Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp quan sát trong dạy môn TNXH lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.94 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn sáng kiến
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng vấn đề dạy môn TNXH hiện nay
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương


pháp quan sát trong dạy học TNXH lớp 2
Giải pháp 1: Các kĩ năng hướng dẫn HS quan sát
Giải pháp 2: Tăng cường tính chủ động nhận thức
của HS
Giải pháp 3: Sử dụng phương pháp quan sát phối
hợp với phương pháp dạy học khác
Giải pháp 4: Đổi mới phương tiện đồ dùng dạy học
Giải pháp 5: Đa dạng hóa các hình thức tổ chức
dạy học
2.4. Kết quả cụ thể
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
3.2.Kiến nghị

Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
7
7
13
13
14
15
17

18
18
19

1. MỞ ĐẦU
1


1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học cung cấp cho học sinh
những kiến thức cơ bản ban đầu về các sự việc hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và trong các mối quan hệ của con người, xảy ra xung
quanh các em. Bên cạnh các môn học chính như Toán, Tiếng Việt, môn
Tự nhiên xã hội trang bị cho các em những kiến thức cơ bản của bậc
học góp phần bồi dưỡng nhân cách toàn diện cho trẻ.
Hoà cùng với công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học trên toàn ngành, môn Tự nhiên xã hội cũng có
những bước chuyển mình, từng bước vận dụng thay đổi linh hoạt các
phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá các hoạt động của học sinh,
phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri
thức.
Phương pháp quan sát là phương pháp đặc trưng, thường được sử
dụng khi dạy học môn Tự nhiên xã hội và đặc biệt là đối với học sinh ở
giai đoạn 1. Học sinh quan sát chủ yếu là để nhận biết hình dạng, đặc
điểm bên ngoài của sự vật hiện tượng đang diễn ra trong môi trường tự
nhiên, trong cuộc sống. Khi được sử dụng các giác quan tiếp cận trực
tiếp với sự vật, hiện tượng (sờ mó, ngửi, nếm, mổ xẻ, nhìn, nghe….) để
lĩnh hội tri thức học sinh sẽ thích thú hơn trong học tập.
Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng phương pháp quan sát trong
dạy học Tự nhiên và Xã hội vẫn chưa được thực hiện một cách đúng

mức. Việc dạy học Tự nhiên và Xã hội chỉ diễn ra khô khan, cứng nhắc,
mang tính chất đối phó cho đầy đủ chương trình. Học sinh, phụ huynh
và thậm chí cả giáo viên vẫn cho rằng môn học này là phụ nên không
chuyên tâm để ý, hay bị cắt giảm thời lượng để dành thời gian cho hai
môn học chính: Toán và Tiếng Việt vốn có lượng kiến thức nhiều. Chính
vì thế, khi dạy học giáo viên sử dụng phương pháp quan sát chưa linh
hoạt, thành thạo, còn học sinh thì lúng túng khi quan sát, chưa thực sự
chủ động trong chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy các em chưa hứng thú với
việc học môn Tự nhiên và Xã hội.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của môn Tự nhiên và Xã
hội và từ thực tế giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 trong những
năm học qua tôi đã đúc rút được một số giải pháp khi sử dụng biện
pháp quan sát qua sáng kiến kinh nghiệm:
“ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp
quan sát trong dạy học tự nhiên và xã hội lớp 2 ”
2


1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nâng cao kỹ năng ham hiểu biết cho học sinh.
- Thông qua dạy học Tự nhiên và Xã hội, tạo cho học sinh tính chủ
động, sáng tạo trong giờ học.
- Tạo cho học sinh yêu thích môn học Tự nhiên và Xã hội.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu phương pháp quan sát của HS Tiểu học.
- Phương pháp dạy Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài việc học hỏi đồng nghiệp, tôi còn sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.

- Phương pháp nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu tham khảo.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
Phương pháp quan sát là hình thức dạy học giáo viên hướng dẫn
học sinh cách sử dụng các giác quan để tri giác trực tiếp, có mục đích các
đối tượng trong Tự nhiên xã hội nhằm tiếp nhận thông tin mà không có sự
can thiệp vào quá trình diễn biến của các sự vật, hiện tượng đó. Trong khi
đó ở lứa tuổi Tiểu học, cơ thể các em đang trong thời kỳ phát triển. Học
sinh "DỄ NHỚ - DỄ QUÊN" mức tập trung chú ý của các em còn thấp.
Vì vậy, người giáo viên phải tạo hứng thú học tập cho các em, làm cho
giờ học có những ấn tượng riêng biệt và phải thường xuyên được thực
hành, luyện tập. Tâm lý trẻ các em chưa được ổn định, giàu tình cảm, dễ
xúc động, bản tính tò mò, thích khám phá. Các em thích tiếp xúc với các
sự vật - hiện tượng nào đó nhất là những sự vật - hiện tượng gây cảm xúc
mạnh. Tuy nhiên, các em cũng chóng chán. Do vậy, trong dạy học giáo
viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, tổ chức cho học sinh đi tham
quan thực tế, tăng cường thực hành, … để củng cố, khắc sâu kiến thức.
Phương pháp quan sát cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản đầu tiên về con người và sức khỏe, các sự vật hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội xung quanh cuộc sống các em. Do sự phù hợp giữa nội
dung và phương pháp dạy học trong môn Tự nhiên và Xã hội cũng như sự
phù hợp với tâm sinh lý học sinh Tiểu học là hiếu động, tò mò, thích
3


khám phá mà phương pháp quan sát trở thành một phương pháp chính và
được chú trọng sử dụng trong quá trình dạy học. Phương pháp này trở

thành chiếc cầu nối giữa nhận thức của học sinh với nội dung bài học Tự
nhiên và Xã hội, là khởi đầu của sự hiểu biết và khám phá trí tuệ cho trẻ.
Vì vậy, nếu sử dụng tốt phương pháp quan sát sẽ giúp các em tiếp thu bài
học một cách nhanh nhất, tạo hứng thú học tập và giúp các em có niềm
say mê với môn học, nâng cao hiệu quả dạy học, kích thích tính độc lập
chủ động sáng tạo trong việc lĩnh hội tri thức, tạo không khí sôi nổi trong
giờ học TN-XH.
Vậy sử dụng phương pháp quan sát trong dạy học Tự nhiên Xã hội
tức là chúng ta đã tạo nền móng khởi đầu cho sự phát triển nhận thức tri
giác, chú ý sự tư duy của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề dạy môn TNXH hiện nay:
- Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học tích hợp nhận thức của khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội. Vì vậy phương pháp học phải thể hiện
được các phương pháp đặc trưng của các môn khoa học thực nghiệm.
Song trong thực tế, người giáo viên chưa coi trọng việc đổi mới phương
pháp trong môn học này.
- Là môn học đánh giá hoàn toàn bằng nhận xét không dùng điểm
số, nên một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đúng mức về vai trò, tầm
quan trọng của môn học, xem là môn phụ nên trong giảng dạy chưa nhiệt
tình, chưa tìm tòi, cải tiến để nâng cao chất lượng môn học.
- Đồ dùng dạy học của bộ môn còn hạn chế chưa đáp ứng nhu cầu
dạy và học.
- Một bộ phận giáo viên còn dạy “ chay”, áp đặt kiến thức cho học
sinh nên các em chóng quên, tiết học không thu hút, không kích thích
hoạt động học tập của học sinh dẫn đến hiệu quả thấp.
- Một số đơn vị trường học chưa được trang thiết bị máy chiếu nên
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy còn nhiều hạn chế.
* Nhu cầu về đổi mới phương pháp dạy học :
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén sắc sảo, có óc
tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy nhưng

rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế
nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải,
truyền đạt làm thế nào cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi là điều không
thể xem nhẹ. Đặc biệt đối với học sinh lớp Hai, lớp mà các em vừa mới
vượt qua những mới mẻ ban đầu chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt
4


động học tập là chủ đạo. Như vậy nói về cách học, về yêu cầu học thì trẻ
lớp Một gặp phải một sự thay đổi đột ngột mà đến cuối năm lớp Một và
sang lớp Hai các em mới quen dần với cách học đó. Do vậy giờ học sẽ trở
nên nặng nề, không duy trì được khả năng chú ý của các em nếu các em
chỉ cứ nghe và làm theo.
Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”
hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Kiểu dạy
này người giáo viên là người định hướng, tổ chức ra những tình huống
học tập mà kích thích tính tò mò và tư duy độc lập. Muốn các em học
được thì trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa
chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng
các phương pháp quan sát trực quan, thuyết trình, trò chơi ... hoặc hoạt
động nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra, thí nghiệm ...
nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học.
Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như
làm một việc gì đó nhiều thời gian vì thế giáo viên có thể thay đổi hoạt
động học của các em trong giờ học : cho các em thảo luận, làm bài tập
hoặc thông qua trò chơi. Có như vậy mới gây được hứng thú học tập và
khắc sâu được bài học.
Tuy nhiên không có phương pháp dạy học nào là tối ưu. Vì vậy, giáo viên
cần phải biết phối hợp các phương pháp một cách nhuần nhuyễn, linh

hoạt. Làm được điều đó, giáo viên mới thực sự được đã tổ chức tiết dạy
thành công.
Học sinh lớp Hai vừa bước qua giai đoạn ban đầu của bậc tiểu học: Giai
đoạn tiếp cận với những kiến thức hết sức sơ giản chủ yếu được giáo viên
cung cấp qua trực quan sinh động. Học sinh lớp Hai bắt đầu biết chuyển
từ trực quan sinh động đến những phân tích, so sánh, tổng hợp kiến thức
ở dạng tư duy trừu tượng. Tuy nhiên, học sinh lớp Hai vẫn còn quan sát
sự vật hiện tượng dưới dạng tổng thể, đơn giản. Năng lực suy luận của
các em còn kém, trong khi đó lượng kiến thức truyền đạt thì nhiều và ẩn
dưới dạng tranh vẽ, yêu cầu và phần bài học đóng khung rất khô cứng.
Nếu không khai thác phù hợp thì rất dễ dẫn đến việc học sinh chán học
môn Tự nhiên xã hội. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học Tự nhiên xã
hội, giáo viên cần phải cập nhật, đổi mới phương pháp để giúp học sinh
phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập, giúp học sinh hoạt
động nhiều đi theo đúng các con đường mà các nhà khoa học đã đi tìm ra
5


kiến thức đó. Từ đó, học sinh hứng thú hơn với việc học tập môn Tự
nhiên xã hội.
Năm học 2015 – 2016 tôi được nhà trường giao cho phụ trách lớp
2A. Thời gian đầu năm học tôi đã ra bài khảo sát chất lượng môn Tự
nhiên xã hội, nhằm nắm được chất lượng học tập của các em, tìm ra
những thiếu hụt và điểm yếu về kiến thức cần bổ sung.
Sau khi thực hiện dạy học bài 7 : Ăn uống đầy đủ, tôi tiến hành
thực hiện phiếu điều tra với các nội dung sau:

PHIẾU ĐIỀU TRA
Bài 7: ĂN UỐNG ĐẦY ĐỦ
Hãy trả lời các câu hỏi sau:

1. Nhớ lại nội dung tranh đã quan sát trang 16 , nói về các bữa ăn
của bạn Hoa?
2. Một ngày, Hoa ăn mấy bữa chính? Đó là những bữa nào?
3. Mỗi bữa bạn ăn những gì và ăn mấy bát cơm?
4. Ngoài bữa chính, các bạn có ăn uống gì thêm?
5. Trước và sau bữa ăn chúng ta nên làm gì?
Kết quả thu được:

Lớp
2A

Số HS trả lời
đúng
(5 câu)
SL
%
10
24,4%

Số HS trả lời
đúng
(4 câu)
SL
%
9
22,0%

Số HS trả lời
đúng
(3 câu)

SL
%
10
24,4%

Dưới 3 câu
SL
12

%
29,2%

Qua kết quả điều tra cho thấy. Mặc dù giáo viên cũng đã vận dụng
các phương pháp, trong đó có phương pháp quan sát nhưng kết quả sau
khi học xong HS nắm kiến thức chưa cao. Vậy làm thế nào để GV có thể
khai thác hết nội dung tranh và giúp cho HS nhớ hết những kiến thức GV
cần cung cấp thông qua tranh ảnh? Đó là vấn đề tôi muốn thể hiện trong
đề tài này.
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp
quan sát trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 2:
* Nhìn nhận lại về tầm quan trọng của môn học Tự nhiên và Xã
hội.
6


Tự nhiên và Xã hội là môn học cung cấp, trang bị cho học sinh
những kiến thức ban đầu, cơ bản về tự nhiên và xã hội trong cuộc sống
hàng ngày xảy ra xung quanh các em. Vì thế học sinh đã có vốn sống,
vốn hiểu biết ban đầu về tự nhiên và xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để
học tập tốt môn Tự nhiên và Xã hội nhưng đồng thời nó cũng chính là

điểm gây trễ nải trong việc học tập môn học này vì học sinh, phụ huynh
hay ngay cả giáo viên cũng cho rằng những điều đó biết rồi thì không cần
học. Để có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học Tự nhiên
và Xã hội thì cán bộ quản lí phải cần tổ chức đợt chuyên đề, thường
xuyên nhắc nhở trong các buổi sinh hoạt chuyên môn làm cho giáo viên
nắm được: Những hiểu biết ban đầu của học sinh về cuộc sống và thế giới
xung quanh em chỉ là những hiểu biết tản mạn, chưa mang tính bản chất
mà chỉ mới chỉ nằm ở hình thức, tồn tại ở bên ngoài sự vật hiện tượng.
Việc học tập môn Tự nhiên và Xã hội giúp học sinh tiếp cận với thế giới
xung quanh bằng những phương pháp khoa học, phù hợp với trình độ của
các em.
Khi đã nhận thức được tầm quan trọng của môn Tự nhiên và Xã
hội thì giáo viên cần trau dồi phương pháp dạy học môn học sao cho hiệu
quả nhất. Mà phương pháp đặc trưng của môn học là phương pháp quan
sát. Giáo viên cần sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp này trong dạy học
Tự nhiên và Xã hội. Chính vì vậy tôi đã có một số các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh quan sát.
Phương pháp quan sát là phương pháp sử dụng các giác quan để tri
giác trực tiếp, có mục đích các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên
và trong cuộc sống mà không có sự can thiệp vào quá trình diễn biến của
các sự vật hoặc hiện tượng đó. Mục tiêu quan sát phải đơn giản, phù hợp
với đặc điểm nhận thức và tư duy của học sinh. Trong quá trình quan sát,
giáo viên phải đặt các câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng để hướng học sinh vào
các kiến thức cần tìm kiếm và phát hiện.
Tùy từng nội dung cụ thể mà giáo viên hướng dẫn học sinh quan
sát bằng cách sử dụng một hay nhiều giác quan khác nhau. Cần thận
trọng khi hướng dẫn học sinh sử dụng vị giác, khứu giác hay xúc giác để
đảm bảo an toàn, tránh bị nhiễm độc.
Tùy theo bài học cụ thể mà giáo viên có thể tổ chức cho học sinh
quan sát ở trong lớp hay ngoài lớp theo quy trình sau:

Bước 1: Xác định mục tiêu quan sát

7


Trong một bài học, các kiến thức mà học sinh cần lĩnh hội trong bài
không phải đều rút ra từ quan sát mà giáo viên còn phải sử dụng nhều
phương pháp đan xen. Do đó, giáo viên cần xác định rõ việc tổ chức cho
học sinh quan sát để nhằm đạt được mục tiêu kiến thức hay hình thành kĩ
năng nào của bài học. Học sinh cần nắm được mục đích của quan sát
trước khi tiến hành quan sát.
Bước 2: Lựa chọn đối tượng quan sát
Đối tượng quan sát là các tranh, ảnh, sơ đồ, mẫu vật, mô hình,… là
khung cảnh gia đình, lớp học, cuộc sống ở địa phương, là cây cối, con vật
và một số sự vật hiện tượng diễn ra hàng ngày trong tự nhiên và xã hội.
Khi chọn đối tượng quan sát, giáo viên nên ưu tiên chọn các vật thật.
+ Ví dụ:
- Đối với thực vật: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát cây
trồng trong sân trường, vườn trường, trên đường phố hoặc khu vực xung
quanh trường đặc biệt đối với học sinh ở nông thôn. Khi không có điều
kện để tiếp súc với vật thật thì cho học sinh quan sát tranh, ảnh, mô hình,

- Đối với động vật: Khi học về một số động vật, cơ thể người, giáo
viên nên hướng dẫn học sinh phối hợp quan sát các con vật thật, quan sát
chính cơ thể của các em với quan sát tranh ảnh hoặc sơ đồ. Vì khi quan
sát vật thật, học sinh được hình thành biểu tượng sống động, còn quan sát
tranh ảnh hay sơ đồ rất có lợi cho sự phát triển tư duy của học sinh, vì
chúng thể hiện được sự vật, hiện tượng ở trạng thái tĩnh với sự khái quát
cao.
- Đối với cuộc sống xã hội: Tốt nhất là cho học sinh quan sát cuộc

sống thực xảy ra thường ngày cùng với tranh hoặc ảnh chụp những khung
cảnh đặc trưng với khái quát cao.
Bước 3: Tổ chức và hướng dẫn học sinh quan sát
Tổ chức: Tùy theo nội dung và mục tiêu của bài học, số đồ dùng
dạy học hoặc hiện trường, vật thật mà có thể tổ chức cho học sinh quan
sát cá nhân, theo nhóm hay cả lớp.
Hướng dẫn của giáo viên: Tùy đối tượng để học sinh quan sát, giáo
viên hướng dẫn cho các em sử dụng một hay nhiều giác quan để cảm
nhận và phán đoán sự vật, hiện tượng ( mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi
ngửi,…). Trình tự tiến hành quan sát cũng rất quan trọng, nên hướng dẫn
học sinh quan sát tổng thể rồi mới quan sát bộ phận, chi tiết, quan sát bên
ngoài rồi đến bên trong.
8


Bước 4: Trình bày kết quả quan sát
Tổ chức cho học sinh trình bày kết quả quan sát theo nhóm hoặc cá
nhân. Giáo viên có thể nêu câu hỏi, cùng học sinh trao đổi để khẳng định
và hoàn thiện kết quả quan sát.
* Ưu điểm phương pháp quan sát:
- Học sinh được sử dụng phối hợp nhiều giác quan để tri giác sự
vật, hiện tượng, hình thành được các biểu tượng, khái niệm cụ thể về đối
tượng.
- Tạo hứng thú học tập, phát triển khả năng tập trung, chú ý, óc tò
mò khám phá khoa học.
- Phát triển tư duy và nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh.
* Hạn chế:
Không phải lúc nào cũng tìm được đối tượng quan sát phù hợp với
nội dung học tập.
* Một số lưu ý:

- Đối với môn Tự nhiên xã hội, đối tượng quan sát của học sinh
không chỉ là tranh ảnh, mẫu vật, mô hình mà còn là khung cảnh gia đình,
lớp học, cây cối, con vật và một số sự vật, hiện tượng diễn ra hằng ngày
trong tự nhiên xã hội,…Vì vậy giáo viên có thể tổ chức cho học sinh quan
sát ở lớp hay ngoài lớp ( sân trường, vườn trường, các địa điểm xung
quanh trường ,…) hay có thể đi xa hơn như công viên, các vùng lân cận,

- Giáo viên nên sử dụng đối tượng quan sát như là nguồn tri thức
để tổ chức cho học sinh tiến hành các hoạt động học tập, từng bước phát
hiện ra kiến thức mới.
- Để khắc phục việc học sinh thường chỉ sử dụng thị giác để quan
sát giáo viên cần hướng dẫn các em huy động tối đa tất cả các giác quan
để quan sát (trong trường hợp có thể). Như vậy học sinh mới nhớ bài thật
lâu và có biểu tượng chính xác về các sự vật, hiện tượng.
Để sử dụng phương pháp quan sát có hiệu quả thì giáo viên cần rèn
luyện cho mình các kĩ năng phục vụ cho tổ chức quan sát. Việc phối hợp
thực hiện linh hoạt các kĩ năng hướng dẫn quan sát sẽ đem lại kết quả cao
cho việc học tập môn Tự nhiên và Xã hội. Các kĩ năng hướng dẫn quan
sát bao gồm:
* Kĩ năng xác định tình huống sử dụng.
Giáo viên cần biết khi nào thì sử dụng phương pháp quan sát. Việc
xác định được tình huống sử dụng phươngp háp quan sát làm cho bài dạy
9


hiệu quả hơn. Giáo viên nên sử dụng phương pháp quan sát để khai thác
kiến thức từ các sự vật, hiện tượng và sử dụng vào thời gian đầu của tiết
học để tạo hứng thú làm việc của học sinh
Trong phần khai thác kiến thức mới, giáo viên tổ chức cho học sinh
quan sát để tìm hiểu những đặc điểm của thân, lá, mùi vị, màu sắc…có gì

đặc biệt. Sau khi khai thác kiến thức cần đạt thì giáo viên sử dụng đến
phương pháp hỏi đáp, giảng giải…
* Kĩ năng lựa chọn đối tượng quan sát.
Giáo viên cần xác định được lượng kiến thức cần đạt. Từ đó xác
định được đối tượng để khai thác lượng kiến thức đó. Đối tượng quan sát
có thể là các hiện tượng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày: tranh ảnh, mô
hình…Song nên tối đa lựa chọn vật thật cho học sinh quan sát. Vì quan
sát vật thật giúp cho học sinh tri giác trực tiếp vận dụng được nhiều giác
quan trong quan sát, giúp cho tiết học sinh động hơn. Khi không có điều
kiện tiếp xúc với vật thật thì mới sử dụng mô hình, tranh ảnh.
Ngoài việc phải biết xác định là cần phải quan sát cái gì giáo viên
còn phải biết lựa chọn đồ dùng quan sát sao cho phù hợp:
+ Đồ dùng đưa vào quan sát phải phù hợp với bài học, thể hiện
được nội dung bài học.
+ Đồ dùng đưa vào quan sát phải kích thích đựơc hứng thú học tập,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
+ Đồ dùng quan sát đảm bảo khoa học, sư phạm, kích thước vừa
phải.
+ Đồ dùng đưa ra đúng lúc, đúng chỗ. Nếu như đã khai thác được
kiến thức thì nên cất đồ dùng, nếu để đồ dùng để lâu sẽ làm cho học sinh
quan sát tản mạn các yếu tố không cần thiết và xao nhãng vào các hoạt
động học tập kế tiếp.
* Kĩ năng xác định mục đích quan sát.
Trong một bài học, không phải mọi kiến thức cần cung cấp cho học
sinh đều được rút ra từ quan sát, vì vậy khi đã chuẩn bị được đối tượng
cho học sinh quan sát, giáo viên cần phải xác định cho học sinh quan sát
phải đạt được mục đích nào. Từ đó hướng học sinh quan sát vào bộ phận,
đặc điểm của đối tượng quan sát nhất định chứ không quan sát lan man.
* Kĩ năng tổ chức cho học sinh quan sát.


10


Để tổ chức cho học sinh quan sát thật tốt, thật hiệu quả thì giáo
viên cần có kĩ năng tổ chức và hướng dẫn quan sát khoé léo, nhẹ nhàng,
linh hoạt.
Căn cứ vào lượng đồ dùng có được, giáo viên lựa chọn hình thức tổ
chức dạy học phù hợp: Nếu có nhiều đồ dùng, đảm bảo 1 đồ dùng/ 1 học
sinh thì tổ chức dạy học cá nhân. Nếu đồ dùng có ít thì tổ chức dạy học
theo nhóm. Các nhóm có thể cùng quan sát một đối tượng để giải quyết
chung một nhiệm vụ học tập hoặc mỗi nhóm có thể quan sát nhiều đối
tượng quan sát khác nhau và giải quyết nhiều nhiệm vụ khác nhau.
Khi quan sát, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh được sử
dụng nhiều giác quan để phán đoán, cảm nhận sự vật và hiện tượng ( mắt
nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi ngửi…) từ đó mới gây hứng thú học tập cho
học sinh làm việc với đối tượng để rút ra kiến thức cần chiếm lĩnh.
Giáo viên cần tổ chức cho học sinh bắt đầu quan sát từ toàn thể rồi
mới đi đến bộ phận chi tiết; từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong trước
khi đi đến những nhận xét tổng quát về sự vật, hiện tượng đã biết để tìm
ra những điểm giống nhau hoặc khác nhau.
Nếu tổ chức quan sát theo nhóm học sinh, giáo viên nên cho các
em phát biểu kết quả quan sát trong nhóm hoặc cử một bạn ghi lại những
quan sát của nhóm. Đại diện các nhóm báo cáo kết quả làm việc của từng
nhóm, cả lớp nghe, so sánh, phân tích, xử lí để đi đến kết luận chung
nhằm đạt được mục đích của bài tập quan sát đã đặt ra.
Ví dụ: Khi dạy bài “Mặt trời” giáo viên tổ chức cho học sinh quan
sát mặt trời cá nhân với hệ thống câu hỏi để hướng học sinh quan sát
đúng mục đích cần đạt như sau:
Trước hết là sử dụng các câu hỏi hướng dẫn tổng quát. Những câu
hỏi này nhằm tái hiện lại những hiểu biết sẵn có của học sinh trước khi

khai thác kiến thức của bài:
+ Hằng ngày em nhìn thấy mặt trời vào lúc nào, ở đâu?
+ Khi có mặt trời lên em thấy cảnh vật xung quanh như thế nào?
+ Khi mặt trời lặn mà không có ánh sáng điện thì em thấy cảnh vật
xung quanh như thế nào?
Sau đó giáo viên cho các em quan sát mặt trời từ hình thức đến nội dung
với các câu hỏi chi tiết:
+ Mặt trời có hình gì?
+ Thường mặt trời có màu sắc gì?
+ Ánh sáng mặt trời có tác dụng gì?
11


+ Quần áo phơi ngoài nắng thì sẽ như thế nào?
+ Tại sao lúc nắng to, em không nên nhìn thẳng vào mặt trời?
+ Khi đi ngoài trời nắng, em cần phải làm gì để tránh nắng?
Dựa vào kết quả quan sát vừa thu được và kết hợp với vốn hiểu
biết sẵn có, giáo viên cho học sinh so sánh mặt trời với mặt trăng để khắc
sâu kiến thức vừa chiếm lĩnh được.
Qua ví dụ trên có thể rút ra: Việc giáo viên sử dụng đúng câu hỏi
nhằm hướng dẫn học sinh tập trung chú ý vào đối tượng quan sát và việc
yêu cầu của các em phải huy động các giác quan để tri giác đối tượng đó
rồi rút ra nhận xét và kết luận là rất quan trọng. Vì vậy, để sử dụng
phương pháp quan sát trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng
và toàn bậc Tiểu học hiệu quả thì giáo viên cần thiết phải rèn luyện kĩ
năng đặt câu hỏi
Trong quá trình này học sinh còn rèn luyện các kĩ năng: Nghe và
hiểu những yêu cầu của giáo viên đề ra cho việc quan sát, ghi nhớ. Tái
hiện lại các tri thức thu được để biểu đạt nó thành lời nói lại những gì mà
các em đã quan sát được. Nếu giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát

thường xuyên sẽ hình thành cho các em kĩ năng nghe lệnh, hiểu lệnh khi
học tập một cách nhanh chóng, thuần thục.
* Kĩ năng đặt câu hỏi, soạn thảo phiếu học tập.
Khi giáo viên tiến hành soạn thảo câu hỏi, phiếu học tập cần đảm
bảo:
- Yêu cầu nêu lên trong câu hỏi, trong phiếu học tập phải được diễn
đạt một cách chặt chẽ, rõ ràng, rành mạch, dễ hiểu và chính xác.
- Nội dung câu hỏi, phiếu học tập phải phù hợp với nội dung bài
dạy, phù hợp với trình độ học sinh
- Câu hỏi, phiếu học tập cần phải đa dạng về nội dung và hình thức
thể hiện
- Về mặt nội dung nên sử dụng nhiều các loại câu hỏi trắc nghiệm
để hình thức hỏi phong phú gây hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời
kết hợp một số ít câu hỏi mở để kích thích được suy nghĩ, động não của
học sinh.
- Về hình thức: Các câu hỏi trong phiếu học tập có thể được trình
bày một cách đa dạng bằng lời văn, bằng câu đố hay bằng hình ảnh sẽ gây
được hứng thú học tập của các em.
Giải pháp 2: Tăng cường tính chủ động
12


Để đào tạo những con người lao động có năng lực, thích nghi với
cơ chế thị trường hiện nay, ngay từ tuần học đầu tiên, giáo viên phải biết
dẫn dắt học sinh dựa vào kinh nghiệm cá nhân và vốn hiểu biết của học
sinh giúp học sinh tự quan sát phát hiện kiến thức.
Biện pháp thực hiện:
Giáo viên lựa chọn những bài có vấn đề nhằm củng cố và phát huy
trình độ vốn có của học sinh.
Ví dụ: Dạy bài “ Hệ cơ” – Bài 3- Sách TNXH lớp 2

Giáo viên dẫn dắt học sinh từ cái cụ thể, nhưng kinh nghiệm vốn
có của học sinh: tự co tay, duỗi tay, tự co chân, duỗi chân, tự véo vào
mông, vào bụng…để thấy được cơ bám vào xương và nhờ có cơ mà ta có
thể thực hiện được mọi cử động như chạy, nhảy, đi đứng, viết, xoay
người, cười, nói, ăn, uống…
Giải pháp 3: Sử dụng phương pháp quan sát phối hợp với
phương pháp dạy học khác.
Dựa vào các hệ thống các phương pháp thường có tác dụng phát huy tính
chủ động nhận thức của học sinh:
Các pháp truyền thống là:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp hỏi đáp
- Phương pháp kể chuyện
Các phương pháp bổ sung:
- Phương pháp thảo luận
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp đóng vai…
Việc dạy học đối với mỗi bài học là trách nhiệm của mỗi giáo viên,
vì vậy chính giáo viên là người quyết định cho việc lựa chọn phương
pháp dạy học thích hợp cho từng bài học, sao cho tương tác giữa thầy và
trò trong quá trình lĩnh hội tri thức của trò đạt hiệu quả cao nhất. Kinh
nghiệm cho thấy, trong một bài giảng thành công không bao giờ chỉ dùng
một phương pháp mà phải phối hợp nhiều phương pháp, cả phương pháp
hiện đại và phương pháp truyền thống một cách hợp lý.
Biện pháp thực hiện :
- Nắm chác phương pháp dạy từng nhóm phương pháp.
- Lựa chọn phương pháp thích hợp để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.
- Chuẩn bị nội dung, hình thức dạy học tương ứng.

13



Ví dụ: Quan sát quang cảnh cuộc sống xung quanh – Bài 22: Cuộc
sống xung quanh.
Có thể sử dụng nhiều phương pháp phối hợp như: Quan sát - Thảo
luận.
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ, tổ chức hướng dẫn cho học sinh
quan sát tranh trang 46, 47 SGK.
- Giáo viên nêu mục đích quan sát: Quan sát tranh cho biết tranh vẽ
cảnh ở đâu? Vì sao em biết? Kể tên một số nghề của người dân nơi đây?
Phiếu hướng dẫn học sinh quan sát:
1. Tranh vẽ cảnh ở đâu?
a. Nông thôn
b. Thành phố
c. Nông thôn và thành phố
2. Đường ở đây như thế nào?
3. Nhà cửa ra sao?
4. Người và xe cộ đi lại như thế nào?
5. Kể tên một số nghề của người dân qua tranh vẽ?
Bước 2: Tổ chức cho học sinh quan sát theo nhóm 4. Tất cả các
nhóm có nội dung thảo luận như nhau. Tất cả các thành viên trong nhóm
đều tham gia. Đại diện nhóm báo cáo kết quả.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả quan sát
* Những điểm cần lưu ý khi sử dụng phương pháp này là:
- Thảo luận tránh làm hình thức : chỉ có cá nhân hoặc nhóm trưởng
tham gia.
- Giáo viên phải bao quát được lớp học tránh sự lộn xộn khi thảo
luận.
Tóm lại: Nhờ phối hợp các phương pháp dạy học mà học sinh có
được cơ hội trình bày ý kiến, suy nghĩ của mình và tạo điều kiện phát

triển kĩ năng giao tiếp, tranh luận mà trước đây chỉ dùng phương pháp
truyền thống còn hạn chế.
Giải pháp 4: Đổi mới phương tiện đồ dùng dạy học.
Phương tiện dạy học truyền thống bao gồm tranh ảnh sách giáo
khoa, tranh ảnh sưu tầm, vật thật. Phương tiện hiện đại hiện nay có rất
nhiều phong phú như ứng dụng công nghệ thông tin, máy thu thanh, máy
ghi âm, video, máy chiếu phim…Tuỳ theo nội dung bài dạy, tuỳ theo tình
hình thực tế về trình độ giáo viên, tuỳ theo trang thiết bị hiện có của mỗi
nhà trường, giáo viên lựa chọn thiết bị dạy học phù hợp.
Cùng một bài dạy có thể sử dụng các loại đồ dùng dạy học khác
nhau làm tăng hiệu quả giờ dạy.
14


Biện pháp thực hiện:
- Tích cực hoá chuẩn bị thiết bị dạy học.
- Tự học tập nâng cao trình độ sử dụng kĩ thuật hiện đại.
Lưu ý khi sử dụng phương tiện dạy học:
- Tuỳ theo điều kiện cơ sở vật chất, năng lực của giáo viên để lựa
chọn phương tiện dạy học phù hợp.
- Khi sử dụng xong phải chú ý bảo quản thiết bị dạy học, nhất là
thiết bị hiện đại để tái sử dụng.
- Cần tích cực tham gia vào quá trình tự làm đồ dùng dạy học để bổ
sung đồ dùng dạy học cho năm học.
Giải pháp 5: Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học như:
dạy học cá nhân, học theo nhóm, dạy theo lớp, dạy ngoài thiên
nhiên…
Đây là việc làm hết sức cần thiết trong mỗi tiết dạy nhằm làm cho
học sinh bớt nhàm chán trong mỗi bài, mỗi tiết học. Có thể sử dụng phối
hợp nhiều hình thức dạy học khác nhau trong mỗi giờ dạy nhằm tăng hiệu

quả giờ dạy.
Biện pháp thực hiện:
- Lựa chọn hình thức dạy học cho từng bài phù hợp điều kiện cụ
thể của lớp học, của địa phương…
- Chuẩn bị tốt cho các hoạt động ngoài trời, những phương án khi
có tình huống xấu xảy ra: thời tiết, khách quan mang lại.
Ví dụ: Dạy bài: Một số cây sống trên cạn
Hình thành kĩ năng quan sát, nhận xét, mô tả.
Bước 1: GV giao nhiệm vụ, tổ chức, hướng dẫn HS quan sát.
+ Nhóm 1: Quan sát cây cối ở sân trường.
+ Nhóm 2: Quan sát cây cối ở vườn trường.
- GV giao nhiệm vụ cho các nhóm tìm hiểu tên cây, đặc điểm và
ích lợi của cây được quan sát và phát cho nhóm trưởng phiếu hướng dẫn
quan sát.
Phiếu hướng dẫn quan sát:
1. Tên cây?
2 Đó là loài cây cao, cho bóng mát hay cây hoa, cây cỏ,…?
3. Thân cây và cành lá có gì đặc biệt?
4. Cây đó có hoa hay không?
5. Có thể nhìn thấy phần rễ cây không? Tại sao? Đối với những
cây mọc trên cạn, rễ cây có vai trò gì đặc biệt?
15


6. Vẽ lại cây đã quan sát được.
Bước 2: Làm việc theo nhóm ở ngoài hiện trường.
- Nhóm trưởng dẫn các bạn nhóm mình đến nơi GV phân công.
Dựa vào phiếu hướng dẫn, cả nhóm cùng quan sát và rút ra nhận xét.
Nhóm trưởng có thể cử mỗi bạn tìm hiểu một nội dung. Ví dụ, bạn tìm
hiểu về thân cây, bạn tìm hiểu về tán lá, bạn thì vẽ lại cây nhóm chọn để

quan sát…
- Mọi HS cần chú ý lắng nghe theo hiệu lệnh của GV khi hết thời
gian quan sát thì trở lại lớp.
- GV bao quát tất cả các nhóm.
Bước 3: Làm việc cả lớp:
- Đại diện các nhóm nói tên, mô tả đặc điểm và nói ích lợi của các
cây mọc ở khu vực nhóm mình được phân công và dán hình vẽ lên bảng.
- HS nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- GV khen ngợi các nhóm có khả năng quan sát và nhận xét tốt.
* Một số điểm cần lưu ý khi tổ chức cho HS quan sát ở hiện
trường.
Dạy học ở hiện trường giúp HS quan sát được trực tiếp đối tượng
học tập sinh động mà không có loại đồ dùng dạy học nào của GV có thể
so sánh được về mặt trực quan. Đây là hình thức học tập sinh động, gây
hứng thú cho HS. Qua việc tiếp xúc với thiên nhiên, HS thêm yêu thiên
nhiên, từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống.
Trình tự tiến hành tổ chức cho HS ở hiện trường như sau:
* Công việc chuẩn bị :
- Tìm hiểu trước địa điểm, chọn thời gian và thời tiết thích hợp
trong ngày để việc đi lại và học tập của HS thuận lợi.
- Dự kiến vị trí, cách sắp xếp chỗ đứng, chỗ ngồi của HS để thuận
lợi cho việc quan sát và tìm hiểu đối tượng.
- Cần tính đến phương án dự phòng khi thời tiết không thuận lợi.
- Có qui định về kỉ luật để đảm bảo an toàn trên đường đi và khi
học tập.
* Tiến hành bài học:
- Nêu mục đích của bài học.
- Giao nhiệm vụ học tập cho từng nhóm ( hoặc cá nhân ) tùy theo
mục tiêu và nội dung học tập.
- GV tổ chức, hướng dẫn cho HS quan sát, tìm hiểu đối tượng và

gợi ý cho HS rút ra được kết luận cần thiết.
16


- GV tổ chức cho HS báo cáo và đánh giá kết quả học tập ở hiện
trường. GV tóm tắt những kiến thức mà HS cần ghi nhớ ( nếu cần ).
2.4. Kết quả cụ thể:
Sau khi vận dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế giảng dạy, tôi
nhận thấy học sinh say mê và yêu thích môn học hơn, giờ học không còn
nặng nề. Cuối tháng 2 tôi tiếp tục khảo sát:
PHIẾU ĐIỀU TRA
Bài 25: MỘT SỐ LOẠI CÂY SỐNG TRÊN CẠN
* GV giao nhiệm vụ cho các nhóm tìm hiểu tên cây, đặc điểm và
ích lợi của cây được quan sát và phát cho nhóm trưởng phiếu hướng dẫn
quan sát.
Phiếu hướng dẫn quan sát:
1. Tên cây?
2 Đó là loài cây cao, cho bóng mát hay cây hoa, cây cỏ,…?
3. Thân cây và cành lá có gì đặc biệt?
4. Cây đó có hoa hay không?
5. Có thể nhìn thấy phần rễ cây không? Tại sao? Đối với những
cây mọc trên cạn, rễ cây có vai trò gì đặc biệt?
6. Vẽ lại cây đã quan sát được.
Kết quả thu được:

Lớp
2A

Số HS trả lời
đúng

(6 câu)
SL
%
30
73,1%

Số HS trả lời
đúng
(5 câu)
SL
%
7
17,1%

Số HS trả lời
đúng
(4 câu)
SL
%
4
9,8%

Dưới (4 câu)
SL
0

%

Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy chất lượng học sinh tăng lên và
hứng thú, say mê môn học này hơn. Đây là nguồn động lực để giúp tôi có

thêm nhiệt tình trong công tác giảng dạy “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

17


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trong quá trình vận dụng phương pháp quan sát vào dạy học môn
TN-XH, cần chú ý các vấn đề sau:
1.Yêu cầu về kiến thức:
- GV cần nắm vững kiến thức cần cung cấp. Từ hệ thống kiến thức
đó GV sâu chuỗi lại để có định hướng giảng dạy cung cấp kiến thức cho
HS đúng trọng tâm hơn.
- GV cũng cần có kiến thức tích hợp trong từng bài, từng chủ điểm
để thuận lợi trong việc thiết kế bài học, định hướng các phương pháp dạy
học trong từng chủ điểm của môn học cho phù hợp.
2. Lập kế hoạch bài học:
- GV cần nắm vững nội dung cơ bản của bài học trong SGK và
những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt .
- Tùy theo đặc điểm của từng bài mà xây dựng kế hoạch bài giảng
cho phù hợp.
3. Ngoài phương pháp quan sát, GV cần vận dụng linh hoạt tất cả
các phương pháp bao gồm cả phương pháp truyền thống và phương pháp
đổi mới sao cho phù hợp với nội dung bài và chủ điểm của bài học đó.
Căn cứ vào đối tượng HS mà sử dụng phương pháp dạy học một cách hợp
lí, linh hoạt và đúng mức.
4. Phương pháp quan sát là phương pháp được sử dụng chủ yếu
trong môn học Tự nhiên và Xã hội. Nó không chỉ phù hợp với nội dung
dạy học mà còn phụ thuộc tâm lý và trình độ nhận thức của học sinh.
Vì vậy, giáo viên phải chú trọng sử dụng để nâng cao chất lượng dạy và

học.
5. Tùy theo nội dung, trình độ của học sinh và điều kiện của
nhà trường và địa phương mà giáo viên sử dụng và lựa chọn đối tượng
quan sát phù hợp.
6. Khi lựa chọn đối tượng quan sát, giáo viên cần ưu tiên lựa chọn
các vật thật. Chỉ khi không có vật thật mới cho học sinh quan sát qua
tranh ảnh, mô hình, mẫu vật…
7. Giáo viên luôn trau dồi, bồi dưỡng, rèn luyện cả về kiến thức và
đặc biệt là kỹ năng thực hiện xâu chuỗi các thao tác để phục vụ cho việc
tổ chức quan sát hiệu qủa qua tiết dạy. Giáo viên phải biết yêu thương và
có tinh thần trách nhiệm với học sinh.
18


8.Việc sử dụng thường xuyên phương pháp quan sát trong dạy
Tự nhiên và Xã hội lớp 1 giúp cho giáo viên có kỹ năng thực hiện các
thao tác thành thạo trong dạy học và giúp học sinh hình thành, phát triển
tư duy.
9. Ngoài đồ dùng dạy học có trong chương trình, giáo viên nên tổ
chức làm đồ dùng học tập để kịp thời chuẩn bị cho tiết dạy.
10. Sử dụng thường xuyên phương pháp quan sát trong dạy học
học sinh sẽ liên tục được tri giác đối tượng. Từ đó, học sinh được rèn
luyện kỹ năng quan sát chủ định, có mục đích, có phương pháp, biết lựa
chọn đối tượng quan sát và khám phá bản chất của đối tượng qua quan
sát. Học sinh hình thành thói quen quan sát thế giới, ham thích khám phá
thế giới muôn màu, muôn sắc và từ đó ham thích học tập môn Tự nhiên
và Xã hội.
11. Nhà trường, địa phương, cha mẹ học sinh nên tạo điều kiện cho
các em được đi tham quan thực tế để phục vụ cho môn học và cung cấp
thêm kinh nghiệm, vốn sống cho các em.

12. Không có phương pháp nào là tối ưu. Vì vậy, dù là phương
pháp đặc trưng nhưng giáo viên không nên chỉ dừng lại ở việc dạy học Tự
nhiên và Xã hội bằng phương pháp đó mà phải trau dồi, rèn luyện việc sử
dụng phối hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp dạy học khác nhau để
tránh nhàm chán. Có như thế mới mang lại hiệu quả cao nhất cho dạy học
nói chung và dạy học môn Tự nhiên và Xã hội nói riêng.
3.2. Kiến nghị:
- Ban giám hiệu nên tạo điều kiện để giáo viên được đi tham quan,
học tập các giáo viên dạy tốt, có kinh nghiệm ở trường bạn để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Nhà trường duy trì việc tổ chức chuyên đề để giáoviên được học
tập kinh nghiệm.
- Cấp trên tạo điều kiện để có nhiều đồ dùng học tập trong môn Tự
nhiên và Xã hội hơn.
- Để giúp con em mình tiếp thu được những kiến thức mà thầy cô
đã truyền tải, các bậc phụ huynh cần kết hợp chặt chẽ với nhà trường, tạo
điều kiện cho con em mình được tiếp xúc với nội dung của từng môn học.
Từ đó các em có vốn kiến thức về những điều các em sẽ học, giúp các em
nắm chắc kiến thức hơn. Trong quá trình thực hiện chuyên đề, tôi đã cố
gắng tìm đọc những tài liệu dạy học của bộ môn cũng như học hỏi từ
đồng nghiệp. Tôi đã nỗ lực hết khả năng trong việc tiến hành dạy thực
19


nghiệm gần một năm qua và đã được đóng góp xây dựng của các bạn
đồng nghiệp. Tuy nhiên sáng kiến cũng không tránh khỏi những sai sót.
Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, quí thầy cô
và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi có tính khả thi hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Đỗ Thị Thúy Ngân

20



×