Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tranh chấp kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.97 KB, 7 trang )

TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

1.

Khái niệm: Tranh chấp thương mại

Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác.”
Theo quy định trên, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu
thuẫn ( bất đồng hoặc xung đột ) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
Tranh chấp là việc khó tránh khỏi trong quan hệ thương mại. Nhưng để
giải quyết những tranh chấp đó, hai bên có thể lựa chọn những cách thức giải
quyết khác nhau để đạt kết quả tốt nhất.
2.

Khái niệm: Tòa án

Là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và
bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự
nguyện tuân thủ sẽ được đảm bào thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà
nước.
3.

Thẩm quyền giải quyết: Tòa án:

Được chia thành.
Thẩm quyền theo loại việc của tòa án


Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì những tranh chấp về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án đã được sửa
đổi bổ sung nhằm làm rõ các tranh chấp về kinh doanh thương mại phù hợp
với Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp..., phân biệt giữa tranh chấp
thương mại với tranh chấp dân sự. Cụ thể:
- Các tranh chấp về kinh doanh thương mại là những tranh chấp: phát sinh
trong hoạt động kinh doanh, thương mại do luật thương mại điều chỉnh
(không liệt kê những tranh chấp cụ thể như BLTTDS năm 2011).


- Tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc trong
Công ty Cổ phần (Điều 72 và Điều 161 Luật Doanh nghiệp).
Thẩm quyền theo cấp xét xử của tòa án
Thẩm quyền theo cấp xét xử của tòa án là giới hạn do pháp luật quy định
để tòa án các cấp thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp thương mại.
Thông thường thẩm quyền của tòa án các cấp được phân chia căn cứ vào giá
trị tranh chấp, tính chất của sự việc và khả năng, điều kiện của từng cấp tòa
án.
Về thẩm quyền của tòa án theo cấp, giải quyết tranh chấp thương mại cơ
bản giữ nguyên như BLTTDS 2011. Đồng thời có sửa đổi bổ sung một số
nội dung như sau:
- Thẩm quyền Tòa án cấp huyện: Chủ yếu giải quyết các tranh chấp thương
mại quy định tại khoản 1 Điều 30 theo thủ tục sơ thẩm;
- Thẩm quyền của các tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện: Theo
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án nhân dân cấp huyện có
thể có một số Tòa chuyên trách (Điều 45 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm
2014) cho nên BLTTDS năm 2015 đã quy định thẩm quyền đối với tòa
chuyên trách của Tòa án nhân cấp huyện đối với việc giải quyết vụ việc
tranh chấp thương mại như sau:

Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những vụ việc về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 30 của BLTTDS năm 2015;
Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách thì Chánh án
Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán giải
quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Thẩm quyền của các tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp
tỉnh có thẩm quyền:
+ Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh;
+ Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp
huyện bị kháng cáo, kháng nghị.


Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ
Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ là giới hạn (khả năng) do pháp luật quy
định xác định chức năng giải quyết các vụ việc KDTM của tòa án theo đơn
vị hành chính lãnh thổ. Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ quy định tòa án
có nghĩa vụ giải quyết các vụ việc KDTM theo yêu cầu của đương sự khi
khởi kiện. Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ được xác định: nơi bị đơn cư
trú, làm việc, có trụ sở; theo sự lựa chọn của đương sự; đối với tranh chấp
bất động sản thì tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi có bất động sản.
Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong những trường
hợp này, Điều 40 Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn,
người yêu cầu BLTTDS quy định có thể xác định thẩm quyền của tòa án
theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Tóm lại:

+Thẩm quyền theo loại việc của tòa án
+Thẩm quyền theo cấp xét xử của tòa án
+Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ
+Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
- Các tranh chấp về hợp đồng trong kinh doanh giữa các thương nhân và đều
có cùng mục đích lợi nhuận
- Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ có mục
đích lợi nhuận
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức
lại và giải thể công ty
4. Giải quyết: Tòa án
- Khởi kiện
-Hòa giải
-Xét xử sơ thẩm
-Xét xử phúc thẩm


-Thi hành án
5. Ưu điểm: Tòa án
- Tòa án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó phản
quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ
máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật.
- Việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc nhiều cấp xét
xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách
quan và đúng với pháp luật.
- Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh
chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức
trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.

- Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ, và hiệu lực phán quyết có tính khả thi
cao hơn so với trọng tài. Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết
của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do
đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo
nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
- Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với những thương nhân
kinh doanh vi phạm pháp luật.
- Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các trọng
tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ
ba đến tòa.
- Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành chính
rất hợp lý.
6. Khuyết điểm: Tòa án
– Các bên phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của
pháp luật tố tụng.
– Tòa án xét xử công khai. Các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường đều
không muốn mất uy tín hay lộ bí mật kinh doanh nên đây là khuyết điểm lớn
nhất.


– Nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của toà án là chính
xác, công bằng nhưng khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều
lần gây bất lợi cho đương sự.
- Thủ tục tố tụng tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định
trước đó;
- Phán quyết của tòa án thường bị kháng cáo. Quá trình tố tụng có thể bị trì
hoãn và kéo dài, có thể phải qua nhiều cấp xét xử, ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất, kinh doanh.
- Nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến
bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi

những bí mật kinh doanh bị tiết lộ và uy tín trên thương trường bị giảm sút.
Đối với các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài thì:
- Phán quyết của tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế. Phán
quyết của tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua hiệp
định song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt.
- Mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan, họ vẫn phải buộc sử dụng
ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường cùng quốc
tịch với một bên.
Tóm lại:
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án là phương thức giải
quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước. Cơ
quan tài phán Nhà nước có quyền nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết
buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Do đó, các đương sự trong tranh chấp
thường coi việc giải quyết tranh chấp của Tòa án như một giải pháp cuối
cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của họ khi họ thất
bại trong việc giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng hay hòa
giải và không muốn giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài. Trong
phạm vi bài viết này, phân tích những lý do nên lựa chọn Tòa án để giải
quyết tranh chấp.
Một trong những nguyên tắc giải quyết tranh chấp của tòa án đó là giải
quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời. Đối với các nhà kinh doanh mà nói thì
vấn đề về vốn trong kinh doanh và thời gian là những yếu tố cực quan trọng


có thể quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh. Xuất phát từ đó, việc
giải quyết tranh chấp thương mại không chỉ đơn thuần đúng pháp luật mà
còn phải đảm bảo yếu tố nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện cho các chủ
thể tham gia hoạt động thương mại có thể an tâm tiến hành hoạt động kinh
doanh.
Về bản chất, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án là

một phương thức mang ý chí quyền lực nhà nước, tòa án nhân danh quyền
lực nhà nước để giải quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Quyết định của tòa án có hiệu lực khiến các bên bắt buộc phải thực thi và có
thể kèm theo các biện pháp cưỡng chế thi hành. Bản chất đó được thể hiện
thông qua các đặc điểm sau:
+ Thứ nhất là cơ quan tài phán nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp,
do đó, phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng
chế.
+ Thứ hai là việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm quyền, thủ
tục, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại của pháp luật tố tụng
nhất là các quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
+ Thứ ba là tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai.
+ Thứ tư là việc giải quyết tranh chấp tại tòa án có thể thực hiện qua hai cấp
xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật còn có thể được
xét lại theo thủ tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
+ Thứ năm là tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định
theo đa số.
Ưu điểm giải quyết bằng Tòa án
+ Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ, và hiệu lực phán quyết có tính khả thi
cao hơn so với trọng tài. Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết
của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do
đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo
nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
+ Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với những thương nhân
kinh doanh vi phạm pháp luật.


+ Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các trọng
tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ

ba đến tòa.
+ Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành chính
rất hợp lý.
Tòa án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó
phản quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của
nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ
máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu không
có sự cưỡng chế thì e ngại rằng một hoặc các bên còn lâu mới tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ như đã thỏa thuận.
Việc giải quyết của Tòa án có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc
nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công
bằng, khách quan và đúng với pháp luật. Đây là điều là doanh nghiệp hay bất
kỳ chủ thể nào cùng muốn, nhất là đối với doanh nghiệp nó gắn liền với lợi
nhuận, tiền bạc, thậm chí là uy tín, danh dự.
Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, chi phí cho việc giải quyết
tranh chấp kinh tế tại toà án thấp.
Từ những lý do trên, thiết nghĩ khi xảy ra tranh chấp thương mại nên cân
nhắc thật ký những gì được và mất khi lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp để có quyết định chính xác.
.Ví Dụ• Công ty TNHH thương mại X trụ sở tại quận 12 TP HCM ký hợp
đồng kinh tế ngày 12/2/2006 với công ty C(Q1,TP HCM) về việc xây dựng
nhà kho cho công ty C.tổng giá trị hợp đồng mà công ty C phải thanh toán
cho công ty TNHH thương mại X là 400 triệu đồng. Tuy nhiên sau nhiều lần
xảy ra tranh chấp.Hai công ty đã tiến hành thương lượng về thời hạn trả nợ
nhưng sau dó công ty C vẫn chưa chịu trả.
• Do ,không có tính bắt buộc nên tính tự nguyện còn hạn chế thương lượng
thất bai công ty TNHH X đưa công ty C ra tòa.




×