Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.52 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI …………………. 3
1. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi………………………………… 3
2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi ………………………………. 4
3. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi ………………………………. 6
4. Mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi ……………………… 7
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ……………………………………8
1. Trên phương diện về tổ chức mạng lưới và …………………….. 8
2. Trên phương diện cấp và thu hồi giấy chứng ……………………9
3. Về công tác theo dõi, kiểm tra và giám sát việc ………………. 10
4. Trong hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG ………… 12
5. Đối với việc thu phí BHTG và quản lý, đầu tư ………………...12
6. Đối với việc chi trả và tham gia thanh lý …………………….. 13
7. Đối với hoạt động thông tin tuyên truyền ……………………..14
8. Đối với việc phát triển công tác ………………………………..14
III. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM
TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ………………15
1.Về đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi………………………16
2.Về người được bảo hiểm và khoản tiền gửi ………………….. 18
3. Về mức phí bảo hiểm tiền gửi ……………………………… 20
KẾT LUẬN …... ……………………………………………………… 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………… 23
BÀI LÀM
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với nhiều
rủi ro tiềm ẩn như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng
thanh toán… Vì vậy việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt
động yếu kém là điều khó tránh khỏi. Đối với nền kinh tế, việc xử lý những
hậu quả do quá trình kinh doanh không thành công của các tổ chức tín dụng
không đơn giản chỉ là tuyên bố phá sản tổ chức này hay tổ chức kia mà trước
hết nó làm tổn thương đến niềm tin của dân chúng. Nếu không có những


biện pháp thích hợp sẽ còn gây ra những bất ổn khôn lường về kinh tế chính
trị, xã hội, gây hoang mang giao động trong dân chúng và tạo ra tâm lý bất
lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, bên cạnh
sự ổn định về chính trị xã hội thì việc bảo đảm cho một nền kinh tế phát
triển an toàn, lành mạnh luôn là một mục tiêu và là nhiệm vụ quan trọng đối
với mỗi quốc gia. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao giữ được lòng tin của dân
chúng? làm sao giữ được ổn định cho hoạt động tín dụng?
Nhận thức rõ được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta đã đưa ra những chính
sách cũng như ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo ra một môi trường
lành mạnh, an toàn cho hoạt động tài chính – tiền tệ. Riêng đối với ngành
ngân hàng, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng,
Chính phủ cũng đã ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh
một nghiệp vụ mới ở Việt Nam, đó là nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Qua việc
học hỏi kinh nghiệm về mô hình, tổ chức quản lý về bảo hiểm tiền gửi của
các quốc gia trên thế giới, lần đầu tiên tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của
Thủ tướng chính phủ. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện nhiệm
vụ bảo hiểm trên cơ sở pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày
01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và nghị định 109/2005/NĐ-
CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 89/1999/NĐ-CP, cùng các văn bản hướng dẫn. Trong thời gian
qua, cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã thể
hiện được nhiều ưu điểm. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh
tế thế giới đang ngày càng có sự liên kết, hội nhập, kinh tế đất nước đang
ngày càng phát trển, đời sống nhân dân được nâng cao…thì Nghị định của
Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và các văn
bản hướng dẫn vẫn còn những điểm cần được sửa đổi bổ sung để hoàn thiện
hơn trong thời gian tới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) thì riêng đối với ngành ngân hàng, yêu cầu an
toàn, phát triển lành mạnh, ổn định lại càng cần phải được đặt ra. Việc

nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý của hoạt động bảo
hiểm tiền gửi mang một ý nghĩa thời sự nóng bỏng. Bởi lý do trên mà tôi
quyết định chọn vấn đề “ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền
gửi tại các ngân hang thương mại và những đánh giá, nhận xét của tác giả về
vấn đề nêu trên.
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi ( BHTG ) là một nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện
từ lâu trên thế giới, đặc biệt là ở các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, khái
niệm BHTG còn khá mới mẻ ở nước ta.
Vậy BHTG là gì ? Tại sao lại có BHTG ? Đặc điểm của nó ra sao ?
Tầm quan trọng và bản chất pháp lý của nó ? Trước khi làm rõ được vấn đề
đó cần thiết phải làm rõ khái niệm tiền gửi - đối tượng của hoạt động bảo
hiểm này.
Xét về mặt thuật ngữ, đơn thuần BHTG là một loại hình bảo hiểm có
đối tượng bảo hiểm chính là “tiền gửi”.
Tại khoản 9, Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng ( TCTD) có đưa ra
định nghĩa về tiền gửi như sau : “ Tiền gửi là số tiền của khách hang gửi tại
TCTD dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được
hưởng lãi và phải hoàn trả cho người gửi tiền”
Như vậy BHTG chính là bảo hiểm cho số tiền mà khách hang đang
gửi tiền tại các TCTD và tổ chức khác có hoạt động ngân hang.
Trên phương diện pháp lý thì “ tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát sinh
giữa một bên tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là các tổ chức được phép
nhận tiền gửi. Theo đó các bên thoả thuận, bên gửi tiền chuyển giao cho bên
kia nhận tiền gửi một số tiền nhất định, bên nhận tiền gửi có trách nhiệm
quản lý và được quyền sử dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng và làm các
dịch vụ ngân hang khác có trách nhiệm hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số
tiền gửi này cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc khi người gửi tiền yêu cầu.

Ngoài ra, các bên còn có thể cam kết thoả thuận việc cung cấp dịch vụ thanh
toán hoặc trả lãi cho số tiền gửi đó.
Xét về bản chất, quan hệ gửi tiền là một quan hệ hợp đồng vay nợ.
Bởi vì quan hệ này được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do
thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ. Người gửi tiền chuyển giao một
lượng tiền cho tổ chức nhận tiền để tổ chức này quản lý, sử dụng và sau đó
tổ chức nhận tiền gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người gửi tiền khi đến
hạn hoặc khi người gửi tiền có yêu cầu.Quan hệ tiền gửi được phát sinh trên
cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên.
2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
Tuy quan hệ tiền gửi là quan hệ vay nợ nhưng bên cạnh đó nó cũng có
những đặc điểm riêng biệt cụ thể :
Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ tiền gửi bao gồm hai loại chủ thể là
người gửi tiền và tổ chức nhận tiền gửi.
- Người gửi tiền là các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế,
mọi tầng lớp trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có tiền để gửi, họ luôn đóng
vai trò là chủ thể cho vay.
- Tổ chức nhận tiền gửi là các TCTD và các tổ chức khác có hoạt
động ngân hang được Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi
của công chúng.
Thứ hai, về hình thức quan hệ tiền gửi được xác lập giữa các chủ thể
theo một cách thức riêng, mang tính kỹ thuật nghiệp vụ chuyên biệt nhằm
bảo đảm tính tiện lợi, đơn giản, nhanh chóng mà vẫn đầy đủ các nội dung
cần thiết của một hợp đồng vay nợ. Mặc dù các bên xác lập quan hệ tiền gửi
không bằng một văn bản hợp đồng cụ thể, đầy đủ, nhưng nội dung cam kết
của các bên được ghi nhận trong các văn bản, tài liệu giao dịch do tổ chức
nhận tiền gửi cung ứng theo mẫu định sẵn.
Thứ ba, về mục đích : Trong quan hệ tiền gửi các bên đều hưởng việc
thu được những lợi ích nhất định cho mình. Tuy nhiên, mục đích cụ thể của
mỗi bên có khác nhau, thậm chí trong mỗi loại tiền gửi khác nhau thì mục

đích của người gửi tiền cũng khác nhau.
- Đối với tổ chức nhận tiền gửi, mục đích của việc nhận tiền gửi là
nhằm huy động vốn để sử dụng cho mục đích kinh doanh của mình là cấp tín
dụng, hoặc thực hiện các dịch vụ ngân hang cho khách hang. Chính vì điều
này , tổ chức nhận tiền gửi được gọi là trung gian tài chính, hoạt động kinh
doanh theo phương thức “đi vay để cho vay”, thực hiện vai trò là cầu nối
giữa cung và cầu nối.
- Đối với người gửi tiền thì việc tham gia quan hệ tiền gửi là nhằm
mục đích để bảo đảm an toàn cho tiền vốn hoặc để đồng vốn sinh lợi khi
chưa có nhu cầu sử dụng hoặc để nhằm vào việc hưởng những dịch vụ tiện
ích do tổ chức nhận tiền gửi cung ứng như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền ..
Người gửi tiền có thể hưởng tới một hoặc cả ba mục đích trên. Tuy nhiên, họ
vẫn có một mục đích chính, điều đó thể hiện thông qua việc người gửi tiền
lựa chọn hình thức gửi tiền hay loại tiền gửi. Chẳng hạn, một cá nhân gửi
tiền tiết kiệm không kỳ hạn thì mục đích chính của họ không phải để hưởng
lãi hay hưởng dịch vụ thanh toán do ngân hang cung cấp mà mục đích của
họ là để bảo đảm an toàn số tiền của mình, khi cần có thể rút được ngay để
sử dụng. Nếu họ gửi tiết kiệm có kỳ hạn tương đói dài hạn thì mục đích
chính của họ là để hưởng lãi.
3. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi.
BHTG là một hoạt động ra đời như một yêu cầu tất yếu khách quan,
đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội. Người gửi tiền có được sự yên tâm
khi tham gia giao dịch với các ngân hang, khi họ biết chắc chắn số tiền số
tiền mình gửi sẽ được hoàn trả một khi rủi ro xảy ra dẫn đến đổ vỡ ngân
hang. Các tổ chức huy động tiền gửi được đảm bảo an toàn một cách hữu
hiệu khi tham gia BHTG, đồng thời huy động được nhiều hơn nữa lượng
vốn nhàn rỗi trong xã hội, qua đó phát huy vị thế của mình trong hoạt động
tài chính - tiền tệ nói riêng và trong cả nền kinh tế nói chung, BHTG ra đời
còn là một biện pháp quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động ngân
hang trong chiến lược ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội. Trên cơ sở

các quy định pháp luật Nhà nước xây dựng và triển khai mô hình BHTG để
đáp ứng các đòi hởi khách quan của nền kinh tế, một mặt đảm bào an toàn
trong hệ thống ngân hang, mặt khác hướng tới một mục tiêu cao hơn, sự ổn
định nền kinh tế của cả một quốc gia.
Như vậy, ở góc độ khái quát, có thể hiểu : “ BHTG là một loại hình
bảo hiểm đối với hoạt động ngân hang, theo đó tất cả các tổ chức có huy
động tiền gửi của cá nhân phải tham giá đóng phí bảo hiểm cho tổ chức
BHTG theo quy định. Khi xảy ra sự kiện, tổ chức BHTG có trách nhiệm
thay cho các tổ chức huy động tiền gửi chi trả các khoản tiền gửi được bảo
hiểm của các cá nhân gửi tiền tại các tổ chức đó.
4. Mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi
Trong thực tế, mục đích cụ thể của mỗi hệ thống BHTG có khác nhau
nhưng tựu chung lại đều nhằm đạt được 4 mục tiêu.
Thứ nhất, BHTG bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, đối tượng có những
hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin điều hành và tình hình hoạt
động của các tổ chức tài chính.
Thứ hai, BHTG góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và
tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng
tránh đổ vỡ ngân hang.
Thứ ba, BHTG góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh
và đảm bảo cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác
nhau.
Thứ tư, BHTG góp phần đảm bảo cho sự phát triển an toàn, lành
mạnh, để từ đó hướng tới một mục tiêu cao hơn duy trì tính ổn định và phát
triển kinh tế xã hội quốc gia.
Vai trò nổi bật của BHTG là có tác dụng thúc đẩy sự kết hợp hài hoà
giữa nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động ngân hang, hướng tới thu hút
được nguồn vốn tối đa tạm thời nhàn rỗi trong cộng động, và sự công tác của
các thành viên trong xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi. Như vậy, vai trò
của BHTG được thể hiện trong mối quan hệ giữa người gửi tiền, tổ chức huy

động tiền gửi và nền kinh tế quốc gia.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Có mặt trên thị trường Tài chính không lâu, tổ chức BHTG ở nước ta
được biết đến với tư cách là một tổ chức tài chính thay mặt Chính phủ bảo
vệ người gửi tiền và duy trì sự an toàn của các TCTD . Tầm vóc của BHTG
cũng lớn lên nhiều, quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng với các bước
đi và tầm nhìn dài hạn DIV cũng luôn chủ động nghiên cứu triển khai các
nghiệp vụ mới trên cơ sở đón đầu các xu hướng tiên tiến và thông lệ quốc tế
phù hợp với Việt Nam để có thể đảm nhiệm tốt nhất sứ mệnh của một tổ
chức tài chính vì sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường mở
cửa và hội nhập. Hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam đã đi vào cuộc
sống với nhiều thành tích đáng kể, song vẫn còn tồn tại những khó khăn hạn
chế, cụ thể trên những phương diện sau :
1. Trên phương diện về tổ chức mạng lưới và cơ sở pháp lý cho hoạt
động của tổ chức BHTG Việt Nam.
BHTG Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận, là định chế tài chính quan trọng và duy nhất trong lĩnh
vực BHTG được Chính phủ thành lập, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD,
đảm bảo sự phát triển lành mạnh, an toàn cho hoạt động ngân hang. Tuy mới
đi vào hoạt động không lâu, DIV đã hình thành một mạng lưới các chi
nhánh, hoạt động trên phạm vi các nước, với bộ máy tổ chức ngày càng hoàn
thiện, gồm trụ sở tài chính tại Hà Nội và 6 chi nhánh tại các khu vực kinh tế
trọng điểm của đất nước : Chi nhánh khu vực Hà Nội - trụ sở tại Thành phố
Hồ Chí Minh ( tháng 12/2000), Chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ - trụ sở tại
Thành phố Hải Phòng ( tháng 12/2001), Chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ -
trụ sở tại Thành phố Vinh - Nghệ An ( tháng 09/2002), Chi nhánh đồng bằng
song Cửu Long - trụ sở tại Thành phố Cần Thơ ( tháng 06/2001), Chi nhánh
khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên - trụ sở tại Thành phố Nha Trang

tháng 09/2001. Trên cơ sở chiến lược phát triển của mình, BHTG Việt Nam
đang triển khai thực hiện kế hoạch tái cấu trúc bộ máy theo định hướng lấy
khách hang làm tâm điểm, quản lý tập trung từ trụ sở chính đến các chi
nhánh, tập trung nguồn nhân lực cho các hoạt động nghiệp vụ nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới của BHTG Việt Nam. Năm 2007, BHTG Việt Nam đã hoàn
thành tái cấu trúc bộ máy chi nhánh khu vực. Từ tháng 2 năm 2003, DIV trở
thành thành viên của Hiệp hội HHTG quốc tế; DIV đã giữ vị trí phó chủ tịch
khu vực Châu Á nhiệm kỳ 2006 – 2007; DIV cũng là thành viên Hiệp hội
ngân hang Việt Nam, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
Các chi nhánh của BHTG Việt Nam được đặt ở các địa bàn kinh tế
trọng điểm của đất nước, nơi có hoạt động tài chính – ngân hang diễn ra sôi
nổi. Với việc mở rộng chi nhánh trên cả nước, BHTG Việt Nam đã thực sự
dễ dàng hơn trong việc kiểm tra giám sát hệ thống ngân hang trên phạm vi
cả nước, từ đó thực hiện có hiệu quả hơn hoạt động của mình, góp phần đảm
bảo sự an toàn cho cả hệ thống tín dụng.
Cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động BHTG Việt Nam đã bước đầu
được hoàn thiện, tuy nhiên văn bản quy phạn pháp luật về BHTG cao nhất
đang ở mức Nghi định của Chính phủ, chưa có Luật về BHTG tương xứng
với các Luật điều chỉnh hoạt động tài chính - tiền tệ ở nước ta như : Luật
ngân hang Nhà nước Việt Nam, Luật của các TCTD.
2. Trên phương diện cấp và thu hồi giấy chứng nhận BHTG cho các
tổ chức tham gia BHTG Việt Nam.
Thực hiện cấp giấy chứng nhận BHTG để các tổ chức tham gia BHTG
công khai niêm yết tại trụ sở và các điểm giao dịch có nhận tiền gửi của
khách hang, giúp khách hang nhận biết được sự đảm bảo quyền lợi của mình

×