Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm xây dưng nền nếp học tập cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Người ta nói “ Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.”
Đúng như vậy, nhưng để làm tròn bổn phận là đóng góp một phần không nhỏ
công sức của mình cho nghề cao quý này, mỗi giáo viên chúng ta phải tận tuỵ và
miệt mài để làm tốt nhiệm vụ của mình. Dù là giáo viên, hay phụ huynh học
sinh, chúng ta ai cũng mong mỏi ở trẻ những điều hết sức bình dị:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”.
Những cái “biết” đó phải được nằm trong khuôn khổ của gia đình, nhà
trường và xã hội. Chúng ta không ai có thể tự ý đi ra ngoài những nguyên tắc cơ
bản của cuộc sống. Và trẻ em lại càng không thể.Chính vì lí do đó, trong bất kì
giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đặc biệt đến thế hệ trẻ. Với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
“Con trẻ là cái mầm, cái búp của cả dân tộc. Con trẻ có được nuôi dưỡng, giáo
dục hẳn hoi thì dân tộc mới có thể tự cường tự lập”. (Trích “Trẻ em Việt Nam”–
Hồ Chí Minh 1942).
Là một giáo viên khi đọc những dòng thư trên, bản thân tôi càng thấm thía
hơn khi đối tượng học sinh của mình vừa rời lớp một, ý thức tự giác chưa cao,
chưa xác định được cho mình một hướng đi đúng trong học tập và kỉ luật đồng
thời tâm lí bỡ ngỡ khi đến trường. Làm sao cho các em học sinh yêu thích học
tập, hăng hái tham gia các hoạt động của trường, của lớp… để các em cảm thấy
trường học chính là ngôi nhà thứ hai của các em và mỗi ngày đến trường chính
là một ngày vui của các em. Chính vì vậy, muốn cho các em có nề nếp trong học
tập cũng như trong sinh hoạt, biết ngăn nắp, gọn gàng, khoa học trong từng hoạt
động thì người giáo viên phải uốn nắn, rèn cho các em ngay từ khi bước chân
vào ngưỡng cửa nhà trường. Nếu ngay từ lớp một học sinh được rèn nề nếp
trong sinh hoạt và trong học tập một cách nghiêm túc và có hiệu quả thì ở các
lớp sau các em cũng sẽ là những học sinh có nề nếp học tập tập tốt, tạo những


bước đi vững chắc cho các em trong việc học tập ở các lớp trên và tạo tiền đề
cho việc rèn luyện, phấn đấu trở thành người công dân tốt, có ích cho đất nước
sau này.
Trong những năm qua, hầu hết nhà trường thường chú trọng quá nhiều
đến chất lượng- kết quả học tập, mặt khác còn có nhiều nguyên nhân khách quan
khác như: Việc chạy theo thành tích dẫn đến học sinh ngồi nhầm lớp … mà rất ít
chú trọng đến việc giáo dục nề nếp cho học sinh. Công tác xây dựng nề nếp học
tập cho học sinh là một trong những nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của người
giáo viên tiểu học. Thực tế cho thấy, nếu học sinh không có nề nếp thì việc giáo
dục và dạy học trên lớp không bao giờ đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên,việc hình thành cho các em một thói quen tốt hay một nề nếp
tốt ở một số hoạt động gắn liền với việc học tập cho các em là một điều không
1


hề đơn giản đối với giáo viên. Đa phần trong những năm qua giáo viên đến
trường đến lớp thường chú trọng nhiều đến việc dạy miễn sao các em biết đọc,
biết viết đạt mục tiêu,nhiệm vụ năm học được xem như hoàn thành “ sứ mệnh”.
Vẫn còn một vài giáo viên chưa thật sự quan tâm đến việc hình thành nề nếp và
chưa tìm hiểu tâm tư, tình cảm, tính cách, điều kiện sống của các em, từ đó việc
xây dựng nề nếp lớp khó mà thực hiện, nếu lớp không có nề nếp thì việc dạy
kiến thức khó mà thực hiện đạt mục tiêu theo cá thể hoá.
Với những lí do khách quan nêu trên, việc giáo dục và giảng dạy đối với
người giáo viên hết sức quan trọng, để tạo ra một con người toàn diện rong suy
nghĩ và trong hành động. Để có nề nếp tốt cho học sinh ở các lớp đầu cấp của
bậc tiểu học nói chung mà đặc biệt là học sinh lớp 2 chúng ta phải làm như thế
nào cho có hiệu quả, giúp các em có ý thức học tập và có nề nếp và khoa học.
Nếu lớp học không có nề nếp, cho dù người giáo viên có tài giỏi đến đâu thì
cũng không thể giáo dục và truyền đạt cho các em những kiến thức để giúp các
em trở thành những học sinh chăm ngoan và đặc biệt là không thể đáp ứng được

mục tiêu giáo duc đó là “ Phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức- trí tuệ- thể
chất- thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân, chuẩn bị cho học sinh vững bước tiếp tục học ở trung học cơ sở.”
Bản thân tôi khi trở thành giáo viên tiểu học, tôi luôn lấy quan điểm “Rèn ý
thức – Dạy kiến thức”. Do vậy, khi nhận lớp, tôi luôn vạch ra cho mình những
định hướng cụ thể để giúp các em học sinh dần đi vào ổn định nề nếp trong tuần
đầu tiên của năm học. Với 14 năm đứng lớp chủ nhiệm tôi luôn có gắng tìm ra
những biện pháp để giúp học sinh thực hiện tốt các nề nếp, quy định của nhà
trường, của lớp học. Xuất phát từ những điều trên tôi đã chọn đề tài: “Biện
pháp làm tốt công tác chủ nhiệm xây dựng nề nếp học tập cho học sinh lớp 2”
khu Buốn, trường tiểu học Tén Tằn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp các em học sinh :
- Học sinh không nói tục, chửi bậy, biết lễ phép với người lớn, biết vâng
lời ông bà, cha mẹ, thầy cô, …
- Tích cực trong các hoạt động của trường, lớp, của liên đội …
- Nâng cao tinh thần tự quản trong lớp, sôi nổi trong học tập, trong hoạt
động vui chơi …
- Giúp học sinh mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin về bản thân.
- Học sinh trung thực, đoàn kết.
- Hình thành một số kĩ năng sống cho học sinh.
- Chăm học chăm làm, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, lao
động, thể dục thể thao, văn nghệ …
- Tự giác học tập ở trường cũng như ở nhà.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 2, khu Buốn Trường tiểu học Tén Tằn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2



- Phương pháp quan sát nhận xét.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá, nhận xét.
- Phương pháp trò chuyện.
- Tuyên dương, khen thưởng.
- Điều tra, tổng hợp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Là người giáo viên dạy Tiểu học, hầu như chịu hoàn toàn trách nhiệm về
lớp mình phụ trách, trực tiếp giảng dạy các môn học, đồng thời tổ chức, hướng
dẫn tất cả các hoạt động giáo dục. Trong những giờ tới trường giáo viên chủ
nhiệm lúc nào cũng ở cạnh các em, là người “mẹ thứ hai” của các em, luôn gần
gũi, dõi theo mọi hành động, hành vi của từng em trong lớp. Học sinh tiểu học
còn chưa biết hành động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động,
làm sao cho từng em học sinh có được công việc thích hợp và bộc lộ được khả
năng của mình. Mở rộng và khơi sâu trí thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục ý thức
tự giác và ứng xử, thỏa mãn nhu cầu, kích thích sự hứng thú, phát triển năng lực
của học sinh. Trong mắt các em, giáo viên chủ nhiệm là “Thần tượng”, là người
mà các em tin tưởng tuyệt đối nhất, cô giáo nói gì các em cũng nghe, vâng lời cô
giáo là cái duy nhất có ở tất cả các em học sinh. Chính vì thế mà người giáo viên
chủ nhiệm phải chú trọng từng lời nói, hành động, việc làm chuẩn mực nhất
trước học sinh, là tấm gương sáng để các em noi theo. Qua công tác chủ nhiệm,
người giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn
diện cho các em, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản
thân, để các em trưởng thành, lớn lên, vững vàng bước vào đời.
Trong trường học ngoài việc đặt nền tảng và đặt cơ sở ban đầu cho việc
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của học sinh thì việc xây dựng một
số nề nếp tự quản trong lớp cũng là một trong những biện pháp quan trọng góp
phần xây dựng và phát triển học sinh toàn diện sau này. Bậc tiểu học là bậc học
đầu tiên, là nền tảng của bậc học phổ thông, chính vì vậy chúng ta cần coi trọng

việc xây dựng nề nếp cho học sinh để lớn lên các em sẽ hoàn thiện mình hơn và
trở thành một con người có ích cho xã hội. Để thực hiện được vấn đề này không
phải dễ mà cần có một quá trình và dựa vào mỗi giáo viên chúng ta.
Vì vậy người giáo viên cần phải biết sáng tạo, năng động, kết hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp, biện pháp giáo dục để các em sớm đi vào nề nếp tốt
và nâng dần tầng nhận thức cho các em học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường Tiểu học Tén Tằn nằm trên địa bàn xã Tén Tằn một xã vùng 135
có 99% là học sinh dân tộc thiểu số.
-Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2, đầu năm nhận lớp tôi thấy tình
hình chung của lớp như sau:
- Trong lớp học Hội đồng tự quản chưa tự quản lớp tốt, còn ồn dẫn tới
chất lượng học tập chưa cao.
3


- Chưa tự giác trong học tập, còn nói chuyện riêng nhiều, hay quên sách
vở, bỏ bài không làm bài tập…
- Một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn hộ nghèo, cận nghèo dẫn đến
thiếu dụng cụ, đồ dùng học tập, quần áo rách, bẩn...
- Học sinh trong lớp còn hay chửi bậy, nói tục, đánh nhau, nói tiếng dân
tộc địa phương trong lớp, trong trường.
- Các em còn rụt rè, chưa mạnh dạn trong giao tiếp đặc biệt là giao tiếp
với người lạ.
- Hay tự ái vặt, xấu hổ trước mọi người.
- Tinh thần đoàn kết, giúp bạn bè và giúp đỡ các bạn có hoàn cảnh khó
khăn chưa có.
- Mặt khác trí tuệ các em không đồng đều, khả năng nhận thức (tiếp thu)
cũng không đồng đều. Có một số em không chú ý, không có thái độ tích cực
học, mà đến lớp như một thói quen, với thái độ lơ đễnh. Khi cô giáo giảng xong,

hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những em đó thường hay tự ti, mặc cảm, sợ
sệt, nhút nhát, chưa biết thể hiện mình.
- Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ
ràng, hay có kiểu nói rất nhỏ, nói lắp bắp, không thể nghe được.
Tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về quá trình tiếp thu bài, học bài và những
hành vi ứng xử, giao tiếp, kĩ năng sống, sự hiểu biết,…trong lớp học có 13 em
học sinh. Vào đầu năm, qua tìm hiểu, trao đổi, kiểm tra về tình hình chung của
tất cả các em học sinh trong lớp, tôi nhận thấy: Lớp có một số em chưa tự giác
học tập, trong giờ học còn lơ là, ít chú ý, tiếp thu chậm, tự ti, mặc cảm, trầm
tính, không năng động,…; Một số em còn mang tính là quậy phá, hay chọc bạn,
đánh bạn; Một số em chưa thực sự ngoan, nói năng còn trống không, chưa lễ
phép; Rất nhiều em viết chữ còn sai lỗi nhiều, chưa đẹp; Trang phục chưa mua
sắm đầy đủ;… Đó là thực trạng mà bản thân tôi luôn lo lắng, băn khoăn khi làm
công tác chủ nhiệm lớp 2 trong năm học này. Do thực hiện áp dụng đề tài, nên
sau hai tuần đầu năm học, qua trao đổi, tìm hiểu, tôi hướng tới một vài số liệu có
nội dung chủ yếu sau:
Tổng số HS
Nội dung tìm hiểu
SLHS Tỉ lệ
1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
8
61,5
2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp.
7
53,8
3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm.
8
61,5
4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép.
10 76,9

5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn. 5
38,5
13
6) Học sinh cá biệt.
2
15,3
7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ.
4
30,8
8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè.
6
46,1
9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế.
8
61,5
10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,…
6
46,1

4


- Hạn chế: Trong quá trình dạy học trên lớp, hằng ngày cô trực tiếp tổ chức và
hướng dẫn các em về mọi mặt tôi thấy một số em khả năng giao tiếp kém, tiếp
thu bài còn chậm, có thái độ thờ ơ. Các em chưa tự tin, mạnh dạn trong trình bày
ý kiến của mình. Ngược lại trốn tránh, mặc cảm, nhút nhát, sợ sệt. Cha mẹ các
em hay đi làm trên nương rẫy, nên có việc gì muốn gặp để trao đổi, liên lạc sẽ
không được kịp thời. Một số hạn chế trên, tôi cảm thấy việc áp dụng đề tài cũng
gặp ít, nhiều hạn chế.
- Mặt mạnh: Tôi là một giáo viên đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 14 năm,

chủ nhiệm lớp 2 được 5 năm, do đó tôi cũng có nhiều cơ hội trau dồi, học hỏi, để
đúc rút kinh nghiệm, nhiều biện pháp tốt trong công tác chủ nhiệm của mình.
Ngay từ đầu năm tôi đã nhận thấy đa số các em học sinh của lớp ngoan,
vâng lời luôn có sự phấn đấu. Khi các em phạm lỗi sai là biết nhận lỗi và sửa lỗi
ngay. Các em biết lắng nghe, chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong lớp và
trong trường. Các em ham học, muốn tiến bộ, muốn cô chỉ bảo, làm mẫu. Rất
thích thú khi làm được điều đúng, được cô giáo khen.
Bản thân luôn được các em yêu quý, kính trọng, vâng lời. Cô phân công,
giao việc các em đều nghe và chấp hành tốt. Mặt khác được cha mẹ các em tin
tưởng, sẵn sàng hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ với cô để giáo dục con em họ, tạo điều
kiện tốt nhất để giúp đỡ cô trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Mặt yếu: Em Lương Văn Hoàng, Vi Văn Hưng còn ham chơi, không chăm
học, không tích cực, không biết, không hiểu là các em càng không chịu học,
không để ý gì đến những lời giảng giải phân tích của giáo viên.
- Em Vi Thái Ngọc vốn giao tiếp không có, năng lực hạn chế, sức khỏe không
đảm bảo, thể trạng gầy, nhỏ so với các bạn đồng trang lứa:
- Gia đình các em đa số đi làm về, là nghỉ ngơi một lúc rồi đi ngủ, không
còn thời gian bảo ban các em học bài, đọc báo, đọc sách,…để mở rộng tầm hiểu
biết, tầm nhìn.
- Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
Từ thực trạng mà học sinh còn hạn chế về sự tiếp thu bài, ít học bài, ít chú ý
trong giờ học. Kĩ năng sống, hành vi ứng xử, giao tiếp còn hạn chế,… là do các
nguyên nhân, các yếu tố tác động sau:
* Về tâm sinh lí: Vì các em mới từ lớp một chuyển lên lớp hai nên có một số có
sự thay đổi về tâm lý,…Các em mới vừa bước lên lớp 2, những thay đổi về kiến
thức, các hoạt động khác cũng được nâng cao, dẫn đến các em cũng có phần lo
sợ, hoang mang. Mặt khác kiến thức lớp dưới các em học xong rồi quên, không
nắm chắc để áp dụng, có nhiều em không còn nhớ một nội dung gì ở dưới lớp 1
mà mình đã học. Một số em hiếu động, hay bắt nạt bạn, chọc bạn, ít chịu ngồi
im. Ở lứa tuổi các em đa số là ham chơi, ít chú ý, thói quen là để cô cùng các

bạn giải quyết vấn đề xong, rồi có sẵn để ghi vào. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ
của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Việc thực hiện đi vào nề nếp
các em vẫn chưa coi trọng, cứ làm những gì mình thích, không quan tâm gì đến
nội quy của trường, lớp.
5


- Về hoàn cảnh gia đình của học sinh: Hầu hết học sinh của lớp tôi chủ nhiệm
sống trong môi trường là vùng nông thôn, nên suy nghĩ và nhận thức của các em
còn hạn hẹp. Điều kiện học ở nhà của các em còn thiếu thốn: Thiếu sự hướng
dẫn bảo ban của cha mẹ, vì phần lớn cha mẹ các em trình độ còn thấp, chỉ biết
việc trên nương rẫy, ít có thời gian giáo dục, dạy dỗ con cái hay đôn đốc việc
học hành của con; Thiếu thốn về vật chất, góc học tập chưa phù hợp hoặc có em
không có. Có em, mẹ bị mất, sống với bố, nên bị thiệt thòi rất nhiều về tình cảm,
tinh thần và sự chăm sóc. Cha mẹ các em chưa chú trọng đến việc rèn cho con
mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép, cho lịch sự. Con cái giao tiếp với
ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần
thành thói quen.
* Về phía giáo viên: Về phía giáo viên thì chưa nắm bắt được tâm lý của
học sinh, khi hỏi các em điều gì là yêu cầu các em trả lời được, mà các em
không có khả năng hình dung, suy nghĩ như mình mong muốn, cứ đặt ra những
câu hỏi khuôn mẫu, áp đặt học sinh yêu cầu học sinh phải trả lời theo ý của
mình. Phương pháp truyền thụ chưa phù hợp. Đôi khi các em trả lời chưa đúng
thì bỏ qua, gọi em khác trả lời là xong, chưa thực sự quan tâm đến việc tại sao
các em trả lời chưa đúng ? Chưa đặt những câu hỏi để phát huy tính tự giác tích
cực của học sinh. Đôi khi giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân mật với các em,
nên các em phần thì sợ, phần thì chây lì.
Để nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong trường học, giờ học thì
một trong những việc làm cần thiết của giáo viên chủ nhiệm lớp là tạo những
thói quen, xây dựng tốt nề nếp lớp học. Bởi lớp có nề nếp tốt sẽ giúp học sinh có

tính tự lập, nghiêm túc, tích cực trong học tập và lao động, phát huy tính tự giác
học tập của các em, nâng cao vai trò của hội đồng tự quản lớp học. Mặt khác, nề
nếp lớp tốt sẽ làm tăng chất lượng dạy và học, đồng thời rèn luyện cho học sinh
đạo đức, tác phong tốt góp phần hình thành nhân cách con người .
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương
pháp giáo dục phù hợp.
a) Nắm đặc điểm đối tưởng học sinh: Đầu năm học khi đã được phân
công nhiệm vụ tôi đã tiến hành khảo sát đối tượng học sinh trong những tuần
đầu huy động học sinh đến lớp thông qua:
- Từ hồ sơ học bạ: Nhằm nắm thông tin học sinh một cách chính xác và
tiện cho việc theo dõi liên hệ phụ huynh.
- Qua giáo viên chủ nhiệm cũ: nhằm nắm được đối tượng học sinh và ban
đầu hỗ trợ cho việc tiếp cận, giúp đỡ học sinh theo từng đặc điểm riêng biệt của
từng em.
- Qua học sinh trong lớp: nhằm phát hiện những ưu điểm hạn chế của các
em nhằm tạo điều kiện và làm cơ sở xây dựng cho các em cùng giúp đỡ nhau
trong học tập cũng như trong sinh hoạt.

6


- Qua phụ huynh: Nhằm nắm được hoàn cảnh, cá tính và khả năng đặc
biệt hay những hạn chế của học sinh để có biện pháp bồi dưỡng, giúp đỡ thiết
thực.
b) Tiến hành phân loại đối tượng : Qua việc nắm được đối tượng, đặc
điểm học sinh tôi tiến hành phân loại đối tượng học sinh để đưa vào sổ kế hoạch
công tác chủ nhiệm, cụ thể:
- Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.
- Học sinh các biệt về đạo đức.

- Học sinh chưa hoàn thành.
- Học sinh có những năng lực đặc biệt.
* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: Tổng số học
sinh trong lớp 13 em, trong đó có 2 em đặc biệt khó khăn như em: Vi văn Hưng,
Lương Văn Hoàng, để giúp đỡ các em đặc biệt khó khăn có đủ điều kiện học tập
tôi đã hỗ trợ sách vở cho các em từ đầu năm học.
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố
và mẹ, gia đình thiếu quan tâm...Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia
đình chưa giáo dục được…
- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh
nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú
ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao
cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng
bước điều chỉnh mình. Tạo mối quan hệ bạn bè cho các em dần dần khắn khích
với nhau vì đối với các em học sinh cá biệt về đạo đức ít khi hòa đồng với bạn
bè xung quanh, tạo cho đối tượng học sinh này có cơ hội giúp bạn một việc dù
nhỏ từ đó các em sẽ được bạn bè quý mến hơn và ngược lại đối với cả lớp cũng
phải có thái độ ân cần giúp đỡ bạn bằng lời động viên, cổ vũ để giúp bạn dần
hoàn thiện mình.
Đối với học sinh chưa hoàn thành:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học chậm, hạn chế tiếp thu những
môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm
nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian
ngoài giờ lên lớp.
- Tôi lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời
gian ngoài giờ lên lớp, 15 phút đầu giờ, những ngày có 4 tiết học tôi dành cả tiết

thứ 5 để kèm các em.
+ Những đối tượng học sinh bị hỏng kiến thức tôi thống kê theo môn, nội
dung bị hỏng và tập trung các em lại thành nhóm yếu theo mảng kiến thức. Sau
đó bản thân tôi cùng học với các em những lúc ra chơi hàng ngày có thể dùng
hình thức trò chơi, thi đố vui, thi tìm nhanh… như thế vừa giúp các em được
7


giải trí mà còn tiếp thu được kiến thức bị hỏng (việc làm này đòi hỏi mỗi giáo
viên phải hết sức nhiệt tình, linh hoạt trong cách tổ chức cho từng nhóm yếu
khác nhau được luân phiên giúp đỡ). Sau lúc cùng học giáo viên có yêu cầu nhỏ
cho từng nhóm yếu nghiên cứu và xem nội dung cụ thể nào đó và lần sau báo lại
cho cô và các bạn cùng nghe. Như thế các em sẽ thực hiện nhiệt tình hơn và điều
không thể thiếu trong lúc này là lời khen cho những em thực hiện tốt lời dặn,
như vậy lần sau các em sẽ tiếp tục thực hiện tốt hơn. Làm như vậy dần dần lắp
được những chỗ hổng kiến thức của các em một cách nhẹ nhàng.
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được
nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm ở nhà để học sinh khá giỏi giúp đỡ
học sinh yếu kém tiến bộ theo nhóm nhà gần nhau. Tổ chức cho các em thi đua
đôi bạn cùng tiến bộ ở lớp, hướng dẫn các em cách học cách giúp đỡ bạn.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự
tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu
hổ trước bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng
phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ
huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
Giải pháp 2: Xây dựng nề nếp tự quản.
- Đề cử và gợi ý để học sinh bầu cử ra chủ tịch và các phó chủ tịch hội

đồng tự quản là những em nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn, có uy tín có tinh
thần trách nhiệm cao, đoàn kết và có năng lực học tập… để giúp giáo viên điều
hành, phân công nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao trong lớp học.
- Giờ sinh hoạt đầu tiên trong 2 tuần sinh hoạt ngoại khoá giáo viên chủ
nhiệm hướng dẫn học sinh cách điều khiển, các bước trong 1 tiết, sinh hoạt lớp
nhận xét một số nề nếp (học tập, vệ sinh, …) lớp trong tuần qua.
- Các trưởng ban nhận xét hoạt động của ban mình phụ trách, Chủ tịch
hội đồng điều khiển sau đó giáo viên nêu kế hoạch của tuần đến các em sẽ thảo
luận nêu nhiệm vụ cần làm trong tuần .
- Sau mỗi buổi sinh hoạt tổ chức các trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho
các em để các em thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui từ đó hạn chế
được tình trạng học sinh bỏ học, nguy cơ bỏ học.
- Cùng các em tổ chức trang trí lớp học thân thiện, mỗi em đề trang trí từ
đó các em có ý thức gìn giữ sản phẩm mình tạo ra.

8


(Trang trí lớp học)
Giải pháp 3: Xây dựng nề nếp học tập
Để được giờ học có kết quả tốt thì lớp học phải có nề nếp tốt. Ngay tuần
sinh hoạt ngoại khóa đầu tiên của năm học tôi đã dành thời gian cho học sinh
học nội quy của trường và 10 bước học tập của lớp. Rèn thói quen xin phép ra,
vào lớp, ... Quy định một số thói quen:
- Đến lớp phải chú ý học, tập trung nghe giảng, tích cực xây dựng bài, tuân
thủ theo mọi yêu cầu của cô.
- Biết giữ gìn và sử dụng tốt các đồ dùng học tập như: sách giáo khoa, viết,
thước, com-pa…theo đặc trưng của bộ môn.
- Tập vở phải có bao bìa, dán nhãn, biết trình bày vở sạch, đẹp.
- Bài kiểm tra phải được cất giữ cẩn thận trong túi đựng bài kiểm tra.

- Học bài và làm bài theo yêu cầu của giáo viên.
- Giơ tay phát biểu.
- Cách ngồi học ngay ngắn, giữ vở sạch chữ đẹp.
- Trong giờ học không nói chuyện và làm việc riêng.
- Im lặng khi giáo viên kiểm tra vở.
Tôi đã phân loại học sinh ngay từ đầu năm học qua bài khảo sát đầu năm để
hiểu rõ xem các em chưa hoàn thành về mặt nào, môn nào từ đó có biện pháp
bồi dưỡng kịp thời, hợp lý. Muốn lớp mình có nề nếp tốt tôi đã xây dựng kế
hoạch chung cho cả năm học, kế hoạch cụ thể cho từng tháng, từng tuần và cho
mỗi kỳ học.
Đối với học sinh chưa hoàn thành, chậm trong học tập thì tôi xếp các em
ngồi lên bàn đầu để các em dễ tiếp thu kiến thức trong mỗi bài học, cũng để cho
giáo viên tiện giúp đỡ và theo dõi sự tiến bộ của các em.

(HS hoàn thành tốt kèm những HS chưa hoàn thành trong giờ ra chơi )
Phân công rõ nhiệm vụ cho từng em và cho các em tự đăng ký thi đua. Xây
dựng nề nếp đội ngũ tự quản cốt cán của lớp. Kết hợp với đội sao đỏ của liên
đội, các em sẽ tự kiểm tra về: Nghi thức đội, mặc đồng phục, việc chuẩn bị học
bài và làm bài ở nhà .

9


Ví dụ: Các trưởng ban theo dõi các thành viên trong Ban và báo cáo cho
Phó chủ tịch hội đồng tự quản, Phó chủ tịch hội đồng tự quản báo cáo chủ tịch
hội đồng tự quản.
Nêu cao tinh thần tự giác và tăng hứng thú học tập cho học sinh bằng hình
thức thi đua, khen thưởng.
Tôi luôn tạo ra tình huống để mỗi học sinh được thể hiện mình trước tập
thể lớp. Từ đó khen ngợi kịp thời với từng tiến bộ nhỏ của các em. Chủ tịch hội

đồng tự quản theo dõi chung trong lớp.
Động viên đúng mực kịp thời để các em phấn khởi tự giác trong học tập
cũng như mọi hoạt động khác .
Ngoài khâu tổ chức lớp, tôi còn vận dụng nhiều phương pháp giáo dục
ngoài giờ lên lớp để nâng cao chất lượng giáo dục có nề nếp như “Nói lời hay,
làm việc tốt”; “Nhặt được của rơi trả lại người đánh mất”; “ Đền ơn đáp nghĩa”;
“ Lá lành đùm lá rách”…
Giáo viên nhắc nhở và tạo thói quen tự giác học tập, giữ gìn sách vở ở
trường cũng như ở nhà.
Phân công ban học tập tự lấy và cất đồ dùng học tập trong giờ học, kiểm tra
bài làm ở nhà, vở bài tập lúc đầu giờ học
Khuyến khích học sinh hăng say phát biểu, tích cực trong học tập.
Tuyên dương, khen thưởng những em có tiến bộ trong tuần, trong tháng.
Giải pháp 4: Xây dựng nề nếp vệ sinh
a. Vệ sinh cá nhân
+ Rửa mặt sạch sẽ trước khi đến lớp.
+ Tay chân luôn sạch sẽ, móng tay cắt ngắn.
+ Tóc cắt cao, không chải tóc năm năm (đối với học sinh nam). Nữ buộc
tóc gọn gàng, không để tóc lõa xõa khi viết bài,…đầu tóc luôn gội sạch sẽ.
+ Quần áo sạch, gọn gàng.
- Vệ sinh văn minh, sinh hoạt để học sinh có thói quen:
+ Che miệng mũi khi ngáp, khi hắt hơi.
+ Không khạc, nhổ bừa bãi.
+ Không xả rác trong lớp học, ngoài sân trường, cổng trường, không bỏ
rác qua cửa sổ, phải bỏ rác đúng qui định.
b. Vệ sinh trường lớp
Cùng một lúc thẹc hiện bốn chức năng: Vừa làm thầy dạy các em những
điều hay lẽ phải, nhưng cũng phải là người cha nghiêm khắc là một người mẹ
chu đáo, đồng thời là một người bạn biết chia sẽ, lắng nghe những tâm sự của
các em, khi các em mắc lỗi hay những khó khăn vướng mắc mà các em không tự

giải quyết được.
Giáo viên phải “ luôn luôn phải ” là người làm gương, là tấm gương sáng
cho các em học sinh. Người thầy tốt sẽ đào tạo sản sinh ra những học trò tốt.
Ví dụ: Lời giáo viên dạy trên lớp phải biết giữ vệ sinh tốt sân trường,
phòng học, bỏ rác đúng nơi quy định, ăn mặt gọn gàng...nhưng những việc giáo
viên làm thì không đúng như lời giảng trên lớp. Từ đó sẽ làm giảm lòng tin ở các
10


em và cũng đừng mong vì các em thực hiện tốt các nề nếp mà giáo viên đã gầy
dựng cho chúng.
- Giáo viên gương mẫu thực hiện để học sinh noi theo trong mọi hoạt động
dù là hoạt động nhỏ.
Ví dụ : Giáo viên nhặt giấy vụn hay túi ni lon trên sân trường, lau vết bẩn
trên tường trong lớp học …
- Cùng với học sinh lau dọn phòng học 1 tuần 2 lần, quét dọn vệ sinh xung
quanh lớp học và trên sân trường, lau các vết bẩn trên tường từ đó hình thành ý
thức bảo vệ, giữ vệ sinh chung của học sinh.

(Học sinh tham gia dọn vệ sinh trường lớp)
Giải pháp 5: Xây dựng nề nếp giờ ra chơi.
- Hướng dẫn và nhắc nhở các em tập thể dục nghiêm túc trong giờ ra chơi.
- Chơi những trò chơi lành mạnh không chạy rượt; không xô đẩy, đánh
nhau; không nói tục; không chơi những trò chơi nguy hiểm.
- Không mang quà vào lớp ăn, không được xả rác ở hộc bàn, lớp học, cửa
sổ, sân, cổng trường…
- Không leo trèo cửa sổ, bàn ghế, cây cối…bảo vệ tài sản của chung và
của riêng.
- Thường xuyên nhắc các em vui chơi an toàn tránh tai nạn thương tích.
Tạo điện kiện để các em được đọc sách, báo ở thư viện trong giờ ra chơi để các

em tìm hiểu thêm kiến thức đồng thời hạn chế một số tai nạn trong giờ ra chơi
và giữ gìn vệ sinh cá nhân cho các em.

11


(Học sinh đọc báo, truyện giờ ra chơi)
Giải pháp 6: Xây dựng nề nếp ra, vào lớp.
- Ngay từ đầu năm, trong 2 tuần sinh hoạt tập thể hướng dẫn, nhắc nhở
các em xếp hàng ra vào lớp.
- Cùng với giáo viên bộ môn thể dục nhắc nhở các em đi vào lớp theo
hàng sau mỗi tiết học thể dục không để các em chạy vào lung tung gây ồn ào,
mất tập trung cho các lớp học khác.
- Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng ra, vào lớp. Phân công đội cờ đỏ
kiểm tra trang phục, khăn quàng, vệ sinh ...
- Không đi học quá sớm, không được bám vào cửa sổ hoặc đứng trước
cửa lớp khi lớp khác đang học.
- Không được bấm điện tử, bi da, mua đồ chơi bạo lực (súng, dao,
pháo…).
- Khi nghe hiệu lệnh trống phải tập trung nhanh vào lớp, ổn định chỗ ngồi.
- Khi ra về phải trật tự, đi thẳng ra cổng trường không được đứng trước
cửa lớp khác khi lớp khác còn học, đi thẳng một mạch về tới nhà, không la cà.
- Trên đường về không được đùa giỡn, chạy hàng hai, hàng ba.
Giải pháp 7: Xây dựng nề nếp lễ phép
Từ đầu năm nhận tôi thấy học sinh nhận quà hay vật gì từ người lớn, thầy
cô ... đều bằng một tay, nói với người lớn trống không.
Để tạo được nề nếp lễ phép ở học sinh thì trước tiên giáo viên phải gương
mẫu lễ phép để học sinh noi theo, thường xuyên nhắc nhở học sinh lễ phép với
người lớn.
- Kịp thời tuyên dương những biểu hiện lễ phép của học sinh để các bạn noi

theo, học tập theo.
- Lễ độ với mọi người:
+ Có thói quen chào hỏi thầy cô và khách khi vào trường.
+ Biết xin lỗi khi làm việc sai.
+ Biết cám ơn khi nhận quà hoặc khi người khác giúp đỡ mình.
+ Biết xưng hô đúng mực với mọi người xung quanh.
+ Không nói tục, chửi thề, đánh nhau.
+ Biết giúp đỡ mọi người, nhất là người già và trẻ em.
- Làm điều tốt:
+ Thẳng thắn, trung thực, thật thà.
+ Nhặt được của rơi biết trao trả lại cho người mất hoặc đưa giáo viên để
thông báo cho người mất biết.
+ Giữ gìn tài sản riêng, tài sản của bạn và của nhà trường.
* Nền nếp cụ thể theo từng thời điểm:
a. Chuẩn bị khi đi học:
- Đã học bài và làm bài ở nhà đầy đủ.
- Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ theo đặc trưng bộ môn.
- Vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
12


- Ăn mặc đúng đồng phục (áo quần, khăn quàng, phù hiệu đầy đủ đúng
theo qui định).
- Không ăn quà trước cổng trường, không mang đồ ăn, nước uống vào lớp.
- Nghe lệnh trống phải tập trung vào lớp, ổn định trật tự.
b. Trong mười lăm phút đầu giờ:
- Ổn định tổ chức: hát đầu giờ mỗi ngày.
- Mỗi học sinh tự ôn bài, không ai được đi ra ngoài chơi.
- Các tổ trưởng làm nhiệm vụ, kiểm tra nhanh vở bài tập, dụng cụ học tập,
nền nếp của tổ mình. Lớp phó học tập kiểm tra bài tập của các bạn.

- Lớp phó học tập sửa bài tập, khi đó được giáo viên hướng dẫn.
c. Trong giờ học:
- Cả lớp đứng dậy chào thầy, cô khi vào lớp.
- Dụng cụ học tập đã để đầy đủ ở bàn trước mặt (sách giáo khoa, vở ghi, vở
bài tập, giấy nháp, thước…)
- Khi thầy, cô kiểm tra bài cũ học sinh phải nhanh nhẹn khẩn trương: trả lời
lớn, rõ ràng.
- Tập trung nghe giảng, không được nói chuyện, làm việc riêng. Ngồi học
với tư thế ngay ngắn, không rút chân lên ghế, không dựa tường…
- Tích cực phát biểu xây dựng bài để hình thành kiến thức bài học.
- Biết sử dụng đồ dùng học một cách khoa học, tránh ồn ào gây mất trật tự.
* GV cần lưu ý: Không để lớp mất trật tự, nhưng phải có không khí thoải
mái, không biến lớp thành thụ động để giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh.
d. Trong giờ chơi:
- Chơi những trò chơi lành mạnh không chạy rượt; không xô đẩy, đánh
nhau; không nói tục; không chơi những trò chơi nguy hiểm.
- Không mang quà vào lớp ăn, không được xả rác ở hộc bàn, lớp học, cửa
sổ, sân, cổng trường…
- Không leo trèo cửa sổ, bàn ghế, cây cối…bảo vệ tài sản của chung và của
riêng.
e. Ra về:
Khi ra về phải đi thẳng ra cổng, không la cà trước của lớp khi lớp khác còn
học. Đi một mạch về nhà. Đồng phục tốt cho tới về đến nhà.
Tóm lại: Thực hiện nghiêm túc các quy định của trường, lớp. thực hiện tốt
5 điều Bác Hồ dạy.
Xây dựng nội quy lớp học dựa trên những ý kiến của lớp, chính vì những
đề xuất của các em như: Không nên đi học trễ, không xả rác bừa bãi, không nói
tục, chửi thề... và những việc nên làm như: Làm bài đầy đủ, trật tự trong giờ học,
giúp bạn cùng tiến, tích cực xây dựng bài, giữ gìn trường lớp sạch đẹp, biết đoàn
kết chia sẻ hợp tác trong nhóm.

Giải pháp 8: Tập thói quen phê và tự phê.
- Tôi đã xây dựng tiết sinh hoạt lớp cuối tuần cho học sinh. Tập cho các
em biết phê và tự phê một cách hồn nhiên, chân thật. Từng tổ các em sẽ ngồi lại
chọn bạn xuất sắc là bạn học tốt, không vi phạm những điều đã qui định, bạn
13


nào có chuyển biến hơn so với tuần trước thì được chọn là bạn tiến bộ cũng
được tuyên dương (lấy biểu quyết cả tổ). Em nào còn vi phạm cũng được bạn
chỉ ra và nhận sai trước tổ. Tôi đã theo suốt để tuyên dương trước lớp những học
sinh xuất sắc cũng như khéo léo xoa dịu, động viên những em còn sai phạm để
sửa chữa ở tuần sau, phải tìm nguyên nhân đối với học sinh vi phạm.
Ví dụ: Với ban cán sự lớp, làm việc phải công tâm, nghiêm túc, phải tạo
được uy tín để các bạn nghe theo, đồng thời trong cách nhắc nhở, góp ý cho bạn
cũng cần tế nhị, khéo léo để tránh tổn thương người khác; Với tập thể lớp, cần
giảng giải để các em hiểu được những lời phê bình, nhận xét của ban cán sự lớp
là vì công việc chung, vì mục tiêu xây dựng tập thể, giúp đỡ nhau tiến bộ; Với
những cá nhân khi đóng góp ý kiến cần xuất phát từ thái độ chân thành, tôn
trọng bạn bè; khi được góp ý cần bình tĩnh, tránh tự ái, bảo thủ mà phải biết ghi
nhận để tiến bộ hơn.
Có những tình huống nảy sinh trong tập thể lớp như xích mích, hiểu
nhầm... giáo viên chủ nhiệm đã nêu vấn đề để các em thảo luận, trao đổi và
quyết định. Mục đích là nhằm nâng cao bầu không khí đoàn kết, tinh thần trách
nhiệm của mỗi học sinh trong lớp.
*Ví dụ 1: Em Lương Thị Thanh Thảo là một học sinh rất ngoan, nhưng hôm
thứ hai học môn tập đọc tôi kiểm tra học thuộc lòng bài “Bé nhìn biển” em
không thuộc bài. Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân, vì sao hôm đó em Thảo không
thuộc bài. Nếu do hoàn cảnh khách quan, không nên nhận xét hay khiển trách
ngay mà cần động viên em về học tập cho tốt, cô giáo sẽ kiểm tra em vào tiết
học sau.

*Ví dụ 2: Em Vi Văn Hưng nhiều lần vi phạm về không học bài và không
làm bài. Tôi tìm hiểu nguyên nhân, nếu do em Hưng chưa hiểu bài thì sẽ phân
công em Vi Thị Ngọc Ánh và em Vi Huyền Trang giúp đỡ bằng cách giảng bài
cho hiểu, động viên em chăm chỉ học tập để không phụ lòng bạn bè, thầy cô.
- Để hình thành thói quen cho học sinh, tôi đã duy trì thường xuyên, liên
tục và có điều chỉnh cho phù hợp tình hình của lớp. Đặc biệt luôn tạo không khí
gần gũi, thân mật giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau.
- Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo viên bộ môn luôn gần gũi các em,
tình thương yêu giữa các em phải công bằng. Chủ yếu là thái độ mềm mỏng,
luôn động viên nhắc nhỡ các em thực hiện tốt. Nhưng cũng cần phải nghiêm
khắc xử lý đối với các em cố tình vi phạm.
* Tổng kết: Phát huy những việc mà lớp đã thực hiện tốt trong thời gian
tới, khắc những tồn tại của lớp cũng như của từng cá nhân của học sinh. Qua đó
tiếp tục giáo dục cho các em những hành vi ứng xử trong sinh hoạt, học tập giúp
trẻ nhận biết được hành vi đúng sai. Giúp các ưm phát huy được thế mạnh sẵn
có ở từng học sinh. Sau hơn hai tháng thì kết quả đạt được ở lớp tôi là học sinh
lễ phép chào hỏi người lớn không chỉ là giáo viên trong trường mà cả người lớn,
người lạ mặt vào trường, chào hỏi, giúp đỡ người già … nhận quà và đồ vật từ
người lớn bằng hai tay.
Giải pháp 9: Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh:
14


Bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau: Phụ
huynh có đời sống kinh tế ổn đinh. Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh
thân yêu, am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục có con em học khá giỏi.
* Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng
GVCN rèn nề nếp học sinh như sau: Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em
mình. Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. Chuẩn
bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày. Giáo

dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi. Sinh hoạt điều độ,
đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. Thường
xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên
lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nhgiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân , đồng nghiệp và nhà trường:
a. Kết quả: Từ những biện pháp giáo dục nề nếp trên đây từ đầu năm
đến nay lớp tôi đã đạt được những kết quả sau :
Tổng số HS
Nội dung tìm hiểu
SLHS Tỉ lệ %
1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
1
7,69
2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp.
2
15,3
3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm.
2
15,3
4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép.
0
0
5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn.
0
0
13
6) Học sinh cá biệt.
0
0

7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ.
0
0
8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè.
2
15,3
9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế.
1
7,69
10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,…
1
7,69
Ngoài số liệu khảo thí trên, lớp đã có những chuyển biến nổi bật sau:
- Lớp có nề nếp tốt: Các em ngoan, hiền, biết vâng lời làm theo và làm
đúng với lời chỉ bảo của cô giáo, trong lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài. Là lớp
rất đoàn kết, các em luôn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, trong lao
động. Có tinh thần tự giác, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, 5
nhiệm vụ của người học sinh,…
- Học sinh biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung, tham gia mọi hoạt động
của trường của lớp một cách nhiệt tình và có hiệu quả.
- Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp và không nói tiếng địa phương trong
trường, trong lớp.
- Nghiêm túc tập thể dục đầu giờ và giữa giờ, xếp hàng ra vào lớp một
cách trật tự.
b. Bài học kinh nghiệm: Qua quá trình thực hiện công tác xây dựng nề
nếp lớp, bản thân rút ra những bài học kinh nghiệm sau.
- Giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao.
15



- Những ngày đầu của năm học, giáo viên cần phải bám lớp, theo dõi nắm
bắt những yếu điểm của lớp để có biện pháp kịp thời.
- Tổ chức ổn định ban cán sự lớp và đưa lớp đi vào nề nếp càng sớm càng tốt.
- Giáo viên làm gương học sinh noi theo.
- Giáo viên có hình thức khen thưởng, góp ý nhẹ nhàng.
- Gần gũi, yêu thương học sinh.
- Muốn xây dựng một lớp có nề nếp tốt và trở thành lớp tiên tiến xuất sắc
thì trước hết đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm phải có kiến thức vững vàng, có
kỹ năng sư phạm, có khả năng giao tiếp tốt, hiểu đặc điểm sinh lý của trẻ để
nhanh chóng đi vào thế giới tâm hồn của trẻ thơ một cách hấp dẫn dễ dàng .
- Không những thế giáo viên chủ nhiệm phải có kế hoạch cụ thể cho mỗi
tuần, mỗi tháng, mỗi kỳ và cả năm học.
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận
Mỗi giáo viên, ai cũng muốn học sinh của mình chăm ngoan, học giỏi, phát
triển toàn diện, để sau này trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi học sinh Tiểu
học như những cây non, chúng ta cần uốn nắn, chăm chút cẩn thận, nhẹ nhàng
chỉ bảo, nêu gương nhiều hơn là khiển trách để giúp học sinh tự tin vào bản thân
mình và phát triển.
Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm lớp
2 tôi luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm hơn nữa, để sao cho lớp
mình chủ nhiệm luôn đạt được kết quả và thành tích cao trong mọi lĩnh vực.
Qua một thời gian thực hiện những biện pháp rèn nề nếp cho học sinh trong
lớp tôi chủ chiệm, tôi thấy học sinh trong lớp có những chuyển biến rõ rệt về
mặt nề nếp. Từ đó nề nếp của lớp. Từ việc rèn luyện nề nếp mà chất lượng học
tập của học sinh cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Qua đó, bản thân giáo viên
cũng cảm thấy hứng thú nhiều hơn trong giảng dạy, các em học sinh có tinh thần
đoàn kết và yêu quý nhau hơn, giúp nhau cùng tiến bộ trong rèn luyện ý thức và

học tập. Điều quan trong nhất mà tôi nhận được đó là sự phản hồi từ phía phụ
huynh, phụ huynh rất yên tâm và thoải mái khi con của họ thích đi học và có ý
thức với việc học tập, với trường, với lớp với công việc của mình. Các em đều
cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
3.2. Kiến nghị
Là một giáo viên thường đảm nhận công tác chủ nhiệm lớp, tôi luôn có ý
thức xây dựng nề nếp lớp. Sau thời gian nhiều năm tận tụy với học sinh và đề ra
nhiều biện pháp giáo dục kịp thời, phù hợp với tập thể lớp chủ nhiệm nên tôi
cũng có một vài kiến nghị như sau:
Muốn cho học sinh có được nề nếp tốt, thì người giáo viên phải biết kết
hợp các phương pháp một cách nhuần nhuyễn, phải nghiên cứu từng đối tượng
một cách tỉ mỉ, cụ thể để sử dụng các phương pháp giáo dục, rèn luyện nề nếp
thích hợp cho từng cá nhân.
16


- Rất nhiều trường hợp học sinh có hoàn cảnh khó khăn mà vẫn vượt khó
vươn lên để đạt thành tích cao trong học tập thì mong Nhà Trường tạo điều kiện
giúp đỡ cho em.
- Trong quá trình hoạt động của nhà trường, cần tổ chức nhiều hơn các hoạt
động vui chơi, giải trí cho học sinh để các em có được sân chơi lành mạnh, bổ ích.
- Trong thư viện cần bổ sung thêm sách, tài liệu về công tác chủ nhiệm, để
giáo viên tham khảo, học tập.
Mặc khác, nhà trường, gia đình và xã hội cần phối hợp chặt chẽ nhằm hỗ
trợ cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ là giáo dục học sinh trở thành một con
người đầy đủ cả tài lẫn đức, xứng đáng là con ngoan trò giỏi, Đội viên tốt , cháu
ngoan Bác Hồ mà toàn xã hội đang chờ mong.
Trên đây là một số chia sẻ của tôi về việc giúp học sinh thực hiện tốt nề
nếp của trường của lớp. Để thực hiện tốt và đạt hiệu quả trong công tác chủ
nhiệm của mình, với ý kiến kinh nghiệm của cá nhân, những suy nghĩ chủ quan

và thời gian nghiên cứu có hạn nên những vấn đề được đề cập trong sáng kiến
này khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý chân thành của các cấp
lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn và để áp dụng
thực tế trong quá trình giảng dạy.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Lương Thị Luận

17


1.
2.

3.
4.
5.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình tâm lí sư phạm.
Hà Nhật Thăng, Nguyễn Thị Vân Hương Tài liệu bồi dưỡng và
phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên: Tăng cường năng
lực làm công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường tiểu
học.NXB Giáo dục.
Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên), Nguyễn Văn Luỹ, Giáo trình tâm lí

học đại cương. NXB Đại học Sư phạm.
Những điều Giáo viên chủ nhiệm cần biết, NXB Lao Động.
Sổ chủ nhiệm lớp.

18



×