Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.97 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong bài “Nên học sử ta” ghi trên báo “Việt Nam Độc lập” Chủ tịch Hồ
Chí Minh có viết:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà việt Nam”
Đất nước ta, nhân dân Việt Nam ta đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước với nhiều chiến công hiển hách, lẫy lừng. Là một người dân
Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải yêu và hiểu biết về lịch sử của đất nước, của
dân tộc mình. Chính vì vậy mà trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Lịch
sử đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục học sinh (HS)
tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống của dân tộc. Lịch sử là chiếc
nôi để các em hiểu biết và hướng về cội nguồn lịch sử dân tộc. Dạy học lịch sử
không chỉ khơi dậy các nhân vật, sự kiện lịch sử mà làm tái hiện lại một cách sống
động lịch sử hào hùng của dân tộc. Lịch sử không thể tái hiện lại trước mắt học
sinh ở trong phòng thí nghiệm hoặc trong thực tiễn mà thông qua việc tiếp xúc với
những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình
ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những
biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian
xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự
vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác
nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm
hiểu để biết, nắm vững kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến
tự hào về lịch sử dân tộc. Do vậy, việc khơi dậy niềm say mê, tìm tòi, tiếp thu
kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học lịch sử là nhiệm vụ và mục
đích của người giáo viên (GV) trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới, con người
mới xã hội chủ nghĩa.
Môn Lịch sử nói chung, phân môn Lịch sử lớp 4 bậc Tiểu học nói riêng đều
nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng,
nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng


nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Về nội dung chương
trình môn lịch sử lớp 4. Với dòng thời gian kéo dài từ buổi đầu dựng nước (700 năm
trước Công Nguyên đến đầu thời Nguyễn giữa thế kỉ XIX) được chia làm 8 giai
đoạn, 26 sự kiện lớn, 22 mốc thời gian cụ thể, rất nhiều đời vua, nhiều tên nước và
nhiều kinh đô khác nhau.
Với thời lượng 1tiết/tuần của phân môn lịch sử. Nếu giáo viên chỉ đơn
thuần dựa vào sách hướng dẫn học mà không nghiên cứu sâu về phương pháp
giảng dạy thì học sinh khó có thể ghi nhớ được lượng kiến thức lớn như đã nêu.
Mặt khác, thực tế hiện nay, học sinh ở các bậc học nói chung đều không yêu
thích học môn Lịch sử mà thường dành nhiều thời gian cho việc học Toán, Tiếng
1


Việt, Tiếng Anh. Nhiều năm gần đây, tình hình HS học và tiếp thu, ghi nhận
những kiến thức Lịch sử của dân tộc, của đất nước khá hạn chế. Đặc biệt là kết
quả thi của bậc học THPT còn quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn
suy nghĩ và đặt ra câu hỏi tại sao các em lại ngại, lại không thích học hay thờ ơ
với Lịch sử dân tộc, thờ ơ với Lịch sử đất nước như vậy? Đây là nỗi đau, sự trăn
trở của người thầy, cô trước vấn đề này. Trước thực trạng đó tôi đã rất trăn trở
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, làm thế nào để các em hứng thú trong
học tập và nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử. Đó cũng chính là lí
do thúc đẩy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình dạy học mới VNEN” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Với đề tài này, tôi mong muốn được nâng cao nhận thức của bản thân về
việc dạy học Lịch sử cho học sinh, tìm ra các biện pháp khắc phục tồn tại, khó
khăn, giúp giáo viên soạn giảng linh hoạt, trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành
kỹ năng học Lịch sử hiệu quả.
- Cung cấp những tri thức thực tiễn về tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4.
- Đề xuất một số biện pháp thực hiện dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4

theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy môn Lịch sử lớp 4.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 4.
Phương pháp dạy, học môn Lịch sử ở lớp 4.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
+ Phương pháp điều tra, quan sát
+ Phương pháp trải nghiệm
+ Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
+ Phương pháp đàm thoại – gợi mở.
+ Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Cơ sở tâm sinh lí của việc dạy học Lịch sử.
Để có giờ dạy Lịch sử thành công, chúng ta cần hiểu rõ về đặc điểm nhận
thức và quá trình tư duy của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh là cơ
sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở Tiểu học.
Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra
trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh
quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện
tại và tương lai.
2


Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ,
sâu sắc và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng
dạy kiến thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc
biệt, tư duy của các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình

bày phải hết sức coi trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất
các biện pháp hình thành năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học.
2.1.2. Cơ sở sử học của việc dạy học Lịch sử trong trường Tiểu học.
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được thực
hiện ở tất cả các trường tiểu học trong cả nước. Đây là con đường giúp HS tiếp cận với
tri thức mới, nhằm thay đổi cách dạy học truyền thống “thầy giảng - trò nghe, thầy đọc
- trò chép”. Theo quan điểm dạy học mới, dạy học là quá trình HS tự khám phá, tự tìm
ra chân lí. Phương pháp dạy môn Lịch sử cũng không nằm ngoài định hướng đó. Đặc
trưng nổi bật của nhận thức Lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Vì vậy nhiệm vụ tất yếu của dạy Lịch sử là phải tái hiện lại bức
tranh Lịch sử, cho HS tiếp cận những thông tin từ sử liệu, các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật tiêu biểu – người thật, việc thật trong lịch sử, những chứng cứ, những dấu
vết của quá khứ. Tạo ra ở HS những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các nhân
vật, sự kiện Lịch sử mà vẫn phải đảm bảo tính chính xác, khoa học; tính tư tưởng
chính trị; tính vừa sức; tính thực tiễn - học đi đôi với hành.
Lịch sử không chỉ là môn học có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí
tuệ mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho thế hệ trẻ. Nghị quyết Hội nghị
TƯ 5 (khóa VIII) chỉ rõ: “Để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ trẻ
có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn
khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý và Văn hóa Việt
Nam". Nhưng trong thực tế, một bộ phận GV và cả HS vẫn còn những nhận thức chưa
đúng về môn Lịch sử, xem nhẹ vai trò của Lịch sử, thờ ơ với môn học này dẫn đến
chất lượng dạy và học không cao. Như vậy, muốn đào tạo con người phát triển toàn
diện thì vấn đề cấp thiết là thay đổi cách dạy, cách học môn Lịch sử.
2.2. Thực trạng dạy – học Lịch sử ở trường Tiểu học.
* Thuận lợi:
Chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới Việt Nam gọi tắt
là VNEN được phân chia theo từng giai đoạn hay gắn với từng triều đại lịch sử.
Các đề mục trong sách giáo khoa đã được biên soạn sắp xếp thành một hệ thống
khoa học, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, màu sắc đẹp. Hình thức học thể hiện rất rõ

nét, HS có thể tự điều hành lẫn nhau để tìm hiểu nội dung kiến thức. Sau mỗi bài đều
có các bài tập vận dụng và có cả Hoạt động ứng dụng (Tìm kiếm sự hỗ trợ của người
thân ) để củng cố, mở rộng kiến thức đã học
Địa bàn dân cư là nơi có điều kiện phát triển ít nhiều cũng hỗ trợ cho HS việc tìm
kiếm thông tin bổ sung kiến thức khi cần thiết. Đa số HS tại điểm trường nơi tôi công
tác đều được HS tiếp cận với công nghệ thông tin ,vì vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin như hiện nay cả phụ huynh và HS có điều kiện để tham khảo các
3


tài liệu, sử liệu trên internet. Bản thân mỗi GV đều có thể tìm kiếm các tài liệu, sử liệu
trên sách báo có liên quan, tự học để nâng cao hiểu biết, nâng cao tay nghề dạy học, góp
phần làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động hơn.
Giáo viên được thực hiện mô hình dạy học mới VNEN nên đã quen dần
với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động học của học sinh. Học sinh đã có ý thức hơn trong học tập, việc tổ
chức các hoạt động học,chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua logo hướng dẫn
học, bước đầu có ý thức học hỏi, tìm tòi, khám phá về Lịch sử.
* Khó khăn
Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới
VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài
theo sách VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một
chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch
sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Sự liên kết
về mặt thời gian của các triều đại trong từng giai đoạn còn chưa rõ ràng . Nội
dung bài khá dài và dàn trải.
Thiết bị dạy học phục vụ cho việc dạy học môn Lịch sử trong nhà trường
còn nhiều hạn chế, thiếu tranh ảnh, mô hình, sa bàn, tư liệu…
Nhận thức, quan niệm của một bộ phận GV đặc biệt là phụ huynh còn
xem nhẹ môn Lịch sử mà chỉ chú trọng vào các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng

Anh. Vì vậy nên chưa đầu tư, quan tâm đúng mức vào chất lương dạy và học
cho môn Lịch sử. Tình trạng GV khi dạy thường cắt xén thời gian, nội dung,
chương trình còn HS học Lịch sử chỉ để đối phó vẫn còn xảy ra. Với HS lớp 4,
môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với chính các em,Trong khi
muốn cho HS yêu thích, hứng thú với môn học lại phụ thuộc rất lớn vào GV,
việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn, khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan
sát, tưởng tượng, khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm
mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi
nhớ một cách máy móc (nhanh nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể,
tường thuật của các em chưa lưu loát, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến
trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em chưa tự tin khi
hợp tác trong nhóm, một số em còn thụ động, các em chưa biết cách theo dõi
kênh chữ kết hợp kênh hình để tìm hiểu nội dung bài. Vì vậy, sau thời gian tiếp
cận với môn học, tôi đã khảo sát HS và thu được kết quả như sau :
Thời gian
Kết quả đạt được
Hoàn thành Tốt
Đầu năm học: 2017- 2018
Tổng số HS 4A(30 em)

3

10

Hoàn thành
19

63,6

Chưa hoàn thành

8

26.4

4


Có thể thấy rằng, số HS thích học, tìm hiểu về Lịch sử đạt ở mức hoàn
thành tốt kết quả chưa cao. Vẫn còn nhiều HS ở mức chưa hoàn thành. Vì vậy,
việc hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự
tôn, tự cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi
giáo viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy
Lịch sử cho học sinh. Đó cũng là lí do để tôi đưa ra các biện pháp áp dụng vào
dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử 4.
2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4.
2.3.1. Biện pháp 1: Góp phần nâng cao nhận thức và quan điểm về
môn học Lịch sử.
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng xứng
đáng trong nhà trường, số tiết vào loại ít nhất (1tiết/ tuần). Nội dung kiến thức dài
và có phần cứng nhắc, HS ngại học.Vì vậy, phải có sự thay đổi mang tính cách
mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm
đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục
đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam: “Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà
không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và
văn hóa dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể
hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, vấn
đề được đặt ra là:
* Đối với giáo viên:
Phải luôn xác định rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên

phải là người yêu thích Lịch sử, phải tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về
lịch sử. Việc bồi đắp kho tàng này không bao giờ là đủ mà phải được thực hiện
liên tục, thường xuyên suốt cuộc đời. Bởi vậy, tôi luôn tìm đọc những cuốn sách
về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, các tài liệu trên mạng internet để
hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Giáo viên có yêu lịch sử thì mới
có thể truyền được tình yêu đó đến học sinh của mình bởi vì ở cấp tiểu học các
em xem giáo viên như thần tượng, như một chuẩn mực để các em hướng đến,
các em bắt chước, làm theo. Với mô hình trường học mới VNEN phương pháp
dạy và học đã có sự thay đổi, học sinh được chủ động học tập, chủ động tìm
hiểu kiến thức song các em chỉ máy móc làm theo câu lệnh của sách chứ thực ra
cũng không hiểu hoặc không nắm được cách học, cách ghi nhớ. Do đó, giáo viên
vẫn là người đóng vai trò rất quan trọng. Lời giảng,lời kể của giáo viên rõ ràng,
truyền cảm sẽ gây được sự chú ý của học sinh.
Giáo viên phải nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến
thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo hệ thống kiến thức chính xác, từ đó có
phương pháp giảng dạy thích hợp.
Quá trình giảng dạy, bản thân mỗi GV phải hiểu và tái hiện được bức
tranh lịch sử một cách sinh động, chân thực bởi dạy lịch sử phải đảm bảo tính
5


chính xác, nói đúng sự thật, điều đó có tác dụng giáo dục niềm tin và gây hứng
thú học tập, từ đó sẽ phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy, tôi
không ngừng nghiên cứu, sưu tầm tài liệu để phục vụ cho việc giảng dạy, khi
dạy phải có dẫn chứng minh họa cụ thể vì “Nói có sách, mách có chứng” thì mới
thể hiện tính chân thực của lịch sử và như thế mới thuyết phục được học sinh.
Mặt khác, thông qua những bài học Lịch sử, tôi luôn khơi dậy những tình cảm
của học sinh đối với nhân vật, sự kiện lịch sử. Qua đó, giáo dục tinh thần đoàn
kết, truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là
chương trình mới VNEN luôn lấy HS làm trung tâm, HS là người chủ động

chiếm lĩnh kiến thức vì thế tôi luôn dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để
lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp nhất đồng thời tôi sử dụng linh hoạt,
kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học vấn đáp hay thảo luận, trao đổi
theo hình thức cá nhân, cặp đôi hay nhóm để giải quyết những vấn đề được đặt
ra. Việc linh hoạt tổ chức đối tượng học sinh hoạt động theo nhóm cũng cần
được quan tâm, tránh áp đặt cố định số lượng hoặc trình độ học sinh hay để học
sinh quá đông trong một nhóm. Hệ thống câu hỏi cũng được tôi lựa chọn kĩ
lưỡng, tôi thường xây dựng những câu hỏi ngắn, gọn, dễ hiểu, vừa sức, đi từ dễ
đến khó và cần nhất là nổi bật trọng tâm bài học giúp HS hiểu, ghi nhớ nội dung
bài tốt nhất.
Ví dụ: Nếu giải quyết chung một đề tài khó thì cần có sự đan xen về trình
độ học sinh trong cùng một nhóm để các em hỗ trợ cho nhau. Nhưng cũng có
lúc, tôi tạo điều kiện cho các em học sinh còn chậm, còn nhiều hạn chế cùng làm
việc với nhau theo nhóm và dành riêng cho các em một đề tài dễ hơn . Đây cũng
là lúc tôi phát huy vai trò của mình “ Dạy học phân hóa đối tượng học sinh.”
Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài
học qua từng hoạt động học tập. Phân chia thời gian hợp lý. Có hình thức khen
thưởng, khuyến khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài,
tránh tối đa hình thức xử phạt, la mắng làm học sinh tự ti mà thu mình lại .
* Đối với học sinh:
Phải thay đổi suy nghĩ về môn Lịch sử bởi đây chính là môn học giúp HS
tìm về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là môn học bổ trợ kiến thức cho các môn
học khác.
HS phải có sự chuẩn bị bài (đọc, tìm hiểu nội dung bài trước khi tiến
hành các hoạt động học tập. Tích cực sưu tầm tài liệu, sử liệu có liên quan đến
bài học để việc học tập được tốt hơn. Đọc thêm sách báo, sách lịch sử, truyện kể
lịch sử, xem phim lịch sử để bổ sung, tích lũy kiến thức về môn học. Khi vào
lớp phải chú ý nghe giảng, nghe theo sự hướng dẫn của giáo viên, biết hợp tác
chia sẻ với các bạn trong nhóm, trong lớp để tập trung và hoàn thành tốt nội
dung bài học.

* Đối với phụ huynh:
6


Thay đổi quan điểm, nhận thức Lịch sử chỉ là môn phụ nên không cần
dành nhiều thời gian mà chỉ tập trung vào những môn cần thiết. Phụ huyngh
phải thấy được trách nhiệm, vai trò của mình trong việc giáo dục tình yêu quê
hương đất nước, lòng tự hào dân tộc từ đó giúp HS hiểu và có trách nhiệm với
môn học, với chính bản thân mình. Ở tiểu học, phụ huynh có thể đọc sách cùng
con, cùng tìm hiểu về các sự kiện, các trận đánh hay nhân vật, triều đại Lịch sử
trên cơ sở định hướng, khắc sâu kiến thức và khơi gợi cho con ham thích tìm
hiểu về Lịch sử nước nhà, từ đó sẽ yêu thích môn học hơn.
2.3.2.Biện pháp 2: Trên sơ sở nắm vững chương trình, nội dung dạy học Lịch
sử lớp 4. Phân loại dạng bài và xác định những phương pháp dạy học phù hợp
Các bài học Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN thì mỗi
bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay
nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành
cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Vì vậy, ở mỗi bài sẽ có sự vận dụng
phương pháp dạy học cho từng tiết khác nhau. Do đó, GV cần xác định linh hoạt
phương pháp dạy học cho từng nội dung kiến thức phù hợp.
. a) Dạng bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình
hình kinh tế - chính trị, văn hóa- xã hội.
Gồm các bài dạy: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng năm
700 TCN đến năm 179 TCN) - Tiết1: Nhà nước Văn Lang; Nhà nước Âu Lạc;
Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập - Tiết1: Nước ta dưới ách
đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc; Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (Từ
năm 1009 đến năm 1226) - (Tiết 1&2); Bài 5: Nước Đại Việt thời Trần. Bài 6:
Nhà Hồ. Bài 8: Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê. Bài 9: Trịnh Nguyễn phân tranh; Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị.
Sau mỗi bài học HS nắm được:
- Hoàn cảnh, địa phận, thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua,

tên nước, nơi đóng đô,…
- Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước.
- Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh
thần của con người trong xã hội.
- Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước.
- So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của
các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại
thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử,…
Vấn đề cần lưu ý: Phải mô tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh
đất nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân. Trong tình cảnh đó, chính
quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào và kết quả của
những việc làm đó.
7


Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, phỏng
vấn, tìm hiểu, thảo luận nhóm, sử dụng đồ dùng dạy học, chia sẻ trước lớp.
b) Dạng bài thứ 2: Dạng bài về các nhân vật Lịch sử gắn liền cuộc khởi
nghĩa, các trận đánh.
Gồm các tiết dạy: Bài 1: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập(Khởi
nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 (Tiết 2); Chiến thăng Bạch Đằng do Ngô Quyền
lãnh đạo năm 938 (Tiết 3). Bài 3: Buổi đầu độc lập (Cuộc kháng chiến chống
quân Tống lần thứ nhất do Lê Hoàn chỉ huy). Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý
(cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2 (Lý Thường Kiệt). Bài 5: Nước Đại
Việt thời Trần (cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên. Bài 7:
Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời kì Hậu Lê (trận Chi
Lăng). Bài 10: Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (Quang Trung đại
phá quân Thanh).
Vấn đề cần lưu ý: Ngay từ đầu tiết học tôi đã tạo cho các em hứng thú tìm

hiểu bài học thông qua Phần khởi động (Hoạt động1). Đây là một trong những
điểm mới của chương trình VNEN. Khởi động chính là một hoạt động tạo nên
sự hưng phấn cho tiết học mà các em trực tiếp điều hành và tham gia . Để gây sự
tập trung tôi đã tổ chức cho các em đoán tên địa danh, tên nhân vật Lịch sử, tên
trận đánh đó mang tên gì số câu đố thông qua hình thức trò chơi mà Hội đồng tự
quản tổ chức. Tôi nhận thấy các em rất hào hứng suy luận, tìm hiểu và tích cực
tham gia Từ ý kiến mà học sinh đưa ra tôi vận dụng và dẫn dắt HS đến mục
tiêu, nội dung của bài học. Trong quá trình dạy học, GV cần giúp HS khai thác
tốt bản đồ, lược đồ, mô hình, sa bàn, về các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh để
các em hiểu được vì sao lại diễn ra cuộc khởi nghĩa đó, ai là người chỉ huy trong
trận đánh đó, kết quả ra sao và cuộc khởi nghĩa đó có ý nghĩa gì.
Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện,Sắm vai,
quan sát – miêu tả, thảo luận nhóm, vấn đáp, tường thuật.
c) Dạng bài có nội dung ôn tập, tổng kết.
Gồm các bài là nội dung các bài ôn tập kiểm tra: Phiếu Kiểm tra 1; Phiếu
Kiểm tra 2; Phiếu Kiểm tra 3 gắn liền với các lần kiểm tra định kì. Dạng bài này là
nhóm kiến thức tổng hợp các chuỗi kiến thức trong từng giai đoạn, từng triều đại .
Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Loại bài ôn tập, kiểm tra là dạng bài nhằm hệ thống hóa và củng cố những
kiến thức đã học cho học sinh sau mỗi thời kì hay giai đoạn lịch sử nhất định, giúp các
em nắmvững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu sắc hơn và toàn diện
hơn, Học sinh có ý thức ghi nhớ lịch sử dân tộc đồng thời chuẩn bị tốt cho bài kiểm
tra, thi cử.
Để dạy tốt dạng bài này, mở đầu bài học, tôi thường nêu nhiệm vụ cần giải
quyết rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong quá trình tiến hành bài học, tôi phải thu hút được tất cả học sinh vào các hoạt
động, phát huy cao nhất tính tích cực của mỗi học sinh trong hoạt động nhóm, chia
8



sẻ, cùng trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công việc như:
vẽ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng… Đây là yếu tố quan
trọng để phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng thực hành.
Thông thường,với dạng bài ôn tập,tổng kết phải vận dụng tổng hợp nhiều
phương pháp. Tuy nhiên cũng tùy từng phần, từng nội dung cụ thể trong từng
bài mà giáo viên lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy học phù hợp. Riêng
tôi lại thấy trò chơi là một phương pháp rất thích hợp với dạng bài này vì nó có
thể tổng hợp kiến thức từ nhiều bài học khác nhau, đồng thời cũng tạo ra không
khí sôi nổi, hấp dẫn cho học sinh trong quá trình học tập. Qua những hoạt động
“học mà chơi, chơi mà học”, học sinh sẽ ghi nhớ một cách tự giác những kiến
thức lịch sử đã học.
Ví dụ minh chứng về một tiêt dạy học theo mô hình dạy học mới VNEN
( Dạng bài nhân vật gắn với các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh)
BÀI 2: HƠN MỘT NGHÌN NĂM ĐẤU TRANH GIÀNH LẠI ĐỘC LẬP
(TIẾT 2 – HĐCB4 đến hết HĐCB6)
I.
Mục tiêu: ( Dành cho cả bài)
Sau bài học, em:
- Biết được từ năm 179 TCN đến năm 938, nước ta bị các triều đại phong kiến
phương Bắc đô hộ.
- Biết được chính sách áp bức, bóc lột của các triều đại phong kiến phương Bắc
đối với nước ta, tên các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta.
- Kể lại được cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và chiến thắng Bạch Đằng do Ngô
Quyền lãnh đạo.

II. Đồ dùng dạy học:
- Sưu tầm tranh ảnh về Ngô Quyền
- Lược đồ diễn biến trận Bạch Đằng năm 938 do ngô Quyền lãnh đạo.
- Hình ảnh tư liệu để phục vụ cho hoạt động kể chuyện 4a.
- Hình ảnh tư liệu về diễn biến trận Bạch Đằng; lăng Ngô quyền để chốt kiến

thức hoạt động 4;5.

III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC :
A. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN:
1. Khởi động:

- Đại diện HĐTQ lên tổ chức trò chơi : ''Ta là vua''.
Việc 1: Phổ biến cách chơi:
- Các bạn đứng theo hình chữ U. Khi quản trò đế một vị trí nào đó và chỉ vào
một bạn, lập tức bạn đó sẽ phải hô to: Ta là vua. Hai bạn hai bên sẽ phải nói :
Muôn tâu bệ hạ đồng thời hai tay lồng vào nhau, cúi thấp hơn so với ông vua.
Việc 2: Quản trò nhận xét tinh thần tham gia trò chơi. Báo cáo với cô giáo kết
thúc phần Khởi động.
Việc 3: GV nhận xét chung, giới thiệu bài .Ghi tên bài lên bảng.
9


Lưu ý học sinh nội dung tiết 2: Tiếp từ HĐCB 4 đến hết HĐCB 6.
Điều chỉnh tài liệu HDH:
HĐCB 4bvà 5a : HS làm việc cá nhân trước khi HĐ nhóm hoặc
hoạt động cặp đôi .
Yêu cầu học sinh tiến hành các hoạt động học tập. ( HS thực hiện tìm
hiểu, chia sẻ mục tiêu trong nhóm, ghi tên bài vào vở, thực hiện tìm hiểu kiến
thức theo hướng dẫn của GV)

HĐ4:Tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến của trận Bạch Đằng(năm
938)
Việc 1: GV kể chuyện (minh chứng nội dung bằng hình ảnh minh họa trên máy chiếu).
Việc 2:
- Cá nhân : Đọc thầm đoạn văn kết hợp xem tranh minh họa .

Việc 3:

HS trao đổi trong nhóm nội dung câu hỏi:
- Bạn biết gì về Ngô Quyền?
- Ngô Quyền dùng kế gì để đánh giặc?
- Dựa và tranh, kể lại diễn biến của trận chiến trên sông Bạch Đằng.
Lưu ý : trong khi HS làm việc cá nhân, nhóm .GV quan sát, hỗ trợ kịp thời . Có
thể phỏng vấn học sinh bằng một số câu hỏi để khắc sâu kiến thức:
- Vì sao lại có trận Bạch Đằng?
- Trận Bạch Đằng diễn ra ở đâu? Ai là người chỉ huy?
- Kế sách đánh giặc của Ngô Quyền có độc đáo không? độc đáo ở điểm
nào?
- Diễn biến của trận đánh ra sao?...
Việc 4:
- Đại diện học sinh lên trình bày diễn biến trận chiến trên sông Bạch Đằng trên
lược đồ.( Trình bày theo lược đồ và tranh minh họa)

10


Lược đồ trận Bạch Đằng năm 938

Trận Bạch Đằng năm 938 (trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

- HS lắng nghe, nhận xét và phỏng vấn chia sẻ với nhau những hiểu biết của
mình.
- GV nhận xét chốt kiến thức. Trình chiếu một số hình ảnh minh họa giới
thiệu về nhân vật lịch sử gắn với trận chiến trên sông Bạch Bằng để khắc sâu
kiến thức.
HĐ 5: Tìm hiểu ý nghĩa của trận Bạch Đằng đối với lịch sử nước ta.

5a.
Việc 1:
- HS đọc thầm nội dung đoạn hội thoại.
Việc 2:
- HS phỏng vấn nhau qua kênh thông tin đoạn hội thoại ( Hỏi – đáp)
5b.
Việc 3:

- HS trao đổi với nhau câu hỏi:
+ Trước và sau chiến thắng Bạch Đằng, tình hình nước ta ra sao?
+ Vì sao nhân dân ta lại xây lăng Ngô Quyền?
Việc 4:

11


- Trưởng ban học tập lên cùng chia sẻ nội dung câu hỏi đã thảo luận trong nhóm
để rút ra ý nghĩa của trận Bạch Đằng đối với lịch sử nước ta.
- Nhận xét, báo cáo với cô giáo kết quả chia sẻ.
- GV nhận xét tổng kết.
Chuyển sang hoạt động 6
HĐ 6: Đọc kĩ và ghi vào vở đoạn văn.
Viêc 1:
- HS đọc thầm đoạn văn nhiều lần
- Ghi nội dung đoạn văn vào vở.
Nhắc nhở học sinh về ôn bài, chuẩn bị bài cho tiết sau.
Ví dụ 2: Một số hoạt động được tổ chức trong tiết ôn tập thông qua hình
thức trò chơi.
Bài ôn tập kiến thức ; Chúng em học được gì qua phần Lịch sử lớp 4. Tôi
sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học đã nêu đồng thời củng cố kiến thức

thông qua hình thức trò chơi “Ô chữ kì diệu”
* Mục đích:
- Hệ thống lại kiến thức lịch sử học sinh đã học.
- Khai thác vốn hiểu biết của học sinh.
- Tạo sự hứng thú trong học tập.
*Chuẩn bị:
- Máy chiếu để trình chiếu nội dung câu hỏi và các ô chữ để HS tìm ra đáp
án cho đáp án cho từng ô chữ. Ở mỗi câu trả lời có khung thời gian cụ thể cho
mỗi câu hỏi học.
- Bảng ô chữ.
- Hệ thống 12 câu hỏi hàng ngang như sau:
Câu hỏi:
1. Ai là người có công dẹp loạn 12 sứ quân?
2. Vị vua đầu tiên nhà Lý tên là gì?
3. Thời Lê, nước ta có tên là gì?
4. Tên một vị tướng giỏi được Thái hậu họ Dương mời lên làm vua?
5. Tên một con sông- nơi diễn ra trận đánh quân Tống xâm lược lần thứ 2.
6. Tên vị chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn làm nên chiến thắng Chi Lăng.
7. Tên kinh đô nước ta do Lý Thái Tổ đặt.
8. Đây là tên người có công trong cuộc lớn kháng chiến chống quân
xâm lược Mông – Nguyên.
9. Nhà Hậu Lê quy định tổ chức thi Hội ở đâu?
10. Ai là tác giả cuốn “Đại Việt sử kí toàn thư”?
11. Tên một nhà thơ, nhà khoa học lớn thời Hậu Lê.
12. Ai là người có câu nói nổi tiếng:”Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin
bệ hạ đừng lo”?
12


 Học sinh tìm ra ô chữ hàng dọc.

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Đ

I

N

H

B



L
Y
T
H
Ư

Ơ
N
G
K
I
Ê
T

Ĩ

N

H

* Cách tiến hành: Chia lớp làm 2 đội chơi, bầu ban giám khảo. GV phổ
biến luật chơi:
+ Khi GV đọc câu hỏi, đội nào tìm ra đáp án trước, đội đó được ghi 10 điểm.
+ Sau khi giải xong ô chữ hàng ngang, tìm ô chữ hàng dọc. Tuy nhiên,
nếu đội nào đoán được ô chữ hàng dọc trước thì có thể giơ lá cờ để trả lời và sẽ
50 điểm.
+ Trọng tài ghi điểm cho từng đội.
+ Mỗi câu hỏi, mỗi đội chỉ được trả lời một lần. Nếu trả lời sai thì quyền
trả lời thuộc về đội kia.
+ Thời gian cho mỗi câu là 20 giây.
- Kết thúc trò chơi,đội nào ghi được nhiều điểm nhất sẽ thắng cuộc.
- Phần trò chơi khán giả: Cũng trong các nhân vật hay sự kiện lịch sử mà các
đội vừa tìm trong ô chữ, tôi yêu cầu HS nêu tóm tắt diễn biến hoặc một số thành tựu
nổi bật của nhân vật hay triều đại đó . Mục đích để củng cố và khắc sâu hơn kiến
thức cần nhớ. Phần này sẽ sử dụng thêm nhiều câu hỏi phụ xoay quanh các trận đánh
hay các nhân vâth lịch sử.

2.3.3. Biện pháp 3: Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ
dùng dạy học kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử.
Học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong
quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Đặc trưng nổi
bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực
trong quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể “phán đoán”, “suy luận”,… để
biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn Lịch sử trong nhà
trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp xúc với những chứng cứ vật
chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh
động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về
13


con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định,
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước hết phải
kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo viên dùng
phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch
sử. Có thể nói, chỉ có miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái hiện được những
biến cố lịch sử quan trọng, đem đến cho học sinh những hứng thú mạnh mẽ. Do
sách giáo khoa viết rất cô đọng, trừu tượng nên tôi đã sử dụng nhiều tư liệu, kết
hợp với đồ dùng trực quan (tranh ảnh, bản đồ) để miêu tả, tường thuật. Mặt
khác, GV phải hiểu và sử dụng các phương tiện trực quan (kênh hình) một cách
hiệu quả nhất. Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch
sử còn nhiều hạn chế. Ví dụ về hệ thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một
điều rằng hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ
Giáo dục và đào tạo ban hành không đủ. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu
sắc còn đơn điệu, thiếu đồng bộ. Trước những khó khăn đó, việc dạy học theo
hướng ứng dụng công nghệ thông tin là một giải pháp tích cực, là hướng đi kịp

thời để giải quyết những khó khăn nêu trên. Vì vậy, tôi thường soạn giáo án Lịch
sử trên phần mềm PowerPoint. Khi giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng.
Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt động. Được tiếp xúc với tranh ảnh lịch
sử sinh động, các em chủ động tiếp thu và nắm vững kiến thức hơn.
Tôi phân loại kênh hình trong sách Hướng dẫn học Lịch sử và địa lí như sau:
Loại thứ nhất là bản đồ, lược đồ: Chủ yếu được bố trí ở loại bài về các
cuộc khởi nghĩa, các chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh hiểu được vị
trí của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh cách bố trí lực lượng hai bên và
diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh. Khi khai thác lược đồ giáo
viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu xa của cách chọn vị trí trận địa,
việc bố phòng và hướng tấn công của hai bên qua đó làm nổi bật âm mưu của
địch, sự mưu lược và nghệ thuật quân sự tài tình của những vị tướng chỉ huy
trận đánh cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng yêu
nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em.
Ví dụ ở bài: “Nước Đại Việt thời Lý (từ năm 1009 đến năm 1226) khi
hướng dẫn trên lược đồ. Người giáo viên không dừng lại ở mức độ chỉ cho học
sinh thấy các hướng tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch của ta
một cách đơn thuần mà còn phải giúp các em phân tích để thấy âm mưu thâm
độc của địch và bằng nghệ thuật quân sự tài tình Lý Thường Kiệt đã đập tan âm
mưu của chúng. Thông qua lược đồ HS tường thuật lại diễn biến của trận đánh
trên sông Như Nguyệt.

14


Lược đồ trận chiến tại phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Loại kênh hình thứ hai là tranh, ảnh tư liệu: Đó là tranh ảnh về các cuộc kháng chiến, về tình
hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân, về các thành tựu kinh tế, văn hoá,
khoa học kĩ thuật của mỗi triều đại ứng với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài
này người giáo viên phải am hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật,

khoa học, kĩ thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ việc
giảng dạy đạt hiệu quả cao. Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu
khắc, kiến trúc, các giá trị văn hoá phi vật thể là khó khăn hơn cả với người giáo viên vì đây là
những lĩnh vực không dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến học sinh, nhất là học sinh tiểu
học. Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học,
chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các giá trị văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử có ở trên
sách báo và trên các trang mạng. Những chứng cứ sát thực không dàn trải. Tất nhiên khi diễn
đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng thứ ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp với nhận
thức của các em, đặc biệt phải bằng các hình ảnh tư liệu trực quan.
Ví dụ: Khi dạy bài “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê” tôi cho
HS quan sát tranh, ảnh về văn miếu Quốc Tử giám, các tấm bia tiến sĩ trong văn
miếu để HS hiểu hơn về trường học và việc tổ chức thi cử ở thời Hậu Lê.

Văn Miếu Quốc Tử Giám

15


Bia tiến sĩ trong Văn Miếu
Loại kênh hình thứ ba là ảnh chân dung nhân vật lịch sử: Đây là ảnh của
các nhân vật lịch sử trong loại bài dạy về nhân vật lịch sử. Số bài dạy về các
nhân vật lịch sử tiêu biểu trong chương trình Lịch sử lớp 4 không nhiều. Cái mới
của loại bài này so với chương trình cũ là dạy nhân vật lịch sử thông qua và gắn
liền với sự kiện lịch sử chứ không thuần tuý kể về nhân vật lịch sử như trong
chương trình cũ. Vì vậy, việc khai thác ảnh chân dung của nhân vật phục vụ bài
dạy phải đảm bảo nguyên tắc: Làm nổi bật tư chất, nhân cách nhân vật nhưng
không tách rời nhân vật lịch sử ra khỏi mối quan hệ với thời đại của nhân vật và
sự kiện lịch sử mà nhân vật có vai trò quyết định.
Ví dụ khi dạy một số bài: “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê (giới
thiệu chân dung nhân vật Nguyễn Trãi), Phong trào Tây Sơn và Vương triều Tây

Sơn (giới thiệu anh hùng Nguyễn Huệ - Quang Trung). Đây là những bài gắn với
sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất hiện của các nhân vật Lịch sử tiêu biểu, vì
vậy giáo viên cần sử dụng triệt để các hình ảnh, chân dung các nhân vật lịch sử và
có sự so sánh vai trò của họ ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.

Nguyễn Trãi
2.3.4.Biện pháp 4: Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.

16


Sẽ là thiếu sót nếu như không nhắc đến vai trò quan trọng của HS bởi GV
có chuẩn bị bài tốt đến cỡ nào, có dạy hay, dạy giỏi đến bao nhiêu mà học sinh
không chú ý, không tự giác, tích cực, chủ động trong học tập thì sẽ không chiếm
lĩnh được kiến thức và chắc chắn tiết dạy đó sẽ không thành công. Chính vì vậy
tôi đặc biệt chú ý trong việc hướng dẫn HS học tập bằng cách phát huy tính tích
cực của các em.
Việc phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh có vai trò quan
trọng trong quá trình dạy học, đó là việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đòi
hỏi ở người học sinh phải độc lập, tự giác, tự tin, chủ động, trở thành chủ thể của
hoạt động học tập. Trong đó thầy, cô giáo đóng vai trò là người tổ chức, hướng
dẫn, gợi mở các hoạt động của học sinh. Thông qua hoạt động học, mỗi học sinh
đều có cơ hội được bộc lộ mình và đều có cơ hội phát triển.
* Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng đọc và phân tích tư liệu.
Để học sinh dễ hiểu, dễ nắm được những sự kiện, thời gian lịch sử, cần rèn cho học
sinh kĩ năng đọc và phân tích tư liệu. Các câu lệnh trong sách Hướng dẫn học đã được in
nghiêng rất dễ thấy, tôi dựa vào các yêu cầu đó để hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt
động, có thể chuẩn bị thêm hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức giúp cho các em phát huy
khả năng nói, hạn chế tối đa việc học thuộc lòng và ghi nhớ máy móc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến năm 1009)”. Để biết được

tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất, các em đọc thầm đoạn văn trong sách nắm
chắc nội dung kênh chữ sau đó trao đổi cặp đôi để trả lời câu hỏi: Sau khi Ngô Quyền
mất tình hình nước ta như thế nào ? (Sau khi Ngô Quyền mất triều đình lục đục, tranh
nhau ngai vàng, các thế lực cát cứ địa phương nổi dậy, chia cắt đất nước thành 12
vùng,)...Phải có sự liên kết giữa các triều đại, thời gian nguyên nhân sụp đổ,…để HS
nắm vững kiến thức.
* Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng quan sát và kể, trình
bày lại diễn biến cuộc kháng chiến qua bản đồ, lược đồ, …
Qua 2 bài đầu của môn Lịch sử - Địa lí tôi đã hướng dẫn cho các em kĩ
năng quan sát, mô tả, kể những sự kiện lịch sử trên bản đồ, lược đồ. Vì vậy, một
số bài có bản đồ, lược đồ, tôi sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, để cho học sinh quan
sát. Có thể phóng to để hấp dẫn, thu hút sự chú ý, giúp các em có ấn tượng sâu
sắc và không bị quên lãng khi học xong.
Tôi chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức, giúp các em phát huy kĩ
năng nói, khả năng diễn đạt khi kể hoặc trình bày diễn biến theo bản đồ hoặc
lược đồ.
Ví dụ khi dạy bài 3: “Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến năm 1009)”. Khi tìm
hiểu diễn biến của cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Để học sinh trình
bày được diễn biến cuộc kháng chiến, tôi xây dựng hệ thống câu hỏi như sau và tổ
chức cho HS thảo luận, trình bày trong nhóm trước khi trình bày cả lớp:
1. Quân Tống xâm lược nước ta vào thời gian nào? Chúng tiến vào nước
ta theo mấy đường, là những đường nào?
17


2. Lê Hoàn chia quân thành mấy cánh và đóng quân ở những đâu để đánh giặc?
3. Kể lại hai trận đánh lớn giữa quân ta và quân Tống?
4. Kết quả của cuộc kháng chiến như thế nào?
Biện pháp này giúp các em hứng thú trong học tập, ghi nhận các mốc thời
gian, sự kiện lịch sử chính xác và nhớ lâu.

*Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng quan sát và phân
tích tranh ảnh (làm bài tập trắc nghiệm).
Các bài Lịch sử lớp 4 đa số bài nào cũng có kênh hình minh họa giúp học
sinh hình dung rõ hơn các sự kiện lịch sử của từng giai đoạn lịch sử.
Ví dụ bài: “Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập”. Ngoài việc
đọc thông tin SGK, các em phải quan sát, mô tả khí thế oai phong khi Hai Bà
Trưng cưỡi voi ra trận để thuật lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Hay bài: “Trịnh – Nguyễn phân tranh”. Các em quan sát lược đồ để biết
được địa phận Bắc triều – Nam triều và Đàng Trong, Đàng Ngoài, sông Gianh là
nơi chia cắt đất nước (thế kỉ XVI).
Với cách làm này giúp học sinh nhớ lâu những sự kiện lịch sử gắn liền với
những nhân vật lịch sử tiêu biểu.
* Phát huy tính tích cực của học sinh qua hình thức tự học tập và tự đánh giá.
Muốn học sinh nhớ lâu và không bị sai lệch thời gian, nhân vật, sự kiện lịch
sử tôi thường tổ chức nhiều hình thức học tập, các hình thức vừa mang tính khoa
học, mềm dẻo, vừa mang tính thực tế sâu sắc. Phối hợp các hình thức khác nhau
để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học. Phát huy tính độc lập suy nghĩ, sáng
tạo, mạnh dạn trình bày ý kiến riêng, hăng hái và biết bảo vệ ý kiến của mình
đồng thời biết lắng nghe ý kiến người khác, chia sẻ, hợp tác công việc với bạn.
Ví dụ bài: “Nhà Hồ (từ năm 1400 đến năm 1407)”.
Để tìm hiểu tình hình nước ta cuối thời Trần như thế nào? GV cho HS làm
bài tập: Viết tiếp vào chỗ chấm trong các câu sau đây cho đủ ý về tình hình nước
ta cuối thời Trần:
- Vua quan
…………………………………………….
- Những kẻ có quyền thế …………………..… của dân để làm giàu.
- Đời sống của nhân dân
……………………....................................
(Từ cần điền: ngang nhiên vơ vét; vô cùng cực khổ; ăn chơi sa đọa).
Tôi yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, suy nghĩ tìm từ thích hợp để điền

vào chỗ chấm. Cách làm này kích thích trí óc tìm kiếm suy luận, tư duy tưởng
tượng của học sinh giúp các em nhớ lâu, nhớ chính xác các sự kiện lịch sử đã
diễn ra. Tạo cho các em ý thức học tập tích cực.
2.3.5. Biện pháp 5: Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp
xúc các nguồn sử liệu; qua các hoạt động ngoại khóa.
Lịch sử đã đi qua nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại dấu vết của
nó qua kí ức của nhân loại. Ngày nay, ngoài những hình thức dạy học truyền thống, ở
18


những trường học có điều kiện người ta hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức
dạy học tại thực địa, bảo tàng, khu di tích,… Các em sẽ hứng thú hơn với Lịch sử
nước nhà, hình thành thói quen tự giác tìm hiểu Lịch sử quốc gia. Tất cả các kiến thức
ấy sẽ thấm dần vào nhận thức của học sinh một cách tự giác chứ không phải nhồi nhét
một cách thụ động, tiêu cực.Tuy nhiên không phải trường nào, địa phương nào cũng
có hay cũng tổ chức được hoạt động dạy học này nên chúng ta có thể giới thiệu cho
HS những hình ảnh, sự kiện, nhân vật cuộc kháng chiến thông qua tài liệu mà GV tìm
kiếm và tái hiện nó bằng hình ảnh trên máy chiếu.
Ví dụ khi dạy Bài 3: “Buổi đầu độc lập” (Từ năm 938 đến năm 1009)
Tôi đã lồng ghép cho HS xem một thước phim tư liệu về cảnh Thập đạo tướng
quân Lê Hoàn được Thái hậu Dương Vân Nga trao áo long bào, mời lên ngôi
vua và chỉ huy binh sĩ đánh tan quân Tống xâm lược lần thứ nhất năm 981 để
giữ yên bờ cõi. HS đã rất hào hứng lắng nghe, quan sát, hiểu được bối cảnh lên
ngôi của Lê Hoàn (Lê Đại Hành) và thuật lại được diễn biến, kết quả ý nghĩa của
trận đánh của ông). Hoặc khi dạy bài 7: Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt
buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV).Nhân vật lịch sử gắn liền với Lịch sử địa
phương, tôi báo cáo với nhà trường, phối hợp đại diện cha mẹ học sinh và ban
quản lí di tích Lịch sử Lam kinh cho các em đến tham quan bảo tàng Lịch sử để
được nghe và hiểu thêm về Vị vua có công đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Hiểu
thêm về Lịch sử địa phương, về mảnh đất Thọ Xuân không chỉ là mảnh đất địa

linh nhân kiệt anh hùng mà còn là một điểm đến hấp dẫn của mọi người . Những
dấu vết cổ xưa của lịch sử phong kiến vẫn được nhân dân bảo tồn, giữ gìn và tu
sử lại, khang trang nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ xưa của từng triều đại
Tiền Lê và Hậu Lê (Đền thờ của vua Lê Hoàn – xã Xuân Lập; Khu Di tích Lịch
sử Lam Kinh (Đền thờ vua Lê Lợi Xã Xuân Lam).
Bên cạnh những giờ học trên lớp chật hẹp, các tiết học ngoại khóa là điều
cần thiết để giải tỏa những căng thẳng và bổ sung thêm nhiều kiến thức cho học
sinh. Vì vậy, tổ chức cho học sinh thi tìm hiểu về Lịch sử hay cho học sinh thăm
quan các khu di tích lịch sử tại địa phương để tìm hiểu về các thế hệ cha ông thuở
trước. Tất cả các kiến thức ấy sẽ thấm dần vào nhận thức của học sinh một cách
tự giác chứ không phải nhồi nhét một cách thụ động, tiêu cực
Vẫn biết phương pháp trên mang lại hiệu quả giáo dục tích cực nhưng trên
thực tế, việc tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch sử, bảo tàng
hay các địa danh là điều không dễ gì để thực hiên. Vì vậy, trong quá trình giảng
dạy, tôi thường tổ chức các buổi triển lãm tranh ảnh lịch sử theo giai đoạn. (Phần
lớn tranh ảnh là do tôi sưu tầm trên mạng, trên sách báo), tổ chức các trò chơi
“Theo dòng lịch sử” dưới hình thức “Rung chuông vàng”, “Đường lên đỉnh
Olympia” để củng cố kiến thức lịch sử cho học sinh. Tổ chức các buổi kể
chuyện lịch sử cho học sinh nghe. (Nguồn truyện lấy từ cuốn Đại Việt sử kí toàn
thư, Các triều đại Việt Nam) nhằm tăng sự hứng thú học Lịch sử cho học sinh
trong lớp và mở rộng ra cả toàn trường.
19


2.4. Kết quả đạt được:
Sau khi đã vận dụng những kinh nghiệm đã tích lũy được dụng vào thực
tế dạy học tôi nhận thấy: Cả GV và HS đã thay đổi cách nghĩ về môn Lịch sử từ
đó cũng thay đổi cách dạy, cách học theo hướng tích cực. Giờ học Lịch sử
không còn nhàm chán, nặng nề, khô khan, nhiều học sinh ham thích học vì giáo
viên biết cách tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp. Môn học này không còn

là môn học “khó nuốt” nữa.
GV đã biết vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, phù hợp với
từng loại bài, không thiết phải rập khuôn và gói gọn kiến thức trong sách giáo
khoa. Biết cách sử dụng các đồ dùng dạy học môn Lịch sử nhuần nhuyễn, biết
cách khai thác đồ dùng dạy học một cách hiệu quả.
Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Đề tài này đã được bản thân tôi vận dụng vào thực tế dạy học và mang lại
kết quả khả quan. Chất lượng dạy học môn Lịch sử được nâng lên đáng kể.
Chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 4, năm học 2017 -2018 và hơn
một học kì năm học tiếp theo được nâng lên rõ rệt.Cụ thể: Kết quả được kiểm
chứng qua gần hai năm học với tổng số 30 em.
Thời gian
Kết quả đạt được
2018-2019
Đầu năm học( Khảo sát qua
phiều bài tập.)
Cuối học kì I
Cuối năm

Hoàn thành Tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

3
8

10
26,7


19
18

63,3
60

8
4

26,7
13,3

17

57

13

43

0

0

3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận.
Một dân tộc phát triển là một dân tộc biết gìn giữ và phát huy những
truyền thống lịch sử. . Nhiệm vụ ấy đang đặt nặng trên “đôi vai” ngành giáo dục
nước nhà, mà cụ thể là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo chúng ta. Dạy học sinh

biết, hiểu, tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc là góp phần giữ gìn,
phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc, góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam thành một khối đoàn kết vững chắc.
Dạy học lịch sử cần được vận dụng bằng nhiều hình thức sinh động, phong
phú. Lịch sử là cần chính xác tuyệt đối về thời gian, về số liệu minh chứng.
Việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, phải được tiến hành đồng thời
trên tất cả các mặt: từ việc thay đổi nhận thức, suy nghĩ của người dạy và người
học đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Các mặt đó có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau bởi vì không có biện pháp nào là vạn năng cả. Người giáo viên cần
khéo léo kết hợp để tạo ra hiệu quả cao cho tiết học.

20


Khảo sátt, kiểm tra và đánh giá là khâu then chốt trong quá trình dạy học.
Đánh giá vừa mang mục đích xác định mức độ năng lực và kiến thức được hình
thành ở học sinh, vừa giúp giáo viên điều chỉnh được hoạt động dạy học của
mình.
3.2. Kiến nghị.
Nhà trường cần đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị, đồ dùng dạy học
phục vụ dạy học phân môn Lịch sử.
Tổ chức thi tìm hiểu Lịch Sử địa phương, danh nhân, sự kiện lịch sử trong
phạm vi nhà trường.
Tổ chức các sân chơi bổ ích cho HS như Rung chuông vàng, Theo dòng
lịch sử, Nhà sử học nhỏ tuổi để các em vừa chơi mà vừa học.
- Tổ chức tốt các hoạt động ngoại khóa để các em được trải nghiệm thực tế.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 nhưng sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong hội đồng khoa học các cấp góp ý để đề tài này được hoàn
thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 16 tháng 3 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

21



×