Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Sở thích rủi ro và rủi ro tín dụng vi mô Một nghiên cứu thí nghiệm tại Vùng đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.44 KB, 11 trang )

Sở thích rủi ro và rủi ro tín dụng vi mô - Một nghiên cứu thí nghiệm tại
Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nghiên cứu này thực hiện nhằm xem xét tác động của sở thích rủi ro tới rủi ro tín
dụng vi mô thông qua các thí nghiệm kinh tế với các chủ thể tham gia là những người vay
vốn tài chính vi mô tại một số khu vực ở Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy, sở thích rủi ro có tác động đến rủi ro tín dụng vi mô. Cụ thể, Những
người tìm kiếm rủi ro càng cao càng ít có khả năng bị nợ xấu, trong khi những người càng e
ngại rủi ro sẽ có khả năng bị nợ xấu lớn hơn. Đây cũng là cơ sở quan trọng để nhóm nghiên
cứu có những hàm ý chính sách phù hợp.

1. Tổng quan
Về sở thích rủi ro và rủi ro tín dụng vi mô
Thị trường tín dụng là một thị trường không hoàn hảo, luôn có sự bất đối xứng giữa
người vay và người cho vay. Stiglitz và Weiss (1981) kết luận rằng sự thất bại của thị
trường tín dụng là do con nợ có xu hướng muốn đầu tư vào những công việc, những
dự án có nhiều rủi ro và đây cũng là một "lệch lạc động cơ" (disincentive) trong việc
quyết định đầu tư. Có nghĩa là người vay có nợ xấu họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để
vay những món vay lãi suất cao, mặc dù họ biết có rủi ro. Chính vì vậy, đây cũng là
một vấn đề đặc biệt quan trọng và cần phải quan tâm khi hoạch định các chính sách
cho vay đối với các TCTD nói chung. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng vi mô,
người nghèo thường được coi là quá mạo hiểm và thiếu kiên nhẫn đối với các dịch vụ
truyền thống của ngân hàng (Banerjee và Mullainathan, 2010). Theo Binswagner
(1980), người vay không trả được khoản nợ vay do các quyết định đầu tư rủi ro và ít
kiên nhẫn cho tương lai.
Tuy nhiên, thí nghiệm của Zeballos và cộng sự (2014) tại Bolivia cho thấy những
người vay không có nợ xấu tìm kiếm rủi ro nhiều hơn là người vay có nợ xấu. Kết
quả này trái với giả thuyết của Stiglitz và Weiss (1981). Có nghĩa là người vay nợ có
vấn đề chưa chắc đã là những người mà họ đầu tư vào những dự án kém rủi ro hơn.
Người nghèo không trả được nợ vay của họ bởi vì họ không đánh giá hết các khả



năng rủi ro có thể xảy ra, do đó làm cho khoản vay không có hiệu quả và kết quả là
không thể trả lại khoản vay của họ (Zeballos và cộng sự, 2014).
Zeballos và cộng sự (2014) đã sử dụng thí nghiệm tại hiện trường thực tế để
kiểm tra những người mạo hiểm thích sử dụng, chi tiêu toàn bộ lợi nhuận hay
đầu tư vào một khoản đầu tư rủi ro. Kết quả họ không tìm thấy bằng chứng
cho rằng những người vay có rủi ro thích đầu tư mạo hiểm hơn, mà thay vào
đó phát hiện ra rằng họ sẽ sử dụng các khoản vay của họ vào mục đích khác
hơn là đầu tư vào một dự án an toàn. Eckel và Grossman (2008) thí nghiệm
bằng các lựa chọn trò chơi đơn giản để đo lường phản ứng đối với rủi ro và
vận dụng đo lường này để kiểm tra sự khác nhau về thái độ đối với rủi ro của
nam và nữ sinh viên đại học. Kết quả nữ sinh viên ngại rủi ro hơn đáng kể so
với nam sinh viên.
Giné và cộng sự (2010) nghiên cứu vùng ngoại ô ở Peru khám phá rằng cho
vay theo nhóm có rủi ro cao hơn so với cho vay cá nhân. Vay theo nhóm làm
tăng việc chấp nhận rủi ro đặc biệt đối với người vay e ngại rủi ro. Người vay
được hưởng lợi nhưng do có bảo hiểm tránh được rủi ro mất mát, nhưng chi
phí cũng phát sinh từ những người vay khác đặc biệt là những người e ngại rủi
ro nhiều nhất.
Binswanger (1980) nghiên cứu ở vùng bán nhiệt đới của Ấn Độ (SAT) để đánh
giá tác động của rủi ro và e ngại rủi ro đối với nông nghiệp. Kết quả không có
sự khác biệt về rủi ro so với quy mô đầu tư, cũng không có sự khác biệt đáng
kể về e ngại rủi ro giữa người giàu và người nghèo. Những người ở khu vực có
nhiều rủi ro sẽ e ngại rủi ro hơn những người ở khu vực ít rủi ro, những người
nông dân tiến bộ ít ngại rủi ro hơn người nông dân bình thường và phụ nữ e
ngại rủi ro hơn nam giới.
Vieider và cộng sự (2015) nghiên cứu 504 hộ gia đình ở 36 làng (được
chọn từ 110 làng bởi Viện nghiên cứu Phát triển của Ethiopia-EDRI) thuộc 3
vùng cao ở Ethiopia, với độ tuổi trung bình 42,13 trong đó nam chiếm tỷ lệ
89,9%, 91% làm trong lĩnh vực nông nghiệp, 45% có trình độ sơ cấp và 38%
mù chữ đã kết luận rằng những người chưa lập gia đình (chiếm 9% trong mẫu)

ít e ngại rủi ro và phụ nữ và người già lớn tuổi e ngại rủi ro nhiều hơn.


Harrison và Rustrom (2018) nghiên cứu thí nghiệm trong phòng thí nghiệm
thấy rằng các đối tượng dường như e ngại rủi ro: Một số có khuynh hướng
trung lập và một số ít biểu lộ hành vi thích rủi ro tuy nhiên mức độ e ngại rủi
ro là không lớn.
Nghiên cứu về sở thích rủi ro tại các vùng nông thôn ở Việt Nam của Vieider và
cộng sự (2013) kết quả cho thấy, người nông dân nghèo trung lập với rủi ro ở mức
trung bình (average risk neutral). Kết quả thí nghiệm của Vieider cũng cho thấy
tính né tránh rủi ro có tương quan ngược chiều với thu nhập. Nông dân tại các
vùng nông thôn miền Bắc và miền Nam Việt Nam theo nghiên cứu thí nghiệm của
Tanaka và cộng sự (2010) về sở thích rủi ro và tính kiên nhẫn kết quả cho thấy
người có thu nhập trung bình cao thì kiên nhẫn và quan tâm về tương lai nhiều
hơn là người nghèo.
Tóm lại, các nghiên cứu về sở thích rủi ro liên quan đến nhiều đối tượng và lĩnh
vực như chứng khoán, giáo dục, TDVM, sản xuất, tiêu dùng... Về không gian thì
bao gồm ở nhiều khu vực khác nhau. Kết quả cũng cho thấy có nhiều sự khác biệt
đối với các đối tượng, địa bàn cũng như các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, tác
động của sở thích rủi ro đối với rủi ro cho vay TDVM và hoạt động TCVM tại
Việt Nam thì chưa có nghiên cứu nào đề cập và đánh giá một cách chi tiết và cụ
thể. Vậy sở thích rủi ro (risk preference) cũng như các yếu tố xã hội-nhân khẩu
học khác của người vay vốn vi mô có ảnh hưởng như thế nào đến rủi ro trong hoạt
động cho vay TDVM của các TCTD có hoạt động cho vay TDVM và các tổ chức
TCVM? Đây là chính là vấn đề nghiên cứu mà tôi quan tâm, trong đó có xem xét
và đánh giá đến sự khác biệt về sở thích rủi ro trong hoạt động TDVM giữa khu
vực thành thị và nông thôn.

2. Thiết kê nghiên cứu
Phương pháp định tính.

Thông qua bảng câu hỏi thiết kế sẵn, tác giả đã trực tiếp phỏng vấn 188 khách
hàng vay vốn vi mô đã chọn trong khu vực 6 tỉnh ĐBSCL tại hiện trường để nắm
bắt tất cả các thông tin về xã hội học và nhân khẩu học để phục vụ cho quá trình


nghiên cứu. Đồng thời cũng tham khảo ý kiến các chuyên gia, các lãnh đạo cấp
cao của NHNN và các TCTD khác trong địa bàn để tham khảo về hoạt động tín
dụng, khách hàng tại các khu vực, địa bàn ... phục vụ cho quá trình khảo sát.
Phương pháp định lượng - Thí nghiệm kinh tế
Trước khi tiến hành các thí nghiệm kinh tế, tác giả sẽ phỏng vấn sơ bộ những
người hiện có vay nợ TCVM (như trên). Tác giả chọn mẫu ngẫu nhiên bao
gồm 188 người vay vốn TDVM, được phân bổ khá đồng đều trên 7 địa bàn
sau: huyện Cần Đước (tỉnh Long An), huyện Ba Tri (tỉnh Bến Tre), thành phố
Bến Tre (tỉnh Bến Tre), thành phố Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang), huyện Giồng
Riềng (tỉnh Kiên Giang), thành phố Vĩnh Long (tỉnh Vĩnh Long) và thành phố
Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang). Việc chọn mẫu ngẫu nhiên được thực hiện bởi các
cán bộ tín dụng hiện công tác tại địa phương (xã, ấp), NHCSXH, Agribank và
các NHTM có tham gia hoạt động TCVM tại các địa phương.
Trong quá trình thu thập số liệu, tác giả nhận thấy có một số cá nhân và hộ gia
đình có thực hiện đồng thời các khoản vay tại nhiều TCTD khác nhau. Về bản
chất, đây đều là các khoản vay vi mô nhưng tổng dư nợ vay của các khoản vay
này tại một thời điểm là khá lớn. Điều này sẽ có thể sẽ gây ra một số sai lệch
trong việc phản ánh tác động của các nhân tố đến rủi ro tín dụng của các hộ gia
đình. Chính vì vậy, tác giả sẽ tiến hành loại bỏ các quan sát này, cụ thể là sẽ loại
bỏ các quan sát mà có tổng dư nợ tín dụng tại 1 thời điểm trên 100 triệu đồng. Khi
đó, mẫu quan sát đạt yêu cầu sẽ còn lại 176 quan sát và tác giả sẽ thực hiện các
phân tích dựa trên 176 quan sát dữ liệu này.
Cách tổ chức thí nghiệm
Từng người tham gia sẽ đến gặp bàn người điều khiển (từ 3-4 bàn) để thu thập thông
tin về nhân khẩu học, sau đó sẽ chia khu vực tổ chức thí nghiệm. Mỗi nhóm điều

khiển gồm 3 người: Một trưởng nhóm, một thư ký ghi chép kết quả và một người phụ
giúp. Chính vì có chuẩn bị, sàng lọc cách tham gia, cách triển khai nên kết quả tương
đối chính xác như đã thiết kế và tính toán từ đầu.
Về căn cứ để xác định các mức tiền thưởng trong thí nghiệm
Về số tiền người tham gia thí nghiệm được nhận 100 ngàn đồng. Lý do tác giả
chọn số tiền này căn cứ vào số liệu thống kê khảo sát mức sống dân cư Việt Nam và
niên giám thống kê Việt Nam năm 2016 trong đó thu nhập bình quân 1 ngày/người


dao động trong khoảng 67 ngàn đồng - 133 ngàn đồng. Giá bình quân cắt lúa, vác lúa
mướn 1 ngày ở miền Tây khoảng 150 ngàn đồng - 200 ngàn đồng, chạy xe Honda
ôm khoảng 80 ngàn đồng - 100 ngàn đồng, lao động giản đơn khoảng 50 ngàn đồng 80 ngàn đồng (tổng hợp và tính toán của tác giả từ phỏng vấn khách hàng khi làm
thực nghiệm). Theo công bố khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam) ngày 12/07/2018, thu nhập bình quân của 1 công nhân may
chỉ khoảng 5,5 triệu đồng/tháng tức chỉ khoảng hơn 180 ngàn đồng/người/ngày, giá 1
kg gạo ở miền Tây trung bình khoảng 8 ngàn đồng - 10 ngàn đồng.
Cách thức và các bước thực hiện thí nghiệm.
Mỗi người tham gia thí nghiệm sẽ được nhận 100 ngàn đồng và họ sẽ tự lựa chọn 1
trong số 6 lựa chọn bất kỳ được liệt kê như trong bảng 1. Sau đó, người tham gia sẽ
được hướng dẫn rút 01 trong 02 thăm giấy trong đó 01 thăm giấy ghi chữ “Thắng” và
01 thăm giấy ghi chữ “Thua” đồng nghĩa với việc người tham gia thắng hoặc thua. Và
người tham gia sẽ nhận được số tiền khi thắng hoặc thua cũng được liệt kê ở trong
bảng lựa chọn. Với quyết định lựa chọn này, xác suất thắng hoặc thua của người tham
gia đều là 50%.
Bảng 1: Các lựa chọn của thí nghiệm
ĐVT: Đồng.
Tình

Số tiền bị


Số tiền nhận

Lựa chọn của

Kết quả rút

huống

mất khi

được khi

thăm (Thắng

thua

thắng

người tham gia
(đánh dấu X)

1

0

0

2

-20.000


+30.000

3

-40.000

+60.000

4

-60.000

+90.000

5

-80.000

+120.000

6

-100.000

+140.000

hoặc Thua)

Khi lựa chọn tình huống 1, người tham gia sẽ không gặp bất cứ rủi ro hay bất

trắc nào. Có nghĩa là thắng hay thua họ cũng không mất tiền và cũng không được
nhận thêm tiền. Đối với các tình huống rủi ro khi lựa chọn từ tình huống thứ 2 đến


tình huống thứ 6, nếu khi thắng, người tham gia sẽ nhận được số tiền gia tăng tương
ứng nhưng khi thua thì số tiền mất đi cũng sẽ gia tăng theo.
Mô hình hồi quy về thí nghiệm sở thích rủi ro và rủi ro tín dụng vi mô
Trong đó:
- là biến phụ thuộc, nhận giá trị bằng 1 nếu người đó có nợ xấu; nhận giá trị bằng 0
nếu người đó không có nợ xấu.
- là biến độc lập thể hiện đặc điểm lựa chọn trong thí nghiệm về sở thích rủi ro của
người tham gia (Ký hiệu STRR).
- là biến độc lập thể hiện đặc điểm tuổi của người tham gia.
- là biến độc lập thể hiện đặc điểm giới tính của người tham gia, nhận giá trị bằng 1
nếu người đó là nam, bằng 0 nếu người đó là nữ.
- là biến độc lập thể hiện đặc điểm trình độ học vấn của người tham gia. Biến trình
độ học vấn có 6 giá trị, bao gồm: Level 1: Chưa học hết cấp 1; level 2: Đã tốt nghiệp
cấp 1; level 3: Đã tốt nghiệp cấp 2; level 4: Đã tốt nghiệp cấp 3; level 5: Là công
nhân kỹ thuật, lao động có chứng chỉ nghề, trung cấp, cao đẳng; level 6: Trình độ đại
học và sau đại học.
- Z là biến kiểm soát trong mô hình, thể hiện đặc điểm về khu vực sống của người
tham gia trong mẫu khảo sát.
Giả thuyết về hành vi trong trò chơi
Đối với hành vi của những người tham gia thí nghiệm về Risk Game, những
người có lựa chọn mang tính chất rủi ro càng cao càng cho thấy người đó ít có khả
năng bị nợ xấu; trong khi những người càng e ngại rủi ro là những người có khả năng
bị nợ xấu càng cao. Điều này được giải thích như sau: Những người bị nợ xấu là
những người thường phải chịu áp lực về tài chính khá lớn trong vấn đề trả nợ. Vì vậy,
họ sẽ có xu hướng e ngại với các lựa chọn rủi ro để đảm bảo họ có khả năng đáp ứng
các yêu cầu về tài chính khi đến hạn. Ngược lại, những người có lựa chọn rủi ro thì

khả năng bị nợ xấu sẽ thấp hơn do họ sẽ không bị áp lực về tài chính khi đáp ứng các
yêu cầu trả nợ khi đến hạn. Vì vậy, giả thuyết nghiên cứu được phát biểu như sau:
H1: Những người tìm kiếm rủi ro càng cao càng ít có khả năng bị nợ xấu, trong khi
những người càng e ngại rủi ro sẽ có khả năng bị nợ xấu lớn hơn.
Kết quả hồi qui


Tác giả hồi quy lần lượt tác động của các nhân tố đến nợ xấu theo thí nghiệm đã thực
hiện. Kết quả hồi quy trong bảng 2.
Với mức ý nghĩa thống kê cho phép là 10%, kết quả hồi quy như sau:
- Biến thí nghiệm có tác động âm có ý nghĩa thống kê với nợ xấu trong cả 5
cột hồi quy. Điều này cho thấy những lựa chọn càng nhiều rủi ro thì sẽ có tác
động trái chiều với nợ xấu, tức là những người càng ưa thích tìm kiểm rủi ro
nhiều thì khả năng có nguy cơ rơi vào tình trạng bị nợ xấu càng ít. Ngược lại,
những người e ngại rủi ro lại có nguy cơ bị rơi vào nợ xấu cao hơn. Kết quả
hồi quy có độ tin cậy cao khi có mức ý nghĩa thống kê khá cao trong cả 5 cột
hồi quy.
- Cột thứ (2) trong hồi quy thêm biến Tuổi và biến Giới tính vào hồi quy; trong
khi cột thứ (3) đưa thêm biến Tuổi2 so với cột thứ 2. Kết quả hồi quy trong cột
thứ (2) cho thấy cả 2 biến Tuổi và biến Giới tính đưa thêm vào hồi quy phản
ánh tác động đều không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy biến Tuổi và
biến Giới tính không có tác động tuyến tính đến nợ xấu của người tham gia thí
nghiệm. Ở cột thứ 3, kết quả hồi quy khi bổ sung biến Tuổi 2 vào cũng không
có ý nghĩa thống kê. Điều này chứng tỏ rằng khi chỉ xem xét tác động của tuổi
và giới tính của người trả lời, cả hai yếu tố này đều không tác động đến việc
người tham gia có bị nợ xấu hay không.
Bảng 2: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến nợ có vấn đề
trong thí nghiệm
Biến phụ thuộc: Nợ xấu/ Không nợ xấu
Nợ xấu/ Nợ

Nợ xấu/ Nợ
Variable
đủ chuẩn
đủ chuẩn
(1)
(2)
STRR
-0.316**
-0.337**
(0.013)
(P-value)
(0.010)
Tuổi
-0.002
(P-value)
(0.893)
Tuổi2
(P-value)
Giới tính
-0.680
(P-value)
(0.111)
Học vấn
(P-value)
Nơi sống
(P-value)
-

Nợ xấu/ Nợ


Nợ xấu/ Nợ

Nợ xấu/ Nợ

đủ chuẩn
(3)
-0.335**
(0.011)
-0.114
(0.185)
0.001
(0.187)
-0.650
(0.130)
-

đủ chuẩn
(4)
-0.341**
(0.011)
-0.159*
(0.086)
0.001*
(0.100)
-0.552
(0.207)
-0.312*
(0.077)
-


đủ chuẩn
(5)
-0.367***
(0.007)
-0.171**
(0.064)
0.002*
(0.089)
-0.315
(0.492)
-0.406*
(0.068)
-0.192
(0.673)


Tỷ lệ làm việc
(P-value)
Khoản vay
(P-value)
Kỳ hạn vay
(P-value)
Hằng số

-0.407

0.024

2.550


4.678

0.883
(0.351)
-0.040**
(0.031)
-0.009
(0.521)
5.730

Ghi chú: Giả thuyết H0: (tương ứng tác động của biến X i không có ý nghĩa thống
kê); giả thuyết đối H1: (tương ứng biến Xi tác động có ý nghĩa thống kê). Ký hiệu
*,**,*** lần lượt biểu thị cho mức ý nghĩa thống kê là 10%, 5% và 1%.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu khảo sát).
- Kết quả ở cột thứ (4) (thêm biến Học vấn vào trong hồi quy) cho thấy tác
động của các biến số cũ đã có sự thay đổi khá nhiều. Biến Học vấn đưa thêm vào mô
hình hồi quy có tác động âm có ý nghĩa thống kê đến biến nợ xấu. Điều này cho thấy
trình độ học vấn của người tham gia càng cao thì khả năng người này rơi vào trường
hợp nợ xấu sẽ càng giảm. Ngoài ra, cả hai biến Tuổi và Tuổi 2 sẽ có ý nghĩa thống kê.
Cụ thể, hệ số tác động của biến Tuổi là âm, trong khi hệ số tác động của biến Tuổi 2
mang dấu dương; độ lớn hệ số của biến Tuổi lớn hơn biến Tuổi 2 . Kết quả này cho
thấy khi có tác động của biến học vấn, những người tham gia còn trẻ (tuổi còn ít), tác
động của biến Tuổi sẽ lấn át tác động của biến Tuổi 2 khi tuổi của người trả lời tăng
lên. Điều này cho thấy với những người còn trẻ, số tuổi càng tăng thì khả năng người
đó mắc nợ xấu càng giảm. Tuy nhiên, khi người tham gia ở ngưỡng tuổi khá cao, tác
động phi tuyến của tuổi tác sẽ cao hơn so với sự gia tăng tuyến tính (tác động của
biến Tuổi2 sẽ lấn át tác động của biến Tuổi khi tuổi gia tăng). Khi đó, số tuổi càng
tăng lên thì người đó càng có nguy cơ bị nợ xấu cao hơn.
- Ở cột thứ (5), tác giả đưa thêm các biến kiểm soát về khu vực sinh sống (Nơi
sống), tỷ lệ việc làm (tỷ lệ có việc làm trong hộ gia đình), Khoản vay (Quy mô khoản

vay) và kỳ hạn vay vào hồi quy xem xét tác động. Kết quả hồi quy cho thấy các biến
số xuất hiện ở cột thứ (4) về cơ bản không bị thay đổi trong tác động đến nợ xấu.
Trong số các biến số đưa thêm vào, quy mô khoản vay có tác động âm có ý nghĩa
thống kê đến biến phụ thuộc nợ xấu. Điều này cho thấy quy mô khoản vay của người
tham gia càng cao thì khả năng người đó rơi vào trường hợp nợ xấu sẽ càng thấp.
Ngoài ra, chưa có thể kết luận sự khác biệt về nợ xấu giữa những người sinh sống ở


khu vực thành thị và khu vực nông thôn; không có sự khác biệt về nợ xấu giữa tỷ lệ
số người tham gia lao động của các hộ gia đình; không có sự khác biệt về nợ xấu theo
kỳ hạn vay nợ.
3. Thảo luận kết quả
Khi nghiên cứu lần lượt hành vi của người tham gia trong thí nghiệm, các kết quả
nghiên cứu cho thấy giả thuyết nghiên cứu trên được ủng hộ.
- Đối với những người trung lập với rủi ro: Có sự khác biệt đáng kể về nợ xấu
giữa những người trung lập rủi ro và những người ít e ngại với rủi ro; giữa những
người trung lập rủi ro với những người tìm kiếm rủi ro. Không có sự khác biệt về nợ
xấu giữa những người trung lập rủi ro và những người rất e ngại rủi ro hoặc e ngại rủi
ro hoàn toàn. Điều này cho thấy nợ xấu giữa những người trung lập với rủi ro thường
sẽ không khác biệt với những người rất e ngại rủi ro. Nợ xấu của những người trung
lập với rủi ro sẽ khác biệt với nợ xấu khi mức độ tìm kiếm rủi ro của người tham gia
thí nghiệm gia tăng.
- Đối với những người tìm kiếm rủi ro: Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ nợ xấu
giữa những người tìm kiếm rủi ro và những người e ngại rủi ro hoàn toàn; giữa những
người tìm kiếm rủi ro và những người rất e ngại rủi ro; giữa những người tìm kiếm
rủi ro và những người khá e ngại rủi ro. Không có sự khác biệt về tỷ lệ nợ xấu giữa
những người e ngại rủi ro và những người ít e ngại rủi ro. Điều này cho thấy nợ xấu
sẽ giống nhau giữa những người tìm kiếm rủi ro với những người có xu hướng e ngại
rủi ro càng nhiều.
4. Các hàm ý chính sách.

Đối với vấn đề rủi ro TDVM, cần xem xét đến thái độ và hành vi của người vay vốn
để sàng lọc khách hàng. Tuy nhiên, vấn đề ở đây cần lưu ý là chúng ta nên chọn lựa
khách hàng thích rủi ro hay e ngại rủi ro? Từ đó để các tổ chức TCVM cũng như các
TCTD có hoạt động TCVM có sự chọn lựa những chính sách, chiến lược phù hợp với
từng đối tượng khách hàng khác nhau đảm bảo tránh được rủi ro và có hiệu quả trong
hoạt động.
Đối với những khoản vay có giá trị lớn, các tổ chức TCVM và các TCTD có hoạt
động TCVM cần quan tâm đến vấn đề trình độ học vấn của khách hàng. Khi xem xét
các khoản vay nhỏ lẻ thì yếu tố này không có tác động và ảnh hưởng lớn đến vấn đề


nợ xấu. Tuy nhiên khi xem xét đến các khoản vay có giá trị lớn thì lại có ảnh hưởng
đáng kể.

Tài liệu tham khảo
Banerjee and Mullainathan, 2010. The sharp of temptation: Implications for the
economic lives of the poor. NBER Working Paper Series No.15973, 1-49. National
Bureau of Economic Research. < />Charness, G., Gneezy, U. and Imas, A., 2013. Experimental methods: Eliciting risk
preferences. Journal of Economic Behavior and Organisation, 87 (2013) 43-51.
Eckel, C.C., Dave, C., Cathleen A.J. and Rojas, C., 2010. Eliciting risk preferences:
When is simple better? Journal of Risk and Uncertainty , December 2010, Vol.41,
Issue 3, pp 219-243.
Giné, X., Jakiela, P., Karlan, D. and Morduch, J., 2010. Microfinance games. American
Economic Journal: Applied Economics. 2(3), 60-95.
Handa, J., 1997. A theory of risk preferences in gambling. Journal of Political Economy
Vol.79, No.5 (Sep,Oct., 1971):0173-1083.
Holt, C..A. and Laury, S.K., 2002. Risk aversion and incentive effect. The American
Economic Review, Vol.92, No.5, December, 2002.
Idama, A. et al., 2014. Credit risk portfolio management in microfinance Banks:
Conceptual and practical insights. University Journal of Applied Science, 2(6):111119, 2014.

Stiglitz, J.E., and Weiss, A., 1981.

Credit rationing in markets with imperfect

information. The American Economic Review, 71(3), 393-410.
Tanaka, T., Camerer, C.F. and Nguyen, Q., 2010. Risk and time preferences:
Experimental and household survey data from Vietnam. The American Economic
Review, 2010.
Tversky and Kahnerman, D., 1979. Prospect theory-An analysis of decision under risk.
Econometrica, Vol.47, No.2 (Mar., 1979), 263-292.


Wen F. et al., 2014. Investor's risk preference characteristics based on different
preference point. Discrete Dynamics in Nature and Society, Vol.2014, Article ID
158386.
Zeballos, E., Cassar, A., Wydick, B., 2014. Do risky microfinance borrowers really
invest in risky projects? Experimental evidence from Bolivia. The Journal of
Development studies, Vol.50, Issuee 2, 2014, pp 276-287.



×