Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Bảo hiểm tiền gửi thúc đẩy ngân hàng đáp ứng tốt hơn trách nhiệm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.74 KB, 6 trang )

Bảo hiểm tiền gửi thúc đẩy ngân hàng đáp ứng
tốt hơn trách nhiệm xã hội
Hoạt động ngân hàng mang lại sự tiện lợi cho đời sống, là
trung gian huy động nguồn lực trong cộng đồng, tài trợ tiêu
dùng, đầu tư phát triển kinh tế, an sinh xã hội. Sự xuất hiện của
bảo hiểm tiền gửi phản ánh tính trách nhiệm xã hội của hoạt
động ngân hàng, được cụ thể hóa bằng mức độ trách nhiệm
trực tiếp đối với người gửi tiền và gián tiếp đối với sự phát triển
ổn định và bền vững của hoạt động ngân hàng.
Trách nhiệm xã hội của ngân hàng cần được khai thác,
đầu tư và thúc đẩy
Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại đã phát triển từ
thế kỷ 14 tại các thành phố giàu có của Ý thời Phục hưng. Ngân
hàng, ở mức độ khác nhau, đã thực hiện trách nhiệm xã hội.
Mặc dù vậy, nghiên cứu về khía cạnh này trong hoạt động ngân
hàng mới được triển khai từ năm 2002 và tập trung ở các quốc
gia phát triển. Mảng trống nghiên cứu về trách nhiệm xã hội
của quản trị ngân hàng cần được khai thác, đầu tư và thúc đẩy.
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được khởi xướng đầu
tiên ở Mỹ, và chính thức được công nhận và triển khai phổ biến
ở Mỹ năm 1934. Tới nay, hoạt động BHTG đã phổ cập tại hơn
140 quốc gia, vùng lãnh thổ, và ngày càng chứng tỏ hiệu quả
thiết thực trong bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần
tích cực kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Thực hiện trách nhiệm xã hội mang lại 4 lợi thế cho ngân hàng:
(1) Cải thiện môi trường làm việc: Mang đến sự khích lệ cho đội
ngũ làm việc, làm cho họ có lý do để tự hào về ngân hàng nơi
mình làm việc;
(2) Phát triển kinh doanh: Xây dựng đội ngũ nhân sự để khai
thác khía cạnh kinh doanh mới (ví dụ: phát hành cổ phiếu cho
dự án về bảo vệ môi trường, dự án về năng lượng sạch…);


(3) Thu hút nhóm khách hàng mới, khách hàng hướng tới hoạt
động vì cộng đồng, không thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận;
(4) Cải thiện hình ảnh của ngân hàng trong cộng đồng: Mặc dù
khủng hoảng ngân hàng ảnh hưởng tới hình ảnh ngân hàng,


nhưng các hoạt động cho tiêu chí trách nhiệm xã hội sẽ tăng
cường uy tín và hình ảnh của ngân hàng trong cộng đồng.
Nghiên cứu của Simpson và Kohers (năm 2002) về các
ngân hàng ở Mỹ giai đoạn 1993-1994 cho kết quả về mối liên
hệ chặt chẽ giữa mức độ đáp ứng trách nhiệm xã hội của ngân
hàng với cải thiện kết quả kinh doanh, giảm nợ xấu. Nghiên cứu
của Wu và Shen (năm 2013) với quy mô lớn, 162 ngân hàng từ
22 quốc gia trong giai đoạn 2003-2009, cho thấy hoạt động
ngân hàng gắn liền với thực hiện trách nhiệm xã hội cho kết
quả tích cực về cải thiện lợi nhuận và giảm mức độ nợ khó thu
hồi.
Bảo hiểm tiền gửi thúc đẩy sự phát triển ổn định và bền
vững của hoạt động ngân hàng
Hoạt động ngân hàng đảm bảo duy trì tính ổn định, an
toàn, còn trách nhiệm xã hội đòi hỏi xử lý rủi ro phát sinh từ
hoạt động ngân hàng một cách có trách nhiệm và hiện thực;
tính minh bạch đối với khách hàng và đối tác có liên quan về
quản trị và dịch vụ cung ứng, luôn đảm trách nhiệm vụ cốt lõi là
“xương sống” của nền kinh tế (Febelfin, 2012). Sự xuất hiện của
BHTG phản ánh tính trách nhiệm xã hội của hoạt động ngân
hàng, được cụ thể hóa bằng mức độ trách nhiệm trực tiếp đối
với người gửi tiền và gián tiếp đối với sự phát triển ổn định và
bền vững của hoạt động ngân hàng.
Các nội dung cơ bản của chính sách BHTG cho phép ngân

hàng thực hiện trách nhiệm với người gửi tiền - đối tượng tin
tưởng trao tài chính của mình cho ngân hàng kinh doanh. Điều
kiện tham gia BHTG, loại tiền gửi được bảo hiểm, phí bảo hiểm,
hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, quy trình, thủ tục chi trả,
hoạt động giám sát, kiểm tra của tổ chức BHTG, phổ cập chính
sách BHTG, và tổ chức BHTG tham gia giải quyết khó khăn cho
ngân hàng huy động tiền gửi là những nội dung cốt lõi của
chính sách BHTG. Mức độ thực hiện các nội dung này phản ánh
mức độ đáp ứng tiêu chí đạo đức và trách nhiệm xã hội của
hoạt động ngân hàng, xét trên góc độ người gửi tiền.
Tham gia BHTG là điều kiện bắt buộc đối với tất cả các
ngân hàng có huy động tiền gửi. Quy định này loại bỏ rủi ro
chọn nhầm đối tượng trong tham gia BHTG. Thông thường,
ngân hàng hoạt động an toàn, lợi nhuận ổn định sẽ có khuynh
hướng không muốn tham gia BHTG để giảm chi phí. Ngược lại,
ngân hàng hoạt động với độ rủi ro cao hơn, uy tín trên thị


trường đang trong quá trình củng cố và xây dựng, mong muốn
tham gia BHTG để cải thiện hình ảnh, tăng cường niềm tin từ
cộng đồng, tăng khả năng huy động tiền gửi. Với quy định bắt
buộc các ngân hàng có huy động tiền gửi phải tham gia BHTG,
hai loại ngân hàng này đều bình đẳng về trách nhiệm tham gia
BHTG.
Nguồn thu phí BHTG từ tất cả các ngân hàng thành viên
hình thành nên quỹ BHTG, được dùng để chi trả cho người gửi
tiền trong tình huống có ngân hàng đóng cửa mà không đủ khả
năng trả tiền gửi và các trách nhiệm tài chính khác cho khách
hàng. Hơn nữa, với sự tham gia của tất cả các ngân hàng có
huy động tiền gửi, quỹ BHTG sẽ có khả năng chi trả cho số

lượng lớn người gửi tiền ở ngân hàng đóng cửa. Điều này giảm
đáng kể khả năng rủi ro xảy ra ở diện rộng, liên quan tới nhiều
ngân hàng.
Loại tiền gửi được bảo hiểm thông thường được thiết kế
tùy thuộc vào mức độ phát triển hoạt động ngân hàng của mỗi
quốc gia. Đối với quốc gia có hệ thống ngân hàng phát triển lâu
đời, chuẩn hóa, đồng tiền quốc gia có tính chuyển đổi ở mức
cao, có thương hiệu trên thị trường và nhu cầu bảo vệ đồng nội
tệ không đặt ra nhiệm vụ lớn cho Hệ thống Ngân hàng Quốc
gia, loại tiền gửi được bảo hiểm có thể xem xét tới ngoại tệ. Cho
tới nay, tiền gửi là ngoại tệ chưa được nhiều quốc gia xem xét
đưa vào danh sách tiền gửi được bảo hiểm. Hầu hết các quốc
gia triển khai chính sách BHTG đều tập trung sự bảo vệ đối với
đồng tiền nội địa, là cơ sở bền vững cho ổn định kinh tế, chính
trị và xã hội.
Phí bảo hiểm tiền gửi được xác định theo hai hình thức: Phí
tham gia (phí thành viên) thường được tính và nộp vào thời
điểm ngân hàng được chấp nhận tham gia BHTG, và phí đóng
góp thường xuyên. Hình thức phí thành viên rất ít được áp
dụng, phổ biến là phí đóng góp thường xuyên. Có hai cách tính
phí thường xuyên, đó là tính theo một tỷ lệ đồng hạng cho tất
cả các ngân hàng tham gia BHTG và tính theo tỷ lệ phân biệt
theo mức độ rủi ro được đánh giá cho từng ngân hàng. Trong
giai đoạn mới triển khai BHTG, hầu hết các quốc gia đều lựa
chọn tỷ lệ phí đồng hạng để tính mức phí phải đóng của mỗi
ngân hàng. Việc áp dụng tỷ lệ phí đồng hạng cho thấy yếu tố
đáp ứng trách nhiệm xã hội, bởi nếu có sự phân biệt trong mức
phí áp dụng sẽ tạo nên phản ứng thiếu tích cực trên thị trường.
Ngân hàng bị áp dụng phí cao sẽ là tín hiệu cho hoạt động ở
mức độ rủi ro cao hơn. Độ trễ trong áp dụng phí phân biệt theo



rủi ro cho phép ngân hàng khó khăn có lộ trình vươn lên và
nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính sách BHTG.
Hạn mức chi trả BHTG phản ánh mức độ bồi thường cho
người gửi tiền khi ngân hàng không có khả năng hoàn trả tiền
gửi tức thì. Hạn mức chi trả được xác định dựa trên mức thu
nhập bình quân đầu người, mức độ lạm phát, và mức độ đáp
ứng giao động từ 80 - 90% số người gửi tiền tại ngân hàng. Hơn
nữa, hạn mức chi trả được xác định trả ngay tức thì cho người
gửi tiền với số lượng tiền trong hạn mức. Số tiền gửi vượt hạn
mức sẽ được xem xét trả trong giai đoạn thanh lý tài sản của
ngân hàng đóng cửa. Như vậy, trật tự ưu tiên trong sử dụng quỹ
BHTG là để chi trả tiền gửi của người có ít tiền. Điều này thể
hiện rõ đặc tính ưu tiên đáp ứng trách nhiệm xã hội của chính
sách. Yeung (2011) đánh giá đảm bảo quyền lợi cho người gửi
tiền thông qua hạn mức chi trả và thủ tục chi trả thuận lợi, công
khai minh bạch là một trong số yếu tố cơ bản đáp ứng trách
nhiệm xã hội của ngân hàng.
Quy trình, thủ tục chi trả tiền bảo hiểm được quy định chi
tiết, cụ thể và công khai. Các tổ chức BHTG luôn nỗ lực chi trả
tiền bảo hiểm nhanh nhất có thể để đảm bảo đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của chủ tiền gửi, hạn chế thấp nhất lo lắng và phiền hà
cho người gửi tiền. Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy, tổ chức BHTG
Mỹ khi nhận được thông tin ngân hàng có khó khăn và có thể
dẫn tới tình trạng đóng cửa, cần được chi trả BHTG cho người
gửi tiền, tổ chức BHTG Mỹ tiếp cận ngay lập tức hệ thống sổ
sách của ngân hàng, nhanh chóng xác nhận đối tượng, mức độ
và phương thức chi trả tiền bảo hiểm; cố gắng thu xếp cho
ngân hàng khó khăn tuyên bố đóng cửa vào cuối ngày thứ 6

của tuần làm việc. Tổ chức BHTG Mỹ sẽ tiến hành chi trả cho
người gửi tiền vào đầu ngày thứ 2 tuần làm việc kế tiếp. Với
cách thức như vậy đã hạn chế tối đa mức độ gián đoạn tiếp cận
tiền gửi của người gửi tiền cho chi tiêu sinh hoạt. Với thiết kế
như vậy, trách nhiệm xã hội của ngân hàng đóng cửa được tổ
chức BHTG phối hợp hoàn thành ở mức độ cao nhất, giảm thiểu
được mức độ gián đoạn tiếp cận tài chính của người gửi tiền,
giảm ảnh hưởng lan truyền về tâm lý đối với người gửi tiền ở
ngân hàng khác.
Hoạt động giám sát, kiểm tra của tổ chức BHTG đối với tổ
chức tham gia BHTG là hoạt động nòng cốt, cho phép tổ chức
BHTG đóng góp trực tiếp vào giảm thiểu rủi ro phát sinh trong
hoạt động ngân hàng. Tùy vào mức độ triển khai và phát triển
chính sách BHTG của mỗi quốc gia mà chức năng kiểm tra và


giám sát được xây dựng, đảm bảo tính đồng bộ trong giám sát
hoạt động ngân hàng, tránh chồng chéo với các thiết chế khác
trong mạng lưới an toàn hoạt động ngân hàng quốc gia. Thành
công của tổ chức BHTG ở Mỹ được đánh giá cao, trong đó có
đóng góp đáng kể của hoạt động giám sát và kiểm tra của tổ
chức này. Nội dung giám sát và kiểm tra có bao gồm yếu tố xác
định loại tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm liên
quan tới đội ngũ nhân sự quản lý ngân hàng huy động tiền gửi
là tiêu chí đáp ứng tính minh bạch, đạo đức và thực thi trách
nhiệm xã hội của người quản lý trong điều hành ngân hàng mà
họ có gửi tiền.
Hoạt động phổ cập chính sách BHTG được tổ chức BHTG
chủ trì triển khai dưới nhiều hình thức và bao gồm nhiều đối tác
cùng tham gia. Mức độ phổ cập nội dung chính sách BHTG

quyết định tới tác dụng và hiệu quả triển khai chính sách. Các
biểu hiện hoang mang, mất niềm tin, hiệu ứng đám đông bất
lợi… khi có thông tin bất lợi về hoạt động ngân hàng sẽ được
kiểm soát và hạn chế nếu nội dung chính sách BHTG được phổ
cập cụ thể, sâu rộng tới công chúng.
Yếu tố nhắc đến cuối cùng nhưng không kém phần quan
trọng trong thực thi tính đạo đức và trách nhiệm xã hội là quá
trình tổ chức BHTG tham gia giải quyết khó khăn cho ngân
hàng huy động tiền gửi. Khi ngân hàng có khó khăn, tổ chức
BHTG là kênh hỗ trợ đắc lực, sẽ triển khai các hoạt động hỗ trợ
cần thiết để khắc phục, chuyển giao xử lý khó khăn. Tổ chức
BHTG có thể cho vay hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng có khó
khăn, kiểm tra phát hiện sai phạm, phối hợp tìm đối tác chuyển
giao (mua lại) ngân hàng và cuối cùng có thể đảm trách là
người điều hành chèo lái ngân hàng có khó khăn (triển khai
ngân hàng bắc cầu)... Những hoạt động này có tác dụng trực
tiếp giải quyết khó khăn của ngân hàng trước, trong và sau khi
chi trả BHTG, góp phần giải quyết tối ưu quyền lợi của người gửi
tiền, chủ nợ và cổ đông của ngân hàng.
Tính hiệu quả của chính sách BHTG tùy thuộc vào mức độ
khởi xướng, phát triển và vai trò được thiết kế của công cụ này
ở mỗi quốc gia. Cho tới nay, tổ chức BHTG Mỹ được đánh giá là
hình mẫu có hiệu quả vượt trội trong giải quyết khó khăn ngân
hàng. Là công cụ đã đảm bảo không một người gửi tiền nào của
ngân hàng Mỹ bị mất tiền khi ngân hàng gặp khó khăn từ năm
1934 tới nay. Đồng thời, công cụ này cũng được đánh giá là giải
pháp góp phần giảm đáng kể số lượng ngân hàng Mỹ đóng cửa
từ khi triển khai chính sách BHTG phổ cập ở Mỹ. Thành công



của công cụ BHTG có thể được đánh giá ở nhiều góc độ, hơn
hết và trước tiên, khi hầu hết người gửi tiền được bảo vệ quyền
lợi, dòng lưu chuyển tài chính của nền kinh tế không bị gián
đoạn, khó khăn ngân hàng không bị trầm trọng hơn, có thể
khẳng định công cụ BHTG đã góp phần thực hiện tối ưu trách
nhiệm xã hội của hoạt động ngân hàng, xét trên góc độ người
gửi tiền.
Tài liệu tham khảo
Febelfin VZW/asb (2012), What do we mean by corporate social
responsibility
and
socially
responsible
banking?
/>History of banking, (2018), />%C3%A2n_h%C3%A0ng
McDonald, Lynette M. (2015) Corporate Social Responsibility
(CSR) in banking: what we know, what we don't know, and what
we should know
Richardson, M. & Chapman, S.(2011), Key Concepts in VCE,
Business Management (2nd ed), Jacaranda Plus Queensland
Quan N. T., Thuy T. L. và Huynh L. N. T. (2017), Perception of
Bank
Customers
towards
Banking
Corporate
Social
Responsibility in Vietnam, International Research Journal of
Finance and Economics ISSN 1450-2887 Issue 161,
May,ernationalresearchjournaloffinanceandecono

mics.com
Yeung, S. (2011). The role of banks in corporate social
responsibility, Journal of Applied Economics and Business
Research, 1(2), 103-115



×