Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5 trường TH nam tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

1. MỞ ĐẦU

01

1.1 Lí do chọn đề tài.

01

1.2. Mục đích nghiên cứu.

01

1.3. Đối tượng nghiên cứu

01

1.4. Phương pháp nghiên cứu

02

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

02

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


02

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

03

2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

05

Giải pháp 1: Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh

05

Giải pháp 2: Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn
học.

06

Giải pháp 3 : Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp,
hoạt động giáo dục, vui chơi

11

Giải pháp 4: Động viên khen thưởng.

13

2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm


14

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

15

3.1. Kết luận

15

3.2. Kiến nghị

15
1. MỞ ĐẦU.

1.1. Lý do chọn đề tài.
Kĩ năng sống là một trong những khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời
đại ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống. Theo tôi, kĩ năng sống đơn
0


giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích ứng với
những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống được hình thành
theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải
nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Có nhiều nhóm kĩ năng sống
như: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản
thân...Dù là kĩ năng nào cũng đều rất quan trọng và cần thiết với mỗi con người.
Cho nên, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có một vai trò hết sức quan trọng.
Từ nhiều năm nay Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương dạy kĩ năng sống là
một trong những tiêu chí đánh giá "Trường học thân thiện - học sinh tích cực".

Trên tinh thần đó, tôi nhận thấy rằng chính ở dưới mái trường các em học được
nhiều điều hay, lẽ` phải, và nhà trường trở thành ngôi nhà thân thiện, để học sinh
học tập tích cực, trở thành người tài xây dựng đất nước,có khả năng hội nhập
cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan
trọng đối với các thầy cô giáo.
Với đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 5 Khu Cốc – Xã Nam Tiến–
Huyện Quan Hóa, nơi điều kiện kinh tế hết sức khó khăn, có tới 71,4% là các
em thuộc diện học sinh nghèo. Các em ít được vui chơi, tiếp xúc và trải nghiệm
với môi trường bên ngoài, các em thường có tâm lý sợ sệt, nhút nhát, không hoạt
bát, linh hoạt, giao tiếp hạn chế và thiếu tự tin trong cuộc sống. Giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn đề thiết
thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường
và phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc
hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình. Xác định tầm quan trọng
đó, với mong muốn giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này,
trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời, tôi đã
chọn nghiên cứu “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5
- Trường tiểu học Nam Tiến” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận, thực trạng giáo dục kỹ năng sống ở trường tiểu học
để đề ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5, nhằm giúp cho
các em say mê, hứng thú trong học tập, mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin trong việc
thể hiện những năng lực của bản thân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1


Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 5, khu Cốc trường
tiểu học Nam Tiến.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

- Đọc các tài liệu về tâm sinh lý lứa tuổi Tiểu học và tài liệu liên quan tới
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Phương pháp khảo sát - quan sát thực tế giáo viên và học sinh.
- Thực hiện phỏng vấn, hỏi đáp, điều tra.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ngày nay vẫn còn một bộ phận học sinh rất ít có hoài bão, ước mơ. Phụ
huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt
động cần thiết, các em không có điều kiện để tham gia các hoạt động xã hội và
vui chơi khác, khiến các em rụt rè, nhút nhát, giao tiếp hạn chế và thiếu tự tin
trong cuộc sống. Vì thế, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Từ đấy dẫn
đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng, Hạn chế
trong các ứng xử trong xã hội ngày càng phát triển như hiện nay.
a. Kỹ năng sống là gì?
Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định
nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ
năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được
sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng
và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của
giáo dục:
- Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra
quyết định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…;
- Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ
năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..;
- Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng,
khẳng định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;

2



- Học để tự khẳng định: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng
thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin khẳng định mình, để thực hiện tốt
quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần
và đạo đức...
Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần
thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự
quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả…
b. Đặc điểm tâm sinh lý trẻ:
- Đặc điểm về thể chất của trẻ: Cơ thể trẻ em là nền tảng vật chất của trí
tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát
triển tốt. “Thân thể khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại
“tinh thần sáng suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế
cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những
người thân trong gia đình những việc làm tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự
làm, tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo,...
Bên cạnh những khó khăn trên cũng có thuận lợi nhất định đó là: tôi nhận
được một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô
giáo. Bên cạnh đó tôi có được sự ủng hộ của phụ huynh trong việc cùng nhà
trường giáo dục các em. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan
tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì
thế tôi luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một
niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng
tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5 bản thân thấy kỹ năng sống của các em
chưa cao, các hành vi ứng xử của các em đôi lúc chưa thật sự văn minh, lịch sự.
Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn e dè thụ động trong học tập và

sinh hoạt chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có phần
còn mang tính “tuỳ tiện”. Có một số tình huống, thử thách rất đơn giản nhưng
với lứa tuổi các em có lúc giải quyết rất tiêu cực. Ví dụ: Bị mất một quyển sách
em Đinh văn Ba đâm ra lo sợ và nói dối với cô giáo. Một số em nam gây gổ với
bạn chỉ vì một va chạm nhỏ (em Hà Văn Hiệu); có em sống tự kỉ không muốn
3


giao tiếp với mọi người (em Ngân Thị Lạc)...; Trong thảo luận nhóm, nhiều em
chưa biết hợp tác, chưa có kĩ năng giải quyết vấn đề, đa số chỉ làm việc cá nhân
trong sinh hoạt nhóm...
Ngoài ra, câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài
những kiến thức phổ thông về toán, khoa học và nhân văn, học sinh cần học điều gì
để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì
thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên lớp một những suy nghĩ, trăn trở.
Khi bắt đầu tìm hiểu về rèn luyện kĩ năng sống hiệu quả cho học sinh
trong lớp tôi gặp phải một số thách thức sau:
Đó là mọi sinh hoạt nề nếp chưa vào một kỉ luật nhất định, các em khá
rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu
các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và không nói lời
cảm ơn, xin lỗi với cô, ban bè.
Một trở ngại nữa là một số phụ huynh trong lớp vì bận nhiều công việc, vì
trình độ dân trí còn thấp nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần
thiết. Nhiều em đến trường rất lúng túng trong giao tiếp vì ở nhà các em không
có người trò chuyện, chia sẻ ...
Từ thực tế trên, tôi nhận thấy việc rèn luyện kĩ năng sống là rất cần thiết
nhằm hình thành nhân cách, kĩ năng sống để giáo dục toàn diện cho các em về
đức, trí, thể, mĩ.
1. Về giáo viên:
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng

sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa chưa
chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động giáo
dục kỹ năng sống nên mất đi khả năng tự học, tự tìm tòi của các em.
Mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức
vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
2. Về học sinh:
- Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít
sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Học sinh chỉ học kiến thức, còn khả năng ứng phó với các tình huống trong
cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau.
4


- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy.
3. Về Phụ huynh:
Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ
năng thực hành xã hội là do phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của
các kỹ năng đó. Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến
thức.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà không
hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách
ứng xử trong gia đình.
Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế,
xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Bảng khảo sát thực trạng đầu năm học:
Mức độ thực hiện
Các hành vi đổi mới của
học sinh quan sát được
Các KN nghe, đọc, nói,

viết, KN quan sát, KN đưa
ra ý kiến chia sẻ trong
nhóm.
KN giữ gìn vệ sinh cá nhân,
vệ sinh chung.
KN kiểm soát tình cảm KN
kìm chế thói hư tật xấu sở
thích cá nhân có hại cho
bản thân và người khác.
KN hoạt động nhóm trong
học tập vui chơi và lao
động.
Các em biết giới thiệu về
bản thân, về gia đình, về
trường lớp học và bạn bè
thầy cô giáo.
Biết chào hỏi lễ phép trong

Rất
tốt

tốt

Trung
bình

Yếu

Kém


0%

3/14
3/14
4/14
4/14
(21,6%) (21,6%) (28,4%) (28,4%)

0%

5/14
3/14
3/14
3/14
(35,8%) (21,4%) (21,4%) (21,6%)

0%

3/14
3/14
4/14
4/14
(21,6%) (21,6%) (28,4%) (28,4%)

0%

3/14
5/14
4/14
2/14

(21,4%) (35,8%) (28,4%) (14,4%)

0%

3/14
3/14
4/14
4/14
(21,4%) (21,6%) (28,4%) (28,4%)

0%

4/14

2/14

4/14

4/14
5


nhà trường, ở nhà và ở nơi
công cộng.

(28,4%) (14,4%) (28,4%) (28,4%)

Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.

0%


Biết phân biệt hành vi đúng
sai, phòng tránh tai nạn.

0%

3/14
3/14
4/14
4/14
(21,6%) (21,6%) (28,4%) (28,4%)
3/14
3/14
4/14
4/14
(21,6%) (21,6%) (28,4%) (28,4%)

Từ những thực trạng trên, ta nhận thấy rằng số học sinh có kỹ năng tốt
còn ít, và tỉ lệ học sinh có kỹ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy việc rèn kỹ
năng sống cho học sinh là vấn đề hết sức cần thiết, muốn làm tốt công tác này
chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những người làm công tác giáo dục, vì nhà
trường là nơi quan trọng để hình thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng là câu
hỏi để thôi thúc bản thân cần phải tìm tòi và nghiên cứu, để tìm ra biện pháp rèn
kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả.
2.3. Các giải pháp sử dụng.
Từ tình hình thực tiễn trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy của các môn học, những giờ
sinh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng
sống, đem lại kết quả cao tôi nhận thấy cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
Giải pháp 1: Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh.

Đầu tiên, sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh
và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu
về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích,
ước mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt động
giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập
thân thiện - Nơi " Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em,
các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều
kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi
học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò
bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của
mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn
hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay lãng mạn...Và tiếp tục qua những
6


tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử
chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu
quả cao tôi tiếp tục:
Giải pháp 2: Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi vận dụng vào các
môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt, Đạo đức; khoa học và một số
nội dung khác như hoạt động ngoài giờ lên lớp....
Trong chương trình lớp 5, ở môn Khoa học, bài: “Môi trường ”. Tôi tổ
chức cho các em thảo luận nhóm:

(Các em tự giác quét dọn vệ sinh trường lớp )
- Môi trường là gì? Thế nào là môi trường tự nhiên?

- Thế nào là môi trường nhân tạo?
- Ô nhiễm môi trường là gì?
- Bảo vệ môi trường là việc của ai?
Qua tiết học nhằm giáo dục cho các em hiểu được môi trường là tất cả
những gì có ở xung quanh chúng ta, hiểu được môi trường tự nhiên gồm các
7


thành phần mặt trời, khí quyển, các sinh vật..., còn môi trường nhân tạo là do
con người tạo ra như làng mạc, thành phố, nhà máy... giáo dục cho các em biết
được việc bảo vệ môi trường là không của riêng bất kì cá nhân hay tổ chức nào?
mà là của tất cả mọi người trong xã hội, nhất là những học sinh như các em phải
biết bảo vệ và giữ gìn môi trường như: Không vứt rác bừa bãi, vệ sinh lớp học,
chăm sóc vườn cây, giáo dục cho các em biết yêu thiên nhiên. Qua tiết học này
học sinh cũng mạnh dạn hơn vì các em được thực hành nói viết, được trình bày
quan điểm, suy nghĩ của mình trước lớp...
- Hay khi dạy Tiếng Việt phân môn Kể chuyện bài “Lớp trưởng lớp tôi ”
tôi tổ chức cho các em trao đổi :
- Câu chuyện này nói về ai?
- Những việc lớp trưởng trong câu chuyện đã làm cho thấy bạn ấy có đức
tính gì quý?
- Bạn lớp trưởng làm những việc đó để làm gì?
- Em cảm thấy như thế nào về bạn lớp trưởng trong câu chuyện? ... qua đó
các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
- Học sinh kể chuyện theo vai. Qua bài học các em được thể hiện tính cách
nhân vật, được biểu lộ cảm xúc, được trau dồi thêm vốn tiếng việt, kỹ năng nói, kỹ
năng giao tiếp, điều đó giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong cuộc sống.

(Học sinh đọc phân vai và học theo nhóm)
Thông qua bài học tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới

phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát
huy mình hơn.

8


Hay thông qua môn Đạo đức tôi cho học sinh thảo luận nhóm, đóng vai
xử lý các tình huống và cho học sinh liên hệ thực tế. Sau đó cho các em nêu
những công việc mà bản thân đã tự làm được. Ngoài ra tôi cũng đưa ra những
liên hệ thực tế gần gũi với các em, để các em dễ hiểu, dễ vận dụng mẫu hành vi
đạo dức vào cuộc sống.

(Học sinh tự bọc sách vở)
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong
trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội
dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.

9


Ở các bài học thể dục hay các hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi giáo dục
cho các em các trò chơi dân gian bổ ích và lành mạnh, không chơi các trò chơi
nguy hiểm ở bất cứ nơi nào...

(Học sinh chơi các trò chơi dân gian)
Nhấn mạnh và giáo dục cho các em khi về nhà không nên tham gia các trò
chơi nguy hiểm như: Leo trèo cây, nghịch điện, đuổi bắt nhau, các trò chơi trên
mạng…
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số
chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức,

thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi
nói năng ... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo
nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp
thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân
thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham
gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và
tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn
đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo
sự gần gũi giữa các em với nhau.
10


Ngoài ra tôi chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai cũng
biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập tốt, đạo
đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học sinh
là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo vệ
được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi
sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục
một lối sống khoa học. Tôi rèn luyện sức khoẻ cho các em qua các tiết:
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và
các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn khi đi xe
đạp, phòng cháy khi ở nhà, hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và
các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí.
Chẳng hạn :
- Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo
hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?
- Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai
nạn xảy ra?- Khi có cháy xảy ra em phải làm như thế nào? Em hãy nêu cách xử
lý khi gặp tình huống đó? Nêu những thiệt hại do cháy gây ra?

- Các em đã nhìn thấy xảy ra cháy bao giờ chưa? Theo các em vì sao lại
xảy ra cháy?...
- Giáo dục cho các em biết cách phòng tránh do cháy gây ra khi ở nhà,
cũng như mở rộng thêm cho các em biết phòng cháy rừng nơi các em đang sinh
sống: như không để những vật dễ cháy gần bếp, không nghich lửa, tắt bếp khi đã
sử dụng xong…
- Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao
ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra
ngoài khi đi trên tàu, xe, ....Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn
đề đơn giản khi gặp phải.
Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá
cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế tôi tiếp tục :
Tôi cho các em được đóng vai xử lí tình huống: Nếu bạn làm việc sai trái
em sẽ chọn ứng xử nào? Các nhóm sẽ thảo luận nhóm sau đó lên thể hiện, những

11


em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình
vừa xử lí.

(HS thực hành trò chơi học tập)
Giải pháp 3 : Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp,
hoạt động giáo dục, vui chơi :
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động các
phong trào: "Nói lời hay làm việc tốt" qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa
về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cám ơn
khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè ... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt
lớp. Tôi học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng
bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với

học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với
những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tôi còn vận dụng thông qua các hoạt
động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp: Nhà trường
tổ chức tuyên truyền, vận động tham gia qua các mô hình: diễn văn nghệ cho
học sinh tham gia; tuyên truyền bằng hình thức trực quan sinh động qua tranh
ảnh, sách báo. Xây dựng những mô hình thiết thực và hữu ích trong kế hoạch
hoạt động ngoài giờ lên lớp của giáo viên để các em tham gia với các mô hình
như: Vì bạn bè quanh ta, mô hình phòng chống tệ nạn xã hội, bạn giúp bạn, ...
Tất cả đều gắn với nội dung phòng chống tệ nạn xã hội trong học sinh. Các mô
12


hình này được tuyên truyền đến từng học sinh giúp các em hiểu rõ về những tác
hại và cách phòng chống. Phải phòng ngừa, ngăn chặn những tệ nạn xã hội trong
học sinh là điều ai cũng nhận thấy được, nhưng vấn đề là ở sự quyết tâm cao, là
các biện pháp thiết thực, cụ thể và hiệu quả từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà
trường và rộng ra hơn nữa là ý thức trách nhiệm của toàn xã hội. Gia đình, nhà
trường, xã hội hãy cùng nhau góp sức để các em vững tin hơn trong cuộc sống.
Ngoài ra những buổi chào cờ, tôi khuyến khích các em xung phong trả lời
những câu hỏi mà cô hay hỏi, cho các em được tham gia giao lưu các chương
trình văn nghệ, thể dục thể thao do trường, gành tổ chức cũng như vào các dịp lễ
tết, Đại hội ... Tổ chức cho các em tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp với
các nội dung theo chủ đề chủ điểm của tháng.

(Học sinh trong giờ chào cờ)
(Tham gia các hoạt động phong trào)
1. Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh,
chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các
hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn

kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế
bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè.
2. Tổ chức hoạt động ngoại khoá chuyên đề “Giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh”, tạo cho học sinh một sân chơi để học sinh được thực hành kỹ năng
sống, được giao lưu, được tư vấn về kỹ năng sống để hiệu quả rèn kỹ năng sống
cho học sinh được nâng lên gắn liền với thực tế cuộc sống.
13


3. Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân
trường, lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ;
học sinh được rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...;
thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
Không những thế, tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm
nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải
mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi,
hay cùng chia sẻ với nhau những cuốn sách hay.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh
trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí
trong mọi trường hợp.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi , giúp
các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng tôi luôn chú ý :
Giải pháp 4: Động viên khen thưởng.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện
cho các em lớp tôi phụ trách. Trao đổi với Ban phân hội phụ huynh cùng phối
hợp và dành một khoảng riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo
cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Tôi theo dõi hằng
ngày các em có biểu hiện tốt tôi ghi vào sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các

em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một quyển vở viết hay 1 cây bút
để phục vụ thiết thực cho công việc học tập của các em.
Mỗi học kỳ tôi tổng kết 1 lần (năm 4 kì) để khen thưởng những em đã đạt
nhiều thành tích trong học tập bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh
diện khi được tặng những phần quà nho nhỏ nhưng ý nghĩa của cô giáo tặng. Vì
thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông
mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và
hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong
giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.

14


( khen thưởng các em đạt thành tích trong học tập)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến giữa học kì II, tôi thấy các em
có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ
năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi
thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những
lời chào, cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành thói quen, được các em vận dụng
hằng ngày; được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng khảo sát thực trạng cuối năm học:

Các hành vi đổi mới
của học sinh quan sát
được

Mức độ thực hiện
Rất tốt


Tốt

Trung
bình

Yếu

Kém

15


Các KN nghe, đọc, nói,
viết, KN quan sát, KN đưa
ra ý kiến chia sẻ trong
nhóm.
KN giữ gìn vệ sinh cá nhân,
vệ sinh chung.
KN kiểm soát tình cảm –
KN kìm chế thói hư tật xấu
sở thích cá nhân có hại cho
bản thân và người khác.
KN hoạt động nhóm trong
học tập vui chơi và lao
động.
Các em biết giới thiệu về
bản thân, về gia đình, về
trường lớp học và bạn bè
thầy cô giáo.
Biết chào hỏi lễ phép trong

nhà trường, ở nhà và ở nơi
công cộng.

1/14
(7,1%)

5/14
6/14
2/14
(35,7%) (42,9%) (14,4%)

0%)

3/14
(21,4%)

5/14
4/14
2/14
(35,7%) (28,4%) (14,4%)

0%

1/14
(7,1%)

6/14
6/14
(42,9%) (42,9%)


1/14
(7,1%)

(0%)

1/14
(7,1%)

3/14
(21,4%)

3/14
(21,4%)

(0%)

3/14
(21,4%)

3/14
4/14
2/14
(21,4%) (28,4%) (14,4%)

(0%)

3/14
(21,4%)

3/14

6/14
2/14
(21,4%) (42,9%) (14,4%)

0%

7/14
(50%)

3/14
3/14
6/14
2/14
0%
(21,4%) (21,4%) (42,9%) (14,4%)
Biết phân biệt hành vi đúng
1/14
5/14
6/14
2/14
0%)
sai, phòng tránh tai nạn.
(7,1%) (35,7%) (42,9%) (14,4%)
Qua bảng số liệu cho thấy học sinh đã có nhiều tiến bộ về kĩ năng sống,
đã có những kĩ năng cơ bản để phục vụ bản thân, các kĩ năng sống cơ bản như:
chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin lỗi; thực hiện tốt các kĩ năng hoạt động nhóm,
kiểm soát tình cảm...Bản thân tôi và phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi
với kết quả này của học sinh.
Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1.Kết luận.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của
xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện
những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn,
16


tích cực, vui vẻ .Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời
gian để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành
trang bước vào đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô
cùng quan trọng. Vì thế theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh,
mỗi thầy cô giáo cần phải:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh.
- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy
các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
-Tập trung vào việc đầu tư sọan giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các
môn học.
- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia
tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
- Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh
hoạt chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để
ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để
cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em
trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi
giáo viên chúng tôi phải cùng có trách nhiệm.
3.2. Kiến nghị.

3.2.1.Về giáo viên:
Là giáo viên, tôi hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì
thế, bản thân tôi luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như
đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn.
Tôi đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được
diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một
cách toàn diện.
3.2.2.Về phía phụ huynh :
Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống
cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn phối kết hợp

17


với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu
hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh luôn được xem là chức năng,
nhiệm vụ thường xuyên của đội ngũ giáo viên từ nhiều năm nay. Tuy nhiên việc
rèn luyện cho các em học sinh vẫn còn thiếu những biện pháp cụ thể. Hưởng
ứng cuộc vận động về chủ đề năm học, qua các buổi tập huấn về việc rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh của phòng giáo dục, của trường bản thân tôi đã cố
gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm
nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà
trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để
các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc
cho các em, gia đình và xã hội.
3.2.3. Về phía nhà trường:
Theo phương châm giáo dục hiện nay là: "Học để biết, học để làm, học để
chung sống, học để tự khẳng định mình" nên về phía Nhà trường ngoài việc lồng
nghép vào các môn học hàng ngày, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong

những con đường giáo dục có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Tổ chức cho các em chơi các trò chơi dân gian, tham gia các hoạt động
dọn vệ sinh môi trường, rèn luyện cho các em tính đoàn kết tập thể , đồng thời
xây dựng tinh thần chia sẻ, trách nhiệm cho các em.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa,ngày 15 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Hoàng Thị Huệ18

18



×