Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư việt nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.92 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÒA

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH
VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÒA

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH
VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Nay tôi viết Lời
cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học Xã hội xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Thu Hòa


BẢNG VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự
Trách nhiệm hữu hạn
Một thành viên

Bộ luật dân sự
TNHH
MTV


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM
HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT .......................................... 8
1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý... 8
1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của tổ
chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng ...................................... 15
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP
LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI
PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ..................................................................................................... 27
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm pháp
lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật........................................................................... 27
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với các
tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật ............................................................................................. 38
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP
LUẬT Ở VIỆT NAM .................................................................................... 55
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ
chức hành nghề luật sư Việt Nam trong thực hiện hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật ............................................................................................. 55
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hoàn thiện pháp luật
về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật............................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 74


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
So với nhiều ngành nghề luật khác trong hệ thống các nghề luật Việt
Nam, thì nghề luật sư và các quy định về nghề luật sư hình thành muộn màng,
do đó, hệ thống pháp luật về nghề luật sư và hành nghề luật sư chưa thật sự
hoàn chỉnh và đồng bộ. Trong khi đó, nghề luật sư được cho là tiêu biểu nhất
và thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật vì nó luôn hướng tới
việc bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Những năm gần đây, xã hội ngày càng phát triển, quyền con người,
quyền công dân được đề cao, đồng thời cũng phát sinh thêm nhiều mối quan
hệ giữa công dân với công dân, giữa công dân với các tổ chức và giữa các tổ
chức với nhau. Những mối quan hệ này có thể nảy sinh mâu thuẫn, ảnh hưởng
đến quyền lợi của mỗi bên. Điều này dẫn đến một nhu cầu thiết yếu là nhiều
tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý do các tổ chức hành
nghề luật sư cung cấp. Trước, trong và sau một quá trình tố tụng hay trước
một cuộc đàm phán, giao kết, thực hiện một giao dịch, không một tổ chức, cá
nhân nào mà không muốn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực
tế cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý tăng lên một cách rõ rệt. Số
lượng luật sư tăng nhanh, song song cùng phát triển là sự ra đời của các tổ
chức hành nghề luật sư ngày một nhiều.
Khác với các ngành nghề khác trong xã hội, nghề luật sư có tính đặc
thù riêng, mang tính độc lập, tự chịu trách nhiệm. Một luật sư Việt Nam có
thể hành nghề thông qua hai hình thức là hành nghề theo tư cách cá nhân
và hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư. Tổ chức hành nghề luật
sư được điều chỉnh bởi Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Tuy nhiên, vấn đề về trách nhiệm pháp lý, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật của tổ chức hành nghề luật sư không được cụ thể hóa trong Luật Luật
1


sư mà vẫn tuân theo các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan về

vấn đề này. Do vậy, để xem xét các vấn đề về tư cách pháp nhân và trách
nhiệm, nghĩa vụ tài sản khi thực hiện dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề
luật sư còn phải thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Bộ luật Dân sự
năm 2015.
Dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực khá rộng, là đặc quyền của giới luật sư,
được pháp luật bảo hộ và được hiểu là sự giúp đỡ về mặt pháp lý của các luật
sư cho những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc
giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng có những vi
phạm và phát sinh tranh chấp, đặc biệt là các trường hợp xác định trách nhiệm
pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật, mối quan hệ về trách nhiệm pháp lý giữa các luật sư trực tiếp
thực hiện và các tổ chức hành nghề luật sư như thế nào…? Pháp luật về luật
sư và hành nghề luật sư đang ngày dần hoàn thiện, đã có những đóng góp tích
cực cho sự phát triển của nghề luật sư, nhưng trên thực tế, một số quy định
của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập chưa đồng bộ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật. Bởi
vậy, học viên đã chủ động lựa chọn đề tài “Trách nhiệm pháp lý của tổ chức
hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động và hành nghề
không phải là một vấn đề quá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu khoa
học. Pháp luật về nghề luật sư và những bất cập trong hoạt động của các tổ
chức hành nghề luật sư đã được đề cập trong một số nghiên cứu ở các mức độ
khác nhau như bài viết trên các tạp chí, tham luận tại các diễn đàn, tiểu luận
của các học viên, nghiên cứu sinh. Việc nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận
2


và phương diện khác nhau. Một số công trình khoa học tiêu biểu về nghề luật

sư và những bất cập của Luật Luật sư trong hệ thống pháp luật hay quản lý
nhà nước về nghề luật sư như các giáo trình về nghề luật luật sư, sách kỹ năng
hành nghề luật sư, tài liệu học tập, bài viết nghiên cứu hay các luận văn thạc
sĩ, luận án tiến sĩ. Các công trình nghiên cứu liên quan được thể hiện như sau:
2.1. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực luật sư và
hành nghề luật sư, có một số công trình tiêu biểu như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt
Nam” do ông Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp
là Chủ nhiệm đề tài, được thực hiện năm 2003;
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Vấn đề xã hội hóa hoạt động
luật sư và tư vấn pháp luật” của tác giả Dương Đình Khuyến, được thực hiện
năm 2001…
2.2. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực hợp đồng
dịch vụ pháp lý có các công trình tiêu biểu như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng,
nhu cầu và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp là Chủ nhiệm đề tài, được thực
hiện năm 2005;
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong
hành nghề luật sư - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ Quỳnh
Anh được thực hiện năm 2006;
- Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam” của tác giả Hoàng Thị Vịnh được thực hiện năm 2014;

3


- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa
tổ chức hành nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí

Minh” của tác giả Lê Bình Phương được thực hiện năm 2017…
2.3. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về hình thức tổ chức
hành nghề luật sư có các công trình tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Tổ chức luật sư ở Việt Nam”
của tác giả Đoàn Văn Duy được thực hiện năm 1996;
- Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả LS. Phan
Trung Hoài được thực hiện năm 2003;
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Minh được thực hiện
năm 2009… và còn nhiều bài nghiên cứu, các luận văn, luận án khác nghiên
cứu về vấn đề luật sư và hành nghề luật sư…
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với đề tài
“Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật
sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện
nay, từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đã đặt ra, nhiệm vụ mà luận văn phải làm
rõ đó là:

4


- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm

pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Khái quát, phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đánh giá về những ưu điểm và tồn tại
của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, bất cập
để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật
sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, từ đó, nâng cao
giá trị nghề luật sư trong xã hội góp phần bảo vệ công lý, đem lại sự bình
đẳng, công bằng cho người dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp
luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật và thực trạng
về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực
hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo Luật Luật sư 2006, Luật sửa đổi,
bổ sung Luật Luật sư năm 2012 tại Việt Nam cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về nghề
luật sư và hành nghề luật sư… Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng

5



các phương pháp nghiên cứu truyền thống và tin cậy để làm sáng tỏ đề tài
nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tông hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thông kê, phương pháp hệ thống hóa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận
chung của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư
Việt Nam hiện nay khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về
trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, đề xuất các giải pháp
nhằm khắc phục tồn tại bất cập để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp
lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực hiện hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật, từ đó nâng cao, tôn vinh giá trị nghề luật sư trong xã hội
góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và
tổ chức theo quy định pháp luật.
Luận văn cũng có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho người nghiên cứu
và giảng dạy các vấn đề liên quan đến nghề luật sư, trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong quá trình thực hiện hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật.

6


Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức

hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM
KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư
Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư được sửa đổi bổ sung năm
2012 quy định luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư,
thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi
chung là khách hàng). Trong Luật Luật sư, khái niệm luật sư đã được cụ thể
hơn bằng quy định về tiêu chuẩn luật sư, đây là điểm mới so với Pháp lệnh
Luật sư năm 2001.
Điều 10 Luật Luật sư quy định: “Luật sư là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề luật sư, có sức khỏe, đảm bảo hành nghề luật sư thì có thể trở
thành luật sư”. Tiêu chuẩn trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật là điều “bất biến”. Với các tiêu chuẩn cơ bản về luật sư quy định tại
Luật Luật sư thì gần như tương tự tiêu chuẩn đối với điều tra viên, kiểm sát
viên và thẩm phán. Quy định này ngoài việc đảm bảo sự thống nhất về tiêu

chuẩn đối với các chức danh tư pháp, nó còn tạo ra mối liên kết giữa luật sư
và các chức danh tư pháp khác trong quá trình đào tạo nghề và hoạt động
nghề nghiệp. Việc quy định cụ thể về tiêu chuẩn luật sư đã góp phần tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký gia
nhập Đoàn luật sư và thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư.

8


Một điểm đặc thù trong tiêu chuẩn luật sư so với các chức danh tư pháp
khác đó chính là tiêu chuẩn có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Điều này
trong thực tiễn cho thấy, nhiều điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên sau khi
nghỉ hưu mới trở thành luật sư và điều kiện sức khỏe không bảo đảm đã ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng hành nghề luật sư. Đây là sự bất cập trong
quy định về tiêu chuẩn sức khỏe đối với luật sư vì pháp luật không quy định
cụ thể gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước và Đoàn luật sư trong quá
trình xem xét cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và cho gia nhập đoàn luật sư.
Việc xác nhận một người có đảm bảo sức khỏe hay không chỉ dựa vào Giấy
chứng nhận sức khỏe do một tổ chức, cơ quan y tế xác nhận, điều này là rất dễ
dàng có được trong thực tế hiện nay.
Người có đủ tiêu chuẩn theo Điều 10 Luật luật sư muốn hành nghề luật
sư phải được cơ quan nhà nước (Bộ Tư pháp) cấp chứng chỉ hành nghề luật
sư và gia nhập một Đoàn luật sư để có tư cách là thành viên của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam và thành viên của một Đoàn luật sư.
Điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư phải đáp ứng các
yêu cầu về chuyên môn như phải có bằng cử nhân luật, đã tốt nghiệp khóa đào
tạo nghề, hoàn thành thời gian tập sự và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự
hành nghề luật sư. Đây chính là điều kiện cần đối với người muốn hành nghề
luật sư.
Điều kiện gia nhập một Đoàn luật sư là yêu cầu mang tính nghề nghiệp,

thể hiện tính chất đặc thù của nghề luật sư so với các nghề nghiệp khác trong
xã hội. Luật sư được Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp Thẻ luật sư làm thông
hành cho việc hành nghề luật sư. Khi tác nghiệp nghề luật sư, luật sư với vai
trò phản biện theo tố tụng và phản biện xã hội theo yêu cầu dịch vụ pháp lý
với công dân hoặc tổ chức xã hội.

9


Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện hành nghề luật sư hiện
nay là phù hợp với thông lệ nghề nghiệp được pháp luật về luật sư của nhiều
nước trên thế giới quy định. Một người chỉ được coi là “Luật sư” khi có đủ
điều kiện nêu trên. Khi đã trở thành luật sư, người đó có quyền được hành
nghề luật sư (cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng) theo
phạm vi, hình thức hành nghề luật sư quy định tại Luật Luật sư. Nếu một
người không có đủ điều kiện hành nghề luật sư nhưng vẫn hành nghề luật sư
dù dưới bất kỳ hình thức nào thì được coi là hành nghề luật sư bất hợp pháp
và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Hiện nay Nhà nước ta đang trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, thì vai trò, vị trí của luật sư
trong xã hội cũng ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn và toàn diện hơn.
Hoạt động luật sư không chỉ phục vụ đắc lực yêu cầu của hoạt động xét xử
nói riêng, hoạt động tư pháp nói chung mà còn là một nhân tố quan trọng
trong việc hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển.
Có thể nói nghề luật sư là nghề tự do và các luật sư hành nghề độc lập
trên cơ sở các quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Chính vì tính
chất đặc thù của nghề luật sư nên trong cơ chế thực thi pháp luật thì hoạt động
hành nghề luật sư luôn được coi là một bộ phận quan trọng. Thông qua hoạt
động nghề nghiệp của mình, luật sư là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống,
góp phần tích cực trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật,

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu các
quy định trong pháp luật tố tụng thể hiện rõ quyền của luật sư khi hành nghề
được mở rộng đáng kể thì Luật Luật sư cũng có những quy định tạo điều kiện
thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Ngoài ra,
Luật Luật sư cũng tạo cơ chế pháp lý để tăng cường trách nhiệm pháp lý,
nâng cao kỷ luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề.
10


Luật Luật sư quy định luật sư được thực hiện hoạt động nghề nghiệp
trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhưng cũng quy định các hành vi bị
nghiêm cấm đối với luật sư. Nếu Luật sư thực hiện một trong các hành vi bị
nghiêm cấm thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn bị xử lý hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, nếu gây
thiệt hại thì họ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy
định về các tổ chức, các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, quy định chế độ bào chữa, điều kiện công nhận luật sư [17]. Đây là
khung pháp lý nền tảng cho sự phát triển về các quy định đối với nghề luật sư,
các tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam sau này. So với các nước trên thế
giới hình thức tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam có nhiều nét tương đồng.
Hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến ở các nước khác là: Văn phòng
luật sư cá nhân, hành nghề độc lập; công ty luật hợp danh. Còn ở Việt Nam
theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi bổ
sung Luật Luật sư năm 2012 quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư
như sau: “Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: (a) Văn phòng luật sư; (b)
Công ty luật” [35].
- Văn phòng luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư có một thành viên và
Văn phòng luật sư có nhiều thành viên. Văn phòng luật sư có con dấu và tài

khoản theo quy định của pháp luật.
- Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH.
Công ty luật hợp danh có ít nhất 02 luật sư thành lập. Công ty luật TNHH bao
gồm công ty luật TNHH có 02 thành viên trở lên và công ty luật TNHH 01
thành viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu làm giám đốc công ty.

11


Công ty luật TNHH 02 thành viên trở lên do ít nhất 02 luật sư thành lập và
thỏa thuận cử 01 thành viên làm giám đốc.
Luật sư đứng ra thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất 2
năm hành nghề liên tục. Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức hoạt động
theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác của pháp luật có liên
quan. Tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa
phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc
công ty luật là thành viên. Tổ chức hành nghề luật sư hoạt động theo đúng
nội dung đăng ký hoạt động.
Để có một khái niệm chính thức về tổ chức hành nghề luật sư ở Việt
Nam thì đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định.
Luật sư muốn thành lập hoặc tham gia cùng các luật sư đồng nghiệp thành
lập tổ chức hành nghề luật sư phải là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện như
Luật Luật sư quy định. Tổ chức hành nghề luật sư là nơi để các luật sư trực
tiếp hoạt động nghề nghiệp. Các luật sư tác nghiệp theo sự phân công của
đại diện tổ chức hành nghề luật sư nơi mình đăng ký là thành viên hoặc
cộng sự. Tổ chức luật sư thực hiện chế độ tự quản trên nguyên tắc quản lý
và hành nghề luật sư do Nhà nước quy định dựa theo Điều lệ Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư và Điều lệ
Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc.Tổ chức hành nghề
luật sư được hiểu là một loại hình tổ chức nghề nghiệp có sự kết hợp giữa

Nhà nước cho phép thành lập, thống nhất quản lý và chế độ tự quản của tổ
chức nghề nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư. Sự khác biệt và đặc thù
của các tổ chức hành nghề luật sư là việc cấp phép hoạt động, chịu sự quản
lý trực tiếp về hình thức tổ chức hành nghề là do Sở Tư pháp nơi Đoàn luật
sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc nhưng về mô hình hoạt động,

12


chế độ tài chính kế toán thì lại áp dụng như loại hình doanh nghiệp hay
công ty và chịu sự điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp.
Từ các phân tích ở trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về tổ chức hành
nghề luật sư như sau: “Tổ chức hành nghề luật là một tổ chức nghề nghiệp
của các luật sư hoặc của một luật sư được thành lập, đăng ký tại Sở Tư
pháp tỉnh/thành phố nơi Đoàn luật sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực
thuộc nhằm bổ trợ cho các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Một
luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập chỉ một tổ chức hành nghề luật
sư và phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Luật Luật sư đã
quy định. Tổ chức nghề nghiệp luật sư hoạt động theo nguyên tắc kết hợp
giữa sự quản lý nhà nước và tính tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp
của luật sư”.
Đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư xuất phát từ bản chất, vị trí, vai
trò của luật sư của trong xã hội. Nghề luật sư chú trọng đề cao vai trò của cá
nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư. Bởi thế, tổ chức hành nghề luật sư có
một số đặc điểm tiêu biểu như:
Thứ nhất, tổ chức hành nghề luật sư tuân thủ pháp luật và Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
Thứ hai, tổ chức hành nghề luật sư có tính chất tự do, độc lập và tự
chịu trách nhiệm
Thứ ba, hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư mang tính dịch vụ và

được nhận thù lao, lệ phí từ khách hàng
Thứ tư, tổ chức hành nghề luật sư là một nghề không kiêm nhiệm
Thứ năm, tổ chức hành nghề luật sư luôn gắn với sinh mệnh chính trị
của mỗi con người

13


1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, như trách
nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý được đề cập đến
trong phần quy định của quy phạm pháp luật hay trách nhiệm là việc chủ thể
phải thực hiện một mệnh lệnh cụ thể của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có
thẩm quyền. Hoặc trách nhiệm pháp lý là việc chủ thể phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong phần chế tài của các quy phạm
pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này khi họ
vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác
được pháp luật quy định.
Tựu chung lại, có thể hiểu, trách nhiệm pháp lý là một quan hệ pháp
luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ
thể vi phạm pháp luật, trong đó, bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu các
hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong
phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những
loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự.
1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã

hội khác như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính
trị….
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà
nước được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là
điểm khác biệt giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác
của nhà nước như bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng… Trách nhiệm
pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu thể hiện
14


qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân
thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định.
Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy
ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Dựa vào tính chất
của trách nhiệm pháp lý có thể chia thành một số loại sau:
(i) Trách nhiệm hình sự: Là trách nhiệm của một người đã thực hiện
một tội phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì
việc phạm tội của họ. Hình phạt này do Tòa án quyết định trên cơ sở của Bộ
luật Hình sự, nó thể hiện sự lên án, sự trừng phạt của Nhà nước đối với người
phạm tội và là một trong những biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất.
(ii) Trách nhiệm hành chính: Là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính, phải gánh chịu một
biện pháp cưỡng chế hành chính tùy theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp
cưỡng chế này do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết
định trên cơ sở pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
(iii) Trách nhiệm dân sự: Là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh
chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên

có quyền. Biện pháp cưỡng chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi
thường thiệt hại.
1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của
tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
1.2.1.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc
cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng
15


dịch vụ”. Quy định trên cho thấy, hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng
thông dụng, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực
hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội.
Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có
một quy định nào nêu rõ khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và
hợp đồng tư vấn pháp luật nói riêng là gì. Tuy nhiên, trong một số đề tài
nghiên cứu khoa học, một số tác giả đã nêu quan điểm của mình về khái niệm
hợp đồng dịch vụ pháp lý như sau:
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Mai Anh (2015): “Hợp đồng tư
vấn pháp lý là sự thỏa thuận của bên thuê dịch vụ với bên cung cấp dịch vụ về
việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, theo đó bên cung ứng dịch vụ sẽ thực
hiện tư vấn pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ phải
trả thù lao tư vấn cho bên cung ứng dịch vụ” [2, tr.26]. Cũng theo quan điểm
của tác giả, “chủ thể bên cung ứng hợp đồng tư vấn pháp luật gồm có: luật sư,
tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, trung tâm tư
vấn pháp luật” [2, tr.35]. Với cách trình bày như vậy, thì tác giả mới chỉ tiếp
cận về một phần của dịch vụ tư vấn pháp luật đó là “tư vấn pháp lý”.
Theo quan điểm của tác giả Vũ Quỳnh Anh (2006) thì “hợp đồng dịch

vụ pháp lý là một loại hợp đồng thuộc ngành dịch vụ nghề nghiệp, theo đó,
bên luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thuê luật sư, còn bên thuê luật
sư phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận” [1, tr.18]. Quan niệm của tác giả phù
hợp với quy định của Luật Luật sư, theo đó, luật sư là chủ thể duy nhất có thể
cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội.
Theo quan điểm của tác giả Trần Bích Hạnh (2015), thì “kinh doanh
dịch vụ pháp lý rộng hơn hành nghề luật sư và có thể hiểu dịch vụ thương mại
pháp lý là loại hình dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà bên cung
ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng một hoạt động cụ thể có liên quan đến
16


pháp luật nhằm mục đích kiếm lời” [21 tr.13]. Khái niệm này đặc biệt nhấn
mạnh dịch vụ pháp lý là hình thức kinh doanh thương mại, tìm kiếm lợi
nhuận, chưa thể hiện đúng bản chất, tinh thần của hoạt động dịch vụ pháp lý
đối với tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Trong thời đại khoa học công nghệ 4.0 hiện nay, dịch vụ pháp lý đã
được hiểu theo nghĩa rộng hơn, quy định cũng thông thoáng hơn cho một số
ngành nghề, không chỉ bó hẹp trong phạm vi Luật luật sư, do đó có rất nhiều
quan điểm khác nhau về hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng. Dưới góc nhìn của tác giả, chủ thể có thể
cung ứng dịch vụ pháp lý là tổ chức hành nghề luật sư, luật sư hành nghề với
tư cách cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng, văn phòng thừa phát lại, tổ
chức trọng tài thương mại. Trong một số trường hợp bên yêu cầu dịch vụ
pháp lý không nhất định phải là người hưởng lợi mà họ thực hiện yêu cầu
dịch vụ pháp lý vì lợi ích của một bên thứ ba. Ví dụ, người đại diện hoặc
người thân thích của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người ký
hợp đồng dịch vụ pháp lý với tổ chức hành nghề luật sư nhưng người được
bào chữa lại chính là người bị buộc tội. Đây chính là sự thỏa thuận của các
chủ thể về mỗi loại dịch vụ pháp lý mà các bên hướng tới nhằm thỏa mãn nhu

cầu về mặt pháp lý cho bản thân hoặc cho người thứ ba.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng: “Hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật là sự thỏa thuận có thù lao giữa bên được phép cung cấp dịch vụ và
bên yêu cầu dịch vụ nhằm thực hiện các dịch vụ tư vấn pháp luật được pháp
luật cho phép”.
1.2.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Khác với các hợp đồng dịch vụ khác là công việc có thể thực hiện
được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội, bên thuê yêu cầu
bên cung cấp phải thực hiện theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn và các

17


thỏa thuận khác, thì ngoài những quy định chung của pháp luật về hợp đồng
dịch vụ, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn có tính chất đặc thù, đó là, chỉ
có tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư mới được ký kết hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật (hợp đồng dịch vụ pháp lý) theo quy định tại Điều 26, Điều 39
của Luật Luật sư.
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bắt buộc khi giao kết phải bằng văn
bản. Thời gian thực hiện là do các bên thỏa thuận tùy theo tính chất và nội
dung công việc dịch vụ, tuy nhiên, trong các vụ án hình sự, đa phần thời hạn
của hợp đồng phụ thuộc thuộc thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng và
cơ quan nhà nước khác. Người thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
phải là luật sư am hiểu pháp luật chuyên ngành để cung cấp dịch vụ pháp lý
và luật sư của tổ chức hành nghề luật sư được trực tiếp làm việc cùng cơ quan
tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước yêu cầu giải quyết theo quy định của
pháp luật, không bị ngăn cấm. Luật sư phản biện lại các kết luận không có căn
cứ pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình.
Tổ chức hành nghề luật sư được nhận thù lao của khách hàng theo thỏa thuận
tại hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bằng văn bản do Trưởng

Văn phòng luật sư hoặc giám đốc công ty luật ký trực tiếp với khách hàng.
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng song vụ,
mang tính ưng thuận
Tính chất song vụ thể hiện như quy định về loại hợp đồng song vụ theo
Bộ luật Dân sự, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, các bên đều có
nghĩa vụ đối với nhau. Bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật có quyền yêu
cầu bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật thực hiện đúng đối tượng của hợp
đồng và phải trả thù lao tương ứng, ngược lại bên cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật thực hiện theo thỏa thuận thì cũng có yêu cầu buộc bên sử dụng
18


(bên thuê) phải trả thù lao tương xứng. Tính ưng thuận của hợp đồng thể hiện
việc các chủ thể tự do ý chí khi thương lượng thỏa thuận về nội dung hợp
đồng. Khi đã đồng ý xác lập, giao kết hợp đồng thì có nghĩa hợp đồng bắt
buộc thực hiện. Điểm nổi bật là giá trị pháp lý gắn với công việc mà bên cung
ứng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thực hiện với kỹ năng, kinh nghiệm của
mình theo quy định pháp luật.
Thứ hai, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật mang tính chất đền bù
Khi bên yêu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật thì phải trả một
khoản phí tương ứng do bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật đưa ra trên cơ
sở pháp luật quy định về mức phí, lệ phí, thù lao của tổ chức hành nghề luật
sư khi thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật. Nếu bên cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì bên yêu cầu sử dụng
dịch vụ tư vấn pháp luật có quyền yêu cầu hoàn trả một phần lệ phí dịch vụ
pháp lý mà bên yêu cầu đã nộp khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
sau khi trừ các chi phí thực tế do tổ chức hành nghề luật sư đã thực hiện.
Thứ ba, chủ thể cung ứng trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
phải đáp ứng về kinh doanh có điều kiện

Dịch vụ tư vấn pháp luật phải luôn gắn liền với pháp luật và chủ thể
thực hiện, phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật mới được
cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật. Theo khoản 2 Điều 7 Luật Đầu tư quy
định về danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ
lục 4 của Luật này, thì hành nghề luật sư, hành nghề công chứng, hoạt động
dịch vụ của tổ chức trọng tài thương mại và hành nghề thừa phát lại là những
nghề kinh doanh có điều kiện.
Thứ tư, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng không được
thỏa thuận về kết quả

19


Trừ các loại dịch vụ pháp lý khác như xác nhận, dịch thuật hay một số
dịch vụ pháp lý cụ thể khác có thể xác định được rõ ràng kết quả, thì các bên
thỏa thuận được kết quả, còn lại những dịch vụ pháp lý do bản chất vô hình
nên không có cơ sở để thỏa thuận kết quả công việc cụ thể. Các bên thỏa
thuận đối tượng của hợp đồng là những công việc cụ thể, bên cung cấp sẽ
bằng công sức, trí tuệ, kinh nghiệm, sự tận tâm và trên cơ sở pháp luật để
hoàn thành công việc đã cam kết, không chuyển giao cho người khác làm thay
trừ khi có thỏa thuận. Điều này là sự khác biệt và đặc trưng của hợp đồng dịch
vụ pháp lý nói chung và hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng, có thể
thấy rõ nét trong lĩnh vực tham gia tố tụng.
1.2.2. Vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
1.2.2.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là một loại trong hợp đồng dịch vụ
pháp lý nói chung. Đây là một loại hợp đồng đặc trưng duy nhất được Luật
Luật sư quy định. Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chỉ có khái niệm
về hợp đồng dịch vụ nói chung, mà không có quy định cụ thể chi tiết về hợp
đồng dịch vụ pháp lý hay hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Luật Luật sư là

luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư và
luật sư cũng chỉ duy nhất có Điều 26 nói về thực hiện dịch vụ pháp lý theo
hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó hướng dẫn hợp đồng dịch vụ pháp lý phải
được lập thành văn bản và gồm một số nội dung cơ bản. Chưa từng có một
quy định cụ thể về hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung, nên càng chưa có một
quy định chi tiết thế nào là vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý hay vi phạm
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Do đó, nền tảng các quy định về vi phạm
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vẫn dựa trên quy định của pháp luật về vi
phạm hợp đồng nói riêng theo Bộ luật Dân sự, mà cụ thể là vi phạm nghĩa vụ
dân sự nói chung được quy định tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm
20


×