hợp pháp: Doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế khác. Một pháp nhân thương mại được thành lập
hợp pháp khi được pháp luật cho phép hoặc thừa nhận, nói cách khác thì phải
được thành lập theo trình tự, thủ tục luật định. Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ,
chức năng của một tổ chức mà Nhà nước bằng pháp luật công nhận tổ chức
đó là pháp nhân thông qua các hình thức: Cơ quan có thẩm quyền thành lập,
cho phép thành lập, đăng kí hoặc công nhận thành lập. Tính hợp pháp của
pháp nhân thương mại giúp pháp nhân đó tham gia các quan hệ pháp luật và
tồn tại dưới sự kiểm soát, đảm bảo của Nhà nước nhằm phù hợp với ý chí của
Nhà nước, nhằm hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích là thu lại thu lợi
nhuận.
Thứ ba, pháp nhân thương mại phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ: Cơ cấu
tổ chức chặt chẽ có nghĩa là pháp nhân thương mại có cơ cấu tổ chức, hoạt
động theo điều lệ, quy chế của pháp nhân đó. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ giúp
cho pháp nhân trở thành một thể thống nhất, vận hành, hoạt động một cách có
hiệu quả. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nghĩa là pháp nhân phải có sự sắp xếp,
phân bổ nguồn nhân lực vào các bộ phận như phòng, ban… và quy định cho
16

16



từng bộ phận đó những chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong Điều lệ.
Thứ tư, pháp nhân thương mại phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó: Giống như các chủ thể dân
sự khác, để có thể thực hiện các quyền và gánh vác nghĩa vụ khi tham gia các
quan hệ dân sự, pháp nhân cần phải có một khối lượng tài sản nhất định. Và
tài sản của pháp nhân còn phải có sự độc lập, tức là pháp nhân có đầy đủ 3
quyền năng của quyền sở hữu là chiếm hữu, sử dụng và định đoạt để không
chịu sự chi phối ràng buộc của bất kỳ ai, đảm bảo tư cách chủ thể của pháp
nhân. Mặt khác, để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể nên pháp
luật quy định pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm bằng khối tài sản đó. Trách
nhiệm của pháp nhân khi vi phạm nghĩa vụ không thể do một cơ quan, tổ chức
khác gánh vác và các thành viên của pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm trong
phạm vi tài sản của mình đã góp (trừ trường hợp công ty hợp danh) vào pháp
nhân. Đây cũng là một yếu tố để phân biệt pháp nhân với thể nhân.
Thứ năm, pháp nhân thương mại nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật một cách độc lập: Điều kiện này xuất phát từ việc tách bạch tài sản
(tài sản độc lập) với các cá nhân, tổ chức khác. Với việc sở hữu một khối tài
sản riêng, pháp nhân có đủ khả năng để hưởng, tự mình thực hiện các quyền
và chịu nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ dân sự. Mặt khác, các chủ thể
thành lập pháp nhân khi thành lập đã chuyển quyền sở hữu những tài sản mà
mình muốn vào khối tài sản chung, do đó cần có một sự thống nhất về mặt ý
chí trong việc sử dụng khối tài sản đó. Dựa trên tiêu chí này, pháp luật đã
“trừu tượng hóa” điều đó thành “ý chí” của pháp nhân, tức là trao cho pháp
nhân một tư cách để pháp nhân “nhân danh” chính mình tham gia các quan hệ
dân sự. Tuy nhiên, coi đây là một điều kiện pháp nhân có lẽ chưa thực sự hợp
lý, vì việc nhân danh mình của pháp nhân chỉ là một hệ quả tất yếu khi được
thành lập hợp pháp và đã có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác.
Thứ sáu, về luật điều chỉnh: Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt
17


17


pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại đều chịu sự điều chỉnh
của Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy nhiên, do pháp nhân thương mại bao gồm
các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế nên sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật
doanh nghiệp năm 2014. Trong khi đó, pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị... nên sẽ còn chịu
sự điều chỉnh của các luật về tổ chức bộ máy nhà nước.
Hiện tại trong các văn bản pháp lý chưa đưa ra cụ thể khái niệm “trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại”. Tuy nhiên, học viên đưa ra quan
điểm cá nhân về khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
như sau: “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là một dạng
trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ
luật hình sự quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội”.
Bảng so sánh trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo Bộ
luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999
Vấn đề
Chương 3

Bộ luật hình sự năm 1999 Bộ luật hình sự năm 2015
Chưa quy định về pháp Tại khoản 1-Điều 8: khái

Tội phạm

nhân

niệm về tội phạm đã được
mở rộng: bao gồm cả pháp


Cơ sở trách nhiệm

nhân thương mại phạm tội.
Sửa đổi, bổ sung quy định

Không có

hình sự

tại Điều 2 Bộ luật hình sự
năm 2015 về cơ sở trách
nhiệm hình sự “2. Chỉ
pháp nhân thương mại
nào phạm một tội đã được
quy định tại Điều 76 của
Bộ luật này mới phải chịu
18

18


Chương 6:

trách nhiệm hình sự”
Chưa quy định trách Có sửa đổi, bổ sung quy

Hình phạt

nhiệm hình sự đối với định về khái niệm hình

pháp nhân thương mại

phạt theo hướng mở rộng
chủ thể
Điều 30 quy định: Hình
phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước được quy định
trong Bộ luật này, do Tòa
án quyết định áp dụng đối
với người hoặc pháp nhân
thương

mại

phạm

tội

nhằm tước bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của
người, pháp nhân thương
Chương 11:

mại đó
Lần đầu tiên có hẳn 1

Không có

Những quy định


chương riêng, quy định về

đối với pháp nhân

các điều kiện, phạm vi

thương mại phạm

chịu trách nhiệm hình sự,

tội

các hình phạt, các biện
pháp tư pháp,..đối với

Hình thức hình

pháp nhân phạm tội.
quy định một cách cụ thể

Không có

phạt, loại hình

các loại hình phạt và các

phạt, các biện pháp

biện pháp tư pháp đối với


tư pháp và điều

chủ thể mới của pháp luật

kiện áp dụng đối

hình sự là pháp nhân, cụ
19

19


với pháp nhân

thể là từ Điều 77 đến Điều

phạm tội
Quy định về tình

82
Chỉ quy định trách nhiệm Quy định trách nhiệm hình

tiết giảm nhẹ, tình

hình sự đối với cá nhân

tiết tăng nặng trách

sự đối với cả pháp nhân

(tại điều 84 và 85) và cá

nhiệm hình sự
nhân
Như vậy, trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại sẽ được áp
dụng thông qua một trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định để đảm
bảo tính khách quan, trung thực trong hoạt động tố tụng. Trách nhiệm hình sự
của pháp nhân thương mại cũng phải được thể hiện rõ ràng trong bản án hay
quyết định của Tòa án và một pháp nhân thương mại cũng chỉ bị coi là có tội
khi bị kết án bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án là cơ sở
pháp lý khẳng định một pháp nhân thương mại có tội hay không, quy định các
hình thức trách nhiệm hình sự mà pháp nhân đó phải gánh chịu. Bản án hay
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sẽ được đưa ra thi hành và có
hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước cũng như mọi cá nhân và như
vậy, trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại sẽ được bảo đảm thi
hành trên thực tế.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại
1.1.2.1. Cơ sở lý luận trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Nói một cách khái quát, cơ sở lý luận của việc quy định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại chính là những lý lẽ để trả lời cho câu hỏi:
“Có thể quy định được trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại hay
không?”. Vấn đề này hiện vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi không chỉ ở những
nước chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại mà ở cả
những nước pháp luật đã quy định vấn đề này. Như chúng ta đã biết, tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu
20

20



hình phạt. Khái niệm tội phạm này hoàn toàn có thể lý giải đối với chủ thể là
pháp nhân thương mại.
Cũng như thể nhân, pháp nhân thương mại cũng có hành vi của mình.
Trong các điều lệ, văn bản về pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, hoạt
động của pháp nhân và hoạt động đó chính là hành vi của pháp nhân thương
mại. Tuy nhiên, do bản chất khác nhau nên khác với thể nhân, hành vi của
pháp nhân mang những nét đặc trưng riêng, đó là hành vi của pháp nhân
thương mại được thực hiện thông qua người đại diện, người lãnh đạo của
pháp nhân đó. Mọi hậu quả phát sinh từ hành vi của người đại diện pháp nhân
thương mại, nhân danh pháp nhân thương mại thực hiện thì pháp nhân thương
mại thụ hưởng hoặc gánh chịu. Những hoạt động của pháp nhân thương mại
thường là những hành vi có lợi cho pháp nhân thương mại, vì lợi ích của pháp
nhân thương mại, lợi ích của xã hội nhưng cá biệt cũng có những hoạt động
vì lợi ích của mình mà pháp nhân thương mại có thể gây thiệt hại cho xã hội
ở những mức độ khác nhau và việc gây thiệt hại ở mức đáng kể là rất có thể
xảy ra. Vì vậy, pháp nhân thương mại có thể có hành vi nguy hiểm đáng kể
cho xã hội.
Không chỉ vậy, vì hoạt động của pháp nhân thương mại là do tập thể,
thông qua hoạt động của con người cụ thể nên cũng có thể xác định có trường
hợp có lỗi và có trường hợp không có lỗi, có thể có lỗi cố ý và cũng có thể có
lỗi vô ý. Do đó, đứng ở một góc độ nào đó, chúng ta cũng có thể chứng minh
được pháp nhân thương mại có thể có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm đáng kể cho xã hội. Những hoạt động của pháp nhân thương mại có thể
không trái hoặc cũng có thể trái pháp luật hình sự. Như vậy, hành vi của pháp
nhân thương mại hoàn toàn có thể đáp ứng các đặc điểm của tội phạm theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Mặt khác, việc áp dụng hình phạt cho pháp nhân thương mại là có khả
năng thực thi. Hình phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
21


21


người phạm tội và pháp nhân thương mại cũng có những quyền và lợi ích
nhất định, nên về lý thuyết, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp
nhân thương mại phạm tội là điều có thể. Và khi chúng ta tước bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của pháp thương mại nhân tức là chúng ta đã đạt được mục
đích trừng trị, răn đe cũng như phòng ngừa của hình phạt. Do đó, có thể
khẳng định rằng, hoàn toàn có thể quy kết trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại.
Từ những phân tích trên có thể thấy, việc thiết lập chế định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại không vi phạm bất kỳ dấu hiệu nào của tội
phạm cũng như các nguyên tắc của luật hình sự. Vì vậy, chúng ta có thể quy
định được trách nhiệm hình sự cho pháp nhân thương mại.
1.1.2.2. Cơ sở thực tiễn về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có nhiều hình thức phạm tội, thực
hiện những hành vi tinh vi. Nhất là chúng ta đang trong thời đại công nghệ
4.0 thời đại về công nghệ thông tin. Do đó, không chỉ tồn tại hiện tượng phạm
tội có tổ chức mà còn tồn tại tổ chức phạm tội, tổ chức này thường mang danh
nghĩa doanh nghiệp hay các đoàn hội cụ thể…có thu nhập chính từ hoạt động
kinh doanh của mình dựa trên hành vi phạm tội. Các thành viên của các tổ
chức này có sợ liên kết chặt chẽ với nhau và hoạt động theo quy trình cụ thể
thống nhất. Vì vậy, nếu chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội
thì pháp luật chỉ đấu tranh được cá nhân trong tổ chức đó, ngoài tịch thu tài
sản phạm tội, chúng ta cũng có thể khó có thể tịch thu được tài sản của tổ
chức do cá nhân người trong tổ chức. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với cá nhân những người lãnh đạo, đại diện, quản lý cho pháp nhân thương
mại trong những trường hợp này là không hợp lý và thiếu công bằng. Những
cá nhân đó thực hiện hành vi từ các biện pháp điều hành cụ thể để thực hiện

mà không được làm trái các quyết định đó, khi được lợi thì tất cả các thành
viên pháp nhân thương mại hưởng, còn trách nhiệm thì chỉ mình những người
22

22


đó gánh chịu. Mặt khác, việc truy cứu trách nhiệm hình sự cá nhân trong
trường hợp này cũng không thể ngăn chặn được pháp nhân thương mại, tổ
chức tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật. Nếu pháp nhân thương mại
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ gây hệ luỵ cho cá nhân khác thay
thế để thực hiện hành vi với mục đích của pháp nhân thương mại.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặt biệt quan tâm đến
doanh nghiệp, tổ chức thương mại. Chính phủ kiến tạo, đã điều kiện và những
chính sách có lợi nhất cho các doanh nghiệp từ việc khởi tạo công ty cho đến
việc hoạt động như: Giao cho doanh nghiệp quyền tự do kinh doanh, không bị
giới hạn ngành nghề, giảm thủ tịch hành chính, được hỗ trợ vay vốn, doanh
nghiệp có quyền tự chủ hoàn toàn… Tuy nhiên, vì lợi nhuận và kẽ hở của
pháp luật nhiều doanh nghiệp đã có những hành vi gây nguy hại cho xã hội
như các hành vi vi phạm quy định về độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh,
buôn lậu, xâm phạm sở hữu trí tuệ, gian lận thương mại… gây nên hậu quả rất
nghiêm trọng cho xã hội, xâm phạm đến quyền lợi của các nhân, tổ chức và
nhà nước.
Từ đó, đòi hỏi phải quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại, chỉ có trách nhiệm hình sự với tính nghiêm khắc của các chế tài mới đủ
sức răn đe và có khả năng ngăn ngừa hành vi tiếp tục phạm tội của pháp nhân
thương mại đồng thời, việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại mới tương xứng và phù hợp với mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi gây thiệt hại do pháp nhân đã thực hiện. Với thực tế nêu
trên, có thể khẳng định rằng trong điều kiện của xã hội hiện nay cần thiết phải

quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
1.1.2.3. Cơ sở lập pháp về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985 pháp luật hình sự
giai đoạn này mang đặc điểm là nước ta chưa ban hành một Bộ luật hình sự
chính thức, mà những quy định pháp luật hình sự được nằm xen kẽ trong các
23

23


văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, giai đoạn này, cũng sơ khai một số
quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, nhưng không mang tính
phổ quát, chưa mang tính cụ thể, còn mang tính tùy nghi, nặng về trách nhiệm
hình sự đối với cá nhân, nhưng cũng thể hiện được bước tiến bộ trong trình độ
lập pháp trong giai đoạn này, như: ngày 14/12/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký ban hành Sắc lệnh số 282/SL kèm theo Luật về chế độ báo chí, được Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua bởi Luật số 100/SL/L002
ngày 20/05/1957, Điều 13 quy định "Báo chí nào vi phạm Điều 8, sẽ bị trừng
phạt: tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và bị truy tố trước Tòa án sẽ bị
phạt tiền từ mười vạn đồng đến năm mươi vạn đồng, hoặc người có trách
nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến một năm, hoặc cả hai hình phạt đó" hoặc
"Báo chí nào vi phạm Điều 9 hoặc Điều 12 sẽ bị trừng phạt: tùy theo lỗi nặng
nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình chỉ tạm thời, đình chỉ vĩnh viễn,
hoặc bị truy tố trước Tòa án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng đến một
triệu đồng, hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ một đến hai năm, hoặc
cả hai hình phạt đó. Nếu xét thấy đương sự phạm vào những luật lệ khác, Tòa
án sẽ chiếu theo những luật lệ ấy mà trừng phạt thêm.". Điều 14 quy định tiếp:
“Trong mọi trường hợp vi phạm, chủ bút chịu trách nhiệm chính; người quản
lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về phần của mình.
Nếu in những báo chí chưa có giấy phép thì chủ nhà in cũng bị liên đới chịu

trách nhiệm”[27].
Từ năm 1985 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành,
các nhà lập pháp cũng đề cập đến việc cần thiết quy định trách nhiệm hình sự
đối với pháp nhân, nhất là trong quá trình sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự
năm 1985. Tuy nhiên, chế định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân chưa
được cho vào Bộ luật hình sự năm 1985.
Khi Bộ luật hình sự năm 1999 được thông qua, quy định về trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân đã không được quy định vì các nhà lập pháp chưa
24

24


thống nhất với nhau. Và đến lần sửa đổi, bổ sung sau đó, việc trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại cũng được các nhà làm luật đưa vào, tuy
nhiên do còn nhiều quan điểm nên một lần nữa chế định này chưa được quy
định.
Và như vậy cả 2 Bộ luật trên chưa công nhận trách nhiệm hình sự của
pháp nhân và chỉ cụ thể hoá cá nhân phạm tội trong pháp nhân, chưa công nhận
tổ chức phạm tội mà chỉ công nhận phạm tội có tổ chức, việc này gây khó khăn
trong công tác quản lý nhà nước cũng như công tác phòng ngừa tội phạm.
Mà vấn đề dặt ra là nếu không truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự
của pháp nhân sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm. Tình hình tội phạm núp
bóng pháp nhân ngày càng gia tăng, xâm phạm đến quyền, lợi của tổ chức, cá
nhân khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị đất nước.
1.2. Nội dung và đặc điểm về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại
1.2.1. Nội dung về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Về bản chất trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại cũng
chính là sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà pháp nhân đã

thực hiện. Phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và pháp nhân đã thực hiện tội
phạm thông qua việc Nhà nước có quyền tuyên bố hành vi nguy hiểm mà
pháp nhân thực hiện là tội phạm và có quyền áp dụng các biện pháp hình sự
(gồm hình phạt và các biện pháp tư pháp) đối với pháp nhân thương mại đó
nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật.
Đó là hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp nhân phải gánh chịu, được thực hiện bằng
hình phạt, biện pháp tư pháp hình sự và án tích do Tòa án nhân danh Nhà nước
quyết định áp dụng đối với pháp nhân thương mại vì pháp nhân thương mại đó
đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong những trường hợp được quy
định trong Bộ luật hình sự, với nội dung sau:

25

25


×