Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.76 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LONG THỊ CHIỀU

ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở BẮC KẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LONG THỊ CHIỀU

ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở BẮC KẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết Học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hƣờng

Hà Nội – 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thu Hường
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 1 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Long Thị Chiều


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .......................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Đóng góp mới của luận văn ......................................................................... 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 8
8. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
CƠ SỞ HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .................................. 9
1.1. Khái niệm đạo đức công vụ, tầm quan trọng của nó đối với cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ....................................................... 9
1.1.1. Khái niệm đạo đức .................................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm công vụ ................................................................................. 11
1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở - Khái niệm và đặc điểm hoạt động .......... 13

1.1.4. Tầm quan trọng cuả đạo đức công vụ đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................ 19
1.2. Nội dung, yêu cầu đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 25
CHƢƠNG 2. ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
CƠ SỞ Ở BẮC KẠN HIỆN NAY– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP..... 35
2.1. Thực trạng và nguyên nhân của đạo đức công vụ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay ............................................................................ 35
2.1.1. Một số nét về đặc điểm kinh tế, chính tri, xã hội của Bắc Kạn và đặc
điểm của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay .............................. 35


2.1.2. Thực trạng đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc
Kạn hiện nay.................................................................................................... 46
2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng trên ......................................................... 60
2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay ....................................................... 72
2.2.1 Phát huy vai trò của các cấp Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội
trong công tác giáo dục đạo đức công vụ cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Bắc Kạn hiện nay ............................................................................................ 72
2.2.2 Đẩy mạnh dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho việc nâng cao đạo đức
công vụ của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay ............... 73
2.2.3 Đổi mới công tác cán bộ, chính sách đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với
cán bộ của tỉnh Bắc Kạn hiện nay .................................................................. 77
2.2.4 Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cán bộ công chức .............. 79
2.2.5 Phát huy tính tích cực học tập, rèn luyện đạo đức công vụ của cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay .......................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy cán bộ là gốc của mọi công việc,
công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Những thành
tựu Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua chứng minh điều đó. Trong quá
trình tiến hành cách mạng, chúng ta đào tạo bồi dưỡng được một đội ngũ cán
bộ có phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực lãnh đạo quản lý và hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới, việc xây dựng đội ngũ cán bộ vừa
hồng, vừa chuyên, ngang tầm để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng là yêu cầu
cấp bách. Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Đảng, công tác cán bộ là
lĩnh vực quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt. Theo tinh
thần đó, Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới... Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực công tác” [19,tr.252]. Kiên quyết “loại bỏ, bãi miễn những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân”.
Đến đại hội XII Đảng ta tiếp tục khẳng định: “ Tăng cường rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập
trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị
tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh gắn với chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống” [21,tr.47].
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là một mắt xích quan trọng trong hệ thống
chính trị bốn cấp ở nước ta hiện nay. Họ có những đóng góp quan trọng vào
sự thắng lợi chung của đất nước. Tuy nhiên trước yêu cầu của công cuộc đổi
mới, đòi hỏi cán bộ chủ chốt phải có đủ đức, đủ tài để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay.

1


Xã phường thị trấn là nơi đại đa số nhân dân sinh sống do đó cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức và vận
động quần chúng thực hiện đường lối của đảng nhà nước, phát huy quyền dân
chủ, xây dựng phát triển kinh tế xã hội. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi phía
Đông Bắc Tổ quốc, có nhiều tiềm năng. Đây là vùng đất có truyền thống cách
mạng, có tiềm lực quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh trong khu vực phía Bắc.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn đã có những đóng góp to lớn
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Những đóng góp đó là đáng trân trọng. Tuy nhiên, đứng
trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc
Kạn cũng có nhiều hạn chế nhất định, nhất là trong việc thực thi công vụ. Để
tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong thời kỳ
mới, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Kạn đã quyết tâm xây dựng, củng cố
và phát triển để họ có đủ năng lực và phẩm chất hoàn thành tốt nhiệm vụ cách
mạng. Trong đó, việc nâng cao đạo đức công vụ được coi là hạt nhân cơ bản
của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
Là một vấn đề bức thiết cần phải được quan tâm chú trọng để xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần có cái nhìn đúng đắn và đưa ra
các giải pháp để giải quyết kịp thời để đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ
trong sạch xây dựng bền vững đất nước. Chính vì những lý do trên, tôi chọn
vấn đề: “Đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đạo đứclà giá trị hàng đầu trong thang giá trị nhân cách của người cán
bộ, là vấn đề mang tính nguyên tắc trong việc lãnh đạo nhận thức và hoạt

động của người cán bộ. Đạo đức cán bộ là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã
2


hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên
quan đến sự thành bại của cách mạng xây dựng tổ quốc.
Những nghiên cứu về đạo đức và đạo đức của cán bộ đảng viên nói chung
Vấn đề đạo đức nói chung đã được nhiều cá nhân tố chức nghiên cứu
với nhiều khía cạnh và cách tiếp cận khác nhau có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như:
“Di sản Hồ Chí Minh về văn hóa và đạo đức” của GS.Trần Văn Bính,
NXB thông tin và truyền thông 2010. GS.TS.NGND. Trần Văn Bính là người
đã có nhiều năm tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt trên
lĩnh vực văn hóa và con người. Các bài viết của GS, dù ra đời tại các thời
điểm khác nhau, đều hướng tới việc nghiên cứu và khẳng định những đóng
góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam. Cuốn sách “Di sản Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo
đức” gồm hai nội dung chính: Di sản Hồ Chí Minh về văn hóa và Di sản Hồ
Chí Minh về đạo đức. Qua các bài viết nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau,
tác giả mong muốn giới thiệu những tư tưởng cơ bản nhất, sát thực nhất đối
với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người; gắn việc nghiên
cứu, học tập các tư tưởng của Người với việc giải quyết những vấn đề cơ bản,
cấp thiết về văn hóa, con người ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị” của tác
giả Huỳnh Khái Vinh do NXB Chính trị quốc gia xuất bản 2001. Trong cuốn
sách các vấn đề về vai trò của đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội đối với
việc phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam được nêu ra rõ ràng.
Cuốn sách cũng xem xét tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị tới đạo đức
con người Việt Nam.
Trần Văn Phòng, Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị

hiện nay, Tạp chí lý luận chính trị, số 4/2001. Trên cơ sở tiêu chuẩn của người
cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa tác giả đưa ra tiêu chuẩn
3


của người cán bộ là tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy với nhân dân, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và phấn đấu thực hiện đường lối chính sách của
đảng pháp luật của nhà nước. Bài viết góp phần ý nghĩa sâu sắc vai trò quan
trọng của đạo đức trong nhân cách của cán bộ công chức hiện nay.
Tác giả Nguyễn Đình Tường, Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục, Tạp chí triết học, số 6/2002. Tác giả đưa ra nguyên nhân khách quan
dẫn đến biến đổi giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay là quá trình chuyển đổi cơ
chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị
trường. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường dẫn đến sự chuyển dịch tiêu
cực trong đạo đức cán bộ công chức.
Trong cuốn sách “ Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay: Vấn đề và giải
pháp” của Viện khoa học Xã hội Việt Nam do Nguyễn Duy Quý chủ biên
(2006), Các tác giả đã khẳng định: những tác động của kinh tế thị trường và
sự mở rộng giao lưu quốc tế, đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay đã có biến
đổi thuận như: Sự bình đẳng trong xã hội, tự do dân chủ của con người được
tăng lên. Bên cạnh đó cuốn sách nêu lên những hạn chế, những điều đáng lo
ngại là đạo đức gia đình và xã hội, đạo đức trong các ngành, các lĩnh vực
đang rất sa sút như lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha hóa đạo đức của một
bộ phận cán bộ công chức nhà nước, tình trạng tội phạm gia tăng... Điều đó
đang gây ra những bức xúc cho xã hội, những lo lắng cho người dân. Trên cơ
sở phân tích sâu sắc thực trạng đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay, các tác giả
đã nêu lên giải pháp như tăng cường nghiên cứu giảng dạy đạo đức trong xã
hội, nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam, để khắc
phục những hạn chế thiếu sót trên.

Tác giả Trần Sỹ Phán, trong bài báo Thực trạng đạo đức của đội ngũ cán
bộ đảng viên nước ta hiện nay qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí triết
học, số 8/2011 đã trên cơ sở nhận định, đánh giá của Đảng tác giả đã phân tích
4


ưu điểm, hạn chế trong đạo đức của cán bộ công chức và đưa ra một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cán bộ công chức ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc những nguyên lý đạo đức học Macxit, tác
giả Nguyễn Thế Kiệt trong cuốn Mấy vấn đề đạo đức học Macxit và xây dựng
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, NXB chính
trị quốc gia , 2012 đã đưa ra yêu cầu xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Trần Sỹ Phán và Lâm Văn Đồng, Quán triệt nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 (khoá XI) của Đảng vào việc nâng cao đạo đức cho cán bộ,
đảng viên ở nước ta hiện nay, tạp chí lý luận chính trị và truyền thông, số
7/2013. Các tác giả phân tích một cách sâu sắc về tầm quan trọng của việc
quán triệt nghi quyết vào việc nâng cao đạo đức cho cán bộ đảng viên. Tạo
điều kiện để cán bộ đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Những nghiên cứu về cán bộ công chức, đạo đức công vụ
- Đặng Thanh Giang, Vấn đề xây dựng đạo đức cho cán bộ cơ sở trong
điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế tỉnh Thái Bình), Luận văn
thạc sĩ triết học, 2001đưa ra tầm quan trọng của việc xây dưng đạo đức cho
cán bộ trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa ra thực trạng và giải pháp để
xây dựng đạo đức cho cán bộ cơ sở ở tỉnh Thái Bình.
- Dương Quốc Quân, Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay,
luận văn thạc sĩ triết học, 2005 tác giả đã đưa ra thực trạng và một số giải
pháp để xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ trong điều kiện kinh tế thị
trường của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

- Cao Minh Công, Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước
ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, 2012 phân tích vấn đề trách nhiệm công
vụ và đạo đức công chức mối quan hệ giữa chúng. Đưa ra thực trạng trách
nhiệm và đạo đức công vụ, một số giải pháp chủ yếu nâng cao trách nhiệm
công vụ và đạo đức công chức.
5


- Ngô Thanh Phương, Chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay – thực trạng và giải pháp, luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị học, 2014. Vai trò và một số yếu tố đảm bảo
chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở,
phân tích thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng của cán bộ cấp cơ sở ở
Bắc Ninh.
- Lê Quang Vinh, Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức cấp huyện ở
nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang), Luận văn thạc sĩ triết học, 2014.
- Lê Thị Huyền Trang, Đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong
giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay, luận văn thạc sĩ khoa học quản lý,
2014. Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng đạo đức công
vụ nước ta, đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao đạo đức công vụ.
Như vậy, những công trình nghiên cứu, các bài viết như trên, ít nhiều
đã đề cập đến vấn đề đạo đức, đạo đức của cán bộ cách mạng, nâng cao đạo
đức cho cán bộ cách mạng hiện nay…. Nhưng chưa có công trình nào đề cập
đến việc nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của
Bắc Kạn hiện nay. Vì vậy mà các công trình nghiên cứu, các bài viết như trên
là những tài liệu cần thiết để luận văn tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về đạo
đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, tác giả phân tích thực trạng đạo

đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn, từ đó đưa ra các giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở Bắc Kạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ đạo đức công vụ, tầm quan trọng, nội dung của đạo đức công
vụ đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
6


- Phân tích thực trạng đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở Bắc Kạn hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức công vụ
cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp sơ sở trên địa bàn Bắc Kạn
tính từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức, đạo
đức công vụ, đồng thời kế thừa các giá trị của một số công trình khoa học đã
được công bố có liên quan trực tiếp đến nội dung đạo đức, đạo đức công vụ,
cán bộ chủ chốt, nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp như phương pháp thống nhất lịch sử - logic , phân tích tổng hợp, so

sánh, thống kê, thu thập số liệu thứ cấp.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ thực trạng của đạo đức công vụ đối với cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay
- Góp phần vào việc đề xuất nguyên nhânvà giải pháp nâng cao đạo đức
công vụ cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Kạn hiện nay.

7


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Kạn đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học và thực
tiễn, là tài liệu tham khảo giúp cán bộ chủ chốt tỉnh Bắc Kạn trong công tác
xây dựng đạo đức công vụ cho cán bộ trên địa bàn.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo
nội dung luận văn gồm 2 chương 4 tiết.

8


CHƢƠNG 1
ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm đạo đức công vụ, tầm quan trọng của nó đối với cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Ngay từ khi loài người xuất hiện, con người ta đã sống trong cộng

đồng. Để đảm bảo công bằng và bảo vệ lợi ích mà con người đặt ra những
điều ước và quy định chung để điều chỉnh hành vi của con người và hình
thành nên pháp luật, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực bên cạnh đó còn
có một phương thức điều chỉnh hành vi được thực hiện một cách tự giác và
đảm bảo thực hiện chủ yếu thông qua dư luận xã hội đó là đạo đức.
Đạo đức được hiểu là một thành tố trong tính cách và giá trị của một
con người. Đạo là con đường, đức là nhân đức, đức tính. Với tư cách là một
bộ phận của triết học, những tư tưởng, quan niệm về đạo đức xuất hiện từ rất
lâu trong lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ những quan niệm về đức hạnh
trong triết học của Aristotle thời kỳ Hy – Lạp cổ đại. Nói đến đạo đức là nói
đến lề thói và tập tục, biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở Phương Đông, khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn
nhà Chu sau đó được các nhà triết học Trung Hoa sử dụng nhiều. Đạo có
nghĩa là con đường, đường đi. Đạo còn có nghĩa là đường sống của con
người. Đức là nói đến nhân đức, đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa. Như
vậy, đạo đức của người Trung Quốc cổ đại là những yêu cầu, những nguyên
tắc do cuộc sống đặt ra đòi hỏi mọi người phải tuân theo. Trong thời Xuân
Thu, Chiến quốc, các nhà tư tưởng lớn như Khổng Tử và Mạnh Tử đề cập đến
năm mối quan hệ cơ bản trong xã hội “ngũ luân” để xây dựng trật tự trong xã
hội Mạnh tử viết: “Quân thần hữu nghĩa (lấy chữ nghĩa làm đầu), phụ tử hữu
9


thân (tình thân), phu phụ hữu biệt (tôn trọng nhau), trưởng ấu hữu tự (anh
em phải có trên dưới), bằng hữu hữu tín (giữ chữ tín)”[sách Mạnh Tử thượng,
Đằng Văn Công]. Các ông chủ trương bậc quân vương phải dùng đức để trị
nước, hay Lão Tử người sáng lập phái Đạo gia cũng coi trọng đức cho rằng
đức là tối thượng. Chủ trương đức trị Lão Tử nói vua dùng pháp để trị thì dân
sợ mà làm theo, dùng đức trị thì dân sẽ biết hổ thẹn mà không làm điều sai

trái vua sẽ được lòng dân.
Có thể nói, trước Mác và Ăngghen các nhà tư tưởng, triết gia đã tìm
đến đạo đức tuy nhiên hầu hết rơi vào quan niệm duy tâm khi đi tìm đạo đức
trong bản tính con người hoặc trong một thực thể siêu nhiên thần bí bên ngoài
con người, chưa thấy được mối quan hệ giữa đạo đức với xã hội
Triết học Mác – Lênin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
có tính độc lập tương đối. Là sản phẩm của quan hệ kinh tế, của hoàn cảnh
đấu tranh giai cấp, điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Đuyrinh người muốn đưa ra một học thuyết đạo đức vĩnh cửu phù hợp
với mọi thời đại trong lịch sử xã hội loài người tuy nhiên quan điểm đó của
ông mang tính không tưởng vì đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là sản
phẩm của lịch sử xã hội và do cơ sở kinh tế xã hội quy định trong tác phẩm
“chống Đuyrinh” Ăng ghen viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo
đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc
bấy giờ”[50,tr.137]. Trong lịch sử trải qua hình thái kinh tế xã hội khác nhau
tương ứng với nó cũng có năm kiểu đạo đức khác nhau. Thứ nhất, đạo đức
trong xã hội nguyên thủy; Thứ hai, đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ; Thứ
ba, đạo đức trong xã hội phong kiến; Thứ tư,đạo đức trong xã hội tư bản; Thứ
năm, đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức mỗi thời kỳ khác nhau mang trong mình những nét riêng phụ
thuộc vào kinh tế xã hội, trong xã hội có giai cấp có thể có nhiều hệ thống đạo
10


đức cùng tồn tại để phản ánh và vảo vệ lợi ích của các giai cấp khác
nhau. Đạo đức trải qua mỗi giai đoạn luôn có sự kế thừa chọn lọc để phù hợp
với điều kiện lịch sử với xu hướng ngày càng tiến bộ đó cũng là quy luật của
phát triển đạo đức. Từ Platon, Aristotle các nhà tư tưởng đầu tiên đưa ra quan
điểm sơ khai về đạo đức cho tới nay mặc dù các quan điểm khác nhau trên lập

trường khác nhau nhưng giá trị của đạo đức là vĩnh cửu .
G Bandzeladze nhà nghiên cứu đạo đức học người Liên Xô quan niệm
“Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những
người khác và xã hội… Nơi nào không có những hành động tự nguyện, tự
giác của con người thì nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời
sống xã hội. Đặc trưng của đời sống con người, của bản thân tính người (hoặc
nhân phẩm) là ở đạo đức và nội dung đạo đức chính là năng lực phục vụ tự
nguyện, tự giác lợi ích của người khác và của toàn thể xã hội”. [2,tr.48-49].
Quan niệm đạo đức ngày nay được hiểu là "một hình thái ý thức xã hội, là
tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, ra đời, tồn tại và biến đổi
theo nhu cầu xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện một cách tự
nguyện tự giác, xuất phát từ nhận thức, niềm tin cá nhân, truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội" [43.tr.12].
1.1.2. Khái niệm công vụ
Công vụ là một khái niệm rộng mang tính lịch sử cho đến nay có nhiều
quan niệm khác nhau về công vụ. Trong nền cộng hoà Pháp công vụ là “toàn
bộ những người được nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào
một công việc thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản, kể
cả các bệnh viện và được thực thụ vào một trong các ngạch của nền hành
chính công” [79,tr.4]
Trong thuật ngữ hành chính có viết, công vụ là thuật ngữ được sử dụng
để chỉ một dạng hoạt động mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước
11


hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức viên chức nhà nước tiến hành
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội [82.tr.72].
Nói đến công vụ, đó chính là hoạt động của nhà nước, là một dạng

mang tính quyền lực gắn với nhà nước do cán bộ công chức tiến hành theo
quy định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước đem lại lợi ích
cho nhân dân xã hội.
Cán bộ công chức khi tham gia vào hoạt động công vụ phải tuân thủ
theo quy định nghĩa vụ trách nhiệm để hoàn thành được nhiệm vụ, chức năng
ngoài việc phải có trình độ năng lực về chuyên môn mà người cán bộ cũng
cần phải có những phẩm chất đạo đức và phải không ngừng học tập tu dưỡng
rèn luyện đặc biệt là đạo đức công vụ như Hồ Chí Minh nói đào tạo đội ngũ
cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”
Đạo đức công vụ là những phẩm chất mà một cán bộ cần có khi tham
gia vào quá trình thực hiện công vụ được thể hiện cụ thể qua mục tiêu, lý
tưởng, lối sống, thái độ sống…. Phản ánh mối quan hệ giữa cán bộ với nhà
nước, giữa các cán bộ trong thực hiện công vụ và giữa cán bộ với xã hội.
Trong thực tiễn Việt Nam đạo đức công vụ được thể hiện qua các phẩm
chất chính trị của người cán bộ điều này được thể hiện cụ thể trong hiến
pháp sửa đổi 2013 đó là trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự tổ quốc và lợi ích quốc gia;
tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối và chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Trong cuốn sách đạo đức trong nền công vụ nhà xuất bản lao động –
2002, khái niệm đạo đức công vụ ở Việt Nam được hiểu: “Trên nền tảng triết
lý nhà nước là của dân, do dân vì dân; nhân dân là chủ, cán bộ công chức là

12


công bộc của dân. Vì vậy, giá trị cao nhất của đạo đức công vụ là phục vụ
nhân dân” [83,tr.198]
Trong cuốn nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức công vụ của một

số quốc gia và Việt Nam nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2012, có quan
niệm rằng: “ Xét về nguyên tắc, đạo đức công vụ có thể hiểu là đạo đức
thực thi công vụ của công chức. Đó là phép về quan hệ giữa công chức với
công chức, giữa công chức với tập thể và xã hội trong hoạt động công vụ đó
là quy định đối xử trong công vụ mà các công chức phải biết tuân thủ và giữ
gìn. Với nghĩa hẹp hơn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp của công chức khi thực
thi công vụ” [84,tr.16-17]
Chúng ta có thể hiểu Đạo đức công vụ là một bộ phận của đạo đức xã
hội, là chuẩn mực đạo đức của cán bộ công chức, là hệ thống các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức gắn với hoạt động công vụ nhằm thực hiện công việc điều
chỉnh đánh giá thực hiện hành vi, cách xử sự, thực hiện chức chức trách bổn
phận của công chức đối với xã hội, đối với Nhà nước và đối với nhân dân
được đảm bảo thực hiện bằng niềm tin, trách nhiệm truyền thống đạo đức của
dân tộc và bằng sức mạnh của xã hội.
1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở - Khái niệm và đặc điểm hoạt động
Theo điều 4 luật cán bộ công chức năm 2008 quy định về cán bộ là:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng đưa ra khái niệm về cán bộ “Người
đem đường lối chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng
được rõ ràng và thi hành đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [61,tr.432]
13


Cán bộ chủ chốt là người có chức trách được giao nhiệm vụ lãnh đạo tổ

chức thực hiện nhiệm vụ, và chịu trách nhiệm về nhiệm vụ được phân công,
là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hoá đường lối, chính sách cả
đảng chính quyền, hoạch định, xây dựng mục tiêu phương hướng đưa ra các
chủ trương chính sách và lãnh đạo chỉ đạo nhân dân thực hiện theo các nhiệm
vụ đã đề ra. Cán bộ chủ chốt là người có thẩm quyền giải quyết các mối quan
hệ chính trị kinh tế, xã hội trong phạm vi quyền hạn.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người đứng đầu trong hệ thống
chính trị cơ sở thông qua việc lãnh đạo chỉ đạo thực hiện các vấn đề kinh tế,
chính trị xã hội là người ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện chủ trương
đường lối chính sách của đảng và sự phát triển về mọi mặt trong hệ thống cấp
cơ sở.
Trong cuốn “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị đổi mới” khái niệm cán bộ chủ chốt được PGS.TS
Trần Xuân Sầm quan niệm “Là những cán bộ lãnh đạo nhưng là lãnh đạo toàn
diện có trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải
quyết vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể” [75, tr139].
Theo nghị định số 114/2003/NĐ-CP ban hành ngày 10/10/2003 của
chính phủ về cán bộ, công chức xã phường thị trấn và theo kết quả nghiên cứu
đề tài “xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống
chính trị đổi mới” của PGS.TS. Trần Xuân Sầm chủ biên xác định cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở bao gồm: Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch uỷ ban nhân dân; Chủ tịch
hội đồng nhân dân; Phó bí thư thường trực Đảng uỷ; Chủ tịch hội nông dân
xã; Chủ tịch liên đoàn lao động ở phường, thị trấn.
Là mắt xích quan trọng trong hệ thống chính trị kết nối giữa đảng và
nhân dân cùng với đó nhân cách đạo đức của bộ phận cán bộ này chính là yếu
tố quyết định trực tiếp trong việc xây dựng đảng và gây dựng niềm tin của
dân chúng.
14



Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc
thực hiện chức năng cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa công dân với Nhà
nước. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở đã
phát huy được sức mạnh của hệ thống chính trị, tạo dựng các phong trào cách
mạng của quần chúng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Chính quyền Nhà nước cấp cơ sở, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng,
là nền tảng của bộ máy Nhà nước, là chỗ dựa và công cụ sắc bén để thực hiện
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cơ sở cho chiến lược ổn định và
phát triển đất nước, là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn. Đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chức
năng làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa công dân với Nhà nước. Là
những cán bộ trực tiếp tuyên truyền phổ biến, vận động và tổ chức nhân dân
thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
để xây dựng phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đảm bảo trật tự an ninh
trên địa bàn, giải quyết nhu cầu của nhân dân. C.Mác viết:“ Bất cứ một tư
tưởng nào, dẫu cao siêu vĩ đại đến đâu thì tư tưởng vẫn mãi là tư tưởng nếu tư
tưởng đó không có người truyền bá, vận dụng nó trong đời sống xã hội”[44].
Hay Mác và Ăngghen một lần nữa khẳng định trong tác phẩm “Gia đình thần
thánh năm 1845” rằng: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người
sử dụng lực lượng thực tiễn” [45,tr. 181].
Là những người trực tiếp gần dân, nắm rõ tình hình thực tế của địa
phương trên cơ sở đó đưa ra các kế hoạch, chủ trương biện pháp đề xuất đưa
ra những kiến nghị phù hợp với địa phương. Vậy nên, đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức mạnh của hệ
thống chính trị, góp phần quyết định trong việc thực hiện thắng lợi các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở đại phương. Sức mạnh của hệ
15



thống chính trị, sự ổn định, phát triển của xã hội ở địa phương luôn gắn liền
với năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ
sở. Giữ vai trò quyết định năng lực lãnh đạo và quản lý của chính quyền cơ sở
nên để các hoạt động, phong trào ở địa phương thực hiện có hiệu quả phụ
thuộc lớn vào “tài”, “tâm” của người lãnh đạo.
Đảng ta luôn nhận thức rõ vai trò của đơn vị hành chính nói chung, cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Điều đó được thể hiện rõ qua các kỳ
đại hội của đảng. Đại hội XII chỉ rõ “Phát huy vai trò gương mẫu trong rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách tác phong, lề lối công tác của
cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ
quan đơn vị” [21,tr.203]
Hiện nay, Việt Nam có 11.162 đơn vị hành chính cấp cơ sở, bao gồm
1.567 phường, 597 thị trấn và 9.064 xã, với tổng số trên 222.735 cán bộ, công
chức và 317.766 cán bộ không chuyên trách cấp cơ sở [Theo số liệu thống kê
của Đảng cộng sản]. Đây là những người trực tiếp thực hiện và đưa chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với
nhân dân, tuyên truyền, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện. Vì vậy, cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay có một số đặc điểm như sau:
Một là, về năng lực chuyên môn
Về cơ bản đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có trình độ chuyên môn,
lý luận chính trị và năng lực đáp ứng yêu cầu đối với nhiệm vụ được giao đạt
được những thành tựu nhất định tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế
như một số cán bộ chuyển từ cơ chế cũ nên trình độ không đáp ứng được thực
tiễn, nhiều cán bộ không có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, các lớp đào
tạo bồi dưỡng chủ yếu là ngắn hạn nên chưa đạt hiệu quả cao, một số cán bộ
chưa ý thức được việc nâng cao năng lực chuyên môn nên có nhiều
trường hợp chạy bằng cấp ngoài ra còn lý do về độ tuổi cao, kinh tế gia đình
khó khăn gây ảnh hưởng đến việc học tập chuyên môn nghiệp vụ.
16



Hai là, về đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ nói chung và ở Việt Nam nói riêng được hình thành
thông qua ba giai đoạn: Giai đoạn tự nhận thức, giai đoạn luật hóa và giai
đoạn tự giác.
Quá trình hình thành đạo đức công vụ là một quá trình từ tự nhận thức
đến tư duy hành động sau đó được chuyển hóa thành quy tắc pháp luật. Đạo
đức công vụ là sản phẩm tất yếu của quá trình hình thành và phát triển các mô
hình nhà nước do đó đạo đức công vụ thay đổi cùng với sự thay đổi hình thái
xã hội, với sự thay đổi của các hành vi cách ứng xử các quan hệ tồn tại trong
xã hội đó. Đạo đức công vụ là đạo đức của những người thực thi công việc
của nhà nước mang tính đặc trưng nhằm điều chỉnh thái độ hành vi, nghĩa vụ
của cán bộ trong hoạt động công vụ dần hình thành những giá trị chuẩn mực
chung và được luật hóa mang tính cưỡng bức thực hiện nhằm bảo đảm quyền
lọi của nhân dân người làm chủ đất nước và ngăn chặn các hiện tượng tiêu
cực trong hoạt động công vụ. Tuy nhiên việc luật hoá mang tính hà khắc tồn
tại hạn chế nhất định trong khi hoạt động công vụ mang tính đa dạng, toàn
diện đặc trưng nên đạo đức công vụ cần trở thành “liêm sỉ” của mỗi cán bộ
chủ chốt, mang tính tự giác. Mỗi cán bộ phải thực hiện những tư tưởng giá trị
chuẩn mực của đạo đức đây là mục tiêu tổ chức quản lý con người mà các
quốc gia phát triển hướng tới
Việt Nam bên cạnh những cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có ý thức giữ
vững đạo đức, phẩm chất trong thi hành công vụ, lối sống giản dị gần gũi với
dân. Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức của người thì vẫn tồn
tại nhiều vấn đề suy thoái trong đạo đức thực thi công vụ, nhiều cán bộ có
biểu hiện vụ lợi, ích kỉ, chủ nghĩa cá nhân. Tham nhũng, lợi dụng chức quyền,
hạch sách gây khó dễ cho người dân… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết
quả thực thi công vụ. Nhìn chung việc thực thi đạo đức công vụ ở nước ta vẫn
ở giai đoạn luật hóa mang tính bị ép buộc cưỡng chế, nghĩa là các cán bộ chưa

17


có ý thức tự giác chưa xuất phát từ ý thức cần làm và muốn làm. Một thực tế
là không thể luật hóa hết toàn bộ đạo đức liên quan đến công vụ, nếu mỗi cán
bộ không có ý thức tự giác sẽ dẫn đến việc thực hiện đạo đức công vụ mang
tính hời hợt không đươc triệt để.
Ba là, Tiêu chí đánh giá đạo đức công vụ cán bộ
Thứ nhất, chấp hành pháp luật nội quy, quy chế trong cơ quan đơn vị
trong quá trình thi hành công vụ là quy chế hàng đầu và quan trọng nhất là
thước đo đạo đức công vụ
Thứ hai, đó là hiệu quả việc thực thi công vụ, cán bộ chủ chốt ở cơ sở
thông qua các hoạt động công vụ để tạo ra những giá trị xã hội, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống của dân xây dựng cơ quan tổ chức
Thứ ba, là mối quan hệ của cán bộ với đồng nghiệp khác, đạo đức công
vụ của người cán bộ được thể hiện ở thái độ tình cảm với các đồng nghiệp
khác. Cần phải biết thiết lập quan hệ với đồng nghiệp chia sẻ hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau để hoàn thành công vụ nhiệm vụ của cơ quan tổ chức đơn vị giao để
đạt được hiệu quả cao nhất
Thứ tư, là quan hệ giữa cán bộ và nhân dân, mục tiêu của hoạt động
công vụ là phục vụ nhà nước xã hội và nhân dân do đó người cán bộ phải luôn
tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân phải biết thông cảm chia sẻ sâu
sắc với nhân dân, hết sức phục vụ nhân dân có thái độ đúng mực luôn đặt lợi
ích của nhân dân, luôn luôn lắng nghe ý kiến và khiêm tốn học hỏi nhân dân.
Đối với bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, thực tế cho thấy khi mới
được bổ nhiệm, bầu cử, đề bạt đều đáp ứng tiêu chuẩn của một người cán bộ
không chỉ về năng lực chuyên môn mà còn về nhân cách đạo đức, tận tụy,
liêm khiết hầu hết được người dân tín nhiệm. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt
động hình thành hai xu hướng tích cực và tiêu cực trong lối sống đạo đức.
Một bộ phận cán bộ lại dần dần bị thoái hóa, biến chất do bản lĩnh chính trị

còn yếu không vững vàng dễ bị lung lay sa ngã trước khó khăn thử thách, dễ
18


bị chi phối bởi vật chất, lười tu dưỡng rèn luyện nên năng lực không kịp đáp
ứng nhu cầu của tình hình mới luôn biến đổi gây nguy hại đến chất lượng và
hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng của đảng bộ tỉnh.
1.1.4. Tầm quan trọng cuả đạo đức công vụ đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở Việt Nam hiện nay
Trong triết học Nho giáo Trung Hoa ngay từ khi mới xuất hiện đặc biệt
đề cao vai trò của đạo đức, đối với người dân luôn phải học tập tu dưỡng đạo
đức nhân nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu. Nho giáo không chỉ đưa ra đạo đức đối
với người dân mà còn nhấn mạnh đạo đức của bậc quân vương, người lãnh
đạo nhân dân đặc biệt phải là người có đạo đức, phải luôn tu dưỡng học tập
rèn luyện đao đức mọi nơi mọi lúc mọi nơi. Người quân vương phải toàn
đức toàn mỹ “miếng thịt thái không vuông người quân tử không ăn, chiếc
chiếu trải không ngay quân tử không ngồi”- Khổng Tử, Luận ngữ.
Người quân vương phải yêu thương dân, không hại dân, không giết
dân. Đối với dân phải cung, khoan, tín, mẫn, huệ đó là những phẩm chất mà
bậc quân vương cần phải có để có thể quản lý, hướng dẫn dân.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng của Nho gia sớm nhận ra vai
trò đặc biệt quan trọng của đạo đức đối với việc phát triển nhân cách con
người. Khi nói về vai trò của đạo đức cách mạng đối với người cách mạng,
Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn; cây phải có gốc không có gốc thì cây héo; người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”[55,tr.252-253]
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người gần dân nhất, trực tiếp chỉ
đạo hướng dẫn dân trong việc thực hiện các Nghị quyết chính sách của
Đảng, Nhà nước đồng thời cũng là người trực tiếp ban hành các văn

bản. Đảng cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chú trọng xây dựng đạo
đức công vụ cho cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng và
19


coi đạo đức công vụ của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có tầm quan trọng nhất
định đối với sự phát triển của đất nước. Khẳng định điều đó là do:
Một là, đạo đức công vụ góp phần hoàn thiện nhân cách cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở, gần dân, được dân tín nhiệm.
Trong một quốc gia, một xã hội dù dưới bất kỳ một chế độ nào người
lãnh đạo có vai trò cực kỳ to lớn đối với sự hưng thịnh của quốc gia. Đánh giá
một lãnh đạo tốt không chỉ thông qua tài mà đức là một yếu tố cần thiết, mang
ý nghĩa quyết định đối với công tác xây dựng đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo
của đảng không chỉ vậy đó còn là nhân tố quyết định sự thành bại, vận mệnh
của đất nước và chế độ.
Là một mặt cơ bản trong văn hoá nghề nghiệp của cán bộ, đạo đức
công vụ là biểu hiện giá trị nhân văn của cán bộ, giúp nâng cao phẩm giá con
người, đạo đức công vụ thực hiện chức năng giáo dục cho đội ngũ cán bộ. Để
trở thành cán bộ trước hết phải thành ngưởi, để trở thành cán bộ chân chính
trước hết phải có đạo đức cán bộ trong sáng và đúng đắn luôn phải đặt lợi ích
của tổ quốc của nhân dân, của đảng lên trên, lên trước.
Đạo đức công vụ là một dạng của đạo đức xã hội đồng thời là đạo đức
nghề nghiệp của mỗi cá nhân góp phần quan trọng hoàn thiện năng lực, phẩm
chất của đội ngũ cán bộ. Không có đạo đức công vụ tốt thì không thể là một
cán bộ tốt. Xây dựng đạo đức công vụ góp phần xây dựng và nâng cao đạo đức
nghề nghiệp cũng như phát triển và hoàn thiện nhân cách của người cán bộ.
Mối quan hệ qua lại giữa người lãnh đạo với quần chúng rất đa dạng và
tạo nên nội dung chủ yếu về tâm lý – đạo dức trong phong cách lãnh đạo.
Trong tổ chức, người lãnh đạo không chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ,
nghiêm khắc đối với bản thân, sử dụng hợp lý thẩm quyền được giao mà còn

phải luôn chú trọng tạo dựng uy tín cho bản thân và có ý thức thúc đẩy người
khác thực hiện các nhiệm vụ được giao. Cần phải hiểu rõ tâm lý quần chúng,
Thực tiễn cho thấy người lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở nếu có kỹ năng hiểu
20


×