Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.18 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Theo Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung mục tiêu giáo dục Tiểu học là đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân;
phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Bậc Tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành nhân cách ở học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về
khoa học tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các
phương pháp và kĩ năng về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi
dưỡng tình cảm. Mục tiêu trên được thực hiện thông qua việc dạy - học các môn
học và thực hiện các hoạt động có định hướng theo yêu cầu giáo dục. Trong các
môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Toán học trang bị
cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết
cho đời sống sinh hoạt nói chung, tư duy phát triển nhận thức nói riêng. Ứng dụng
của môn Toán còn giúp học sinh học tốt các môn học khác và nhận thức thế giới
xung quanh. Đồng thời môn Toán còn góp phần vào việc hình thành và phát triển
tư duy, khả năng suy luận logic, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích trí
tưởng tượng, khả năng khám phá, hình thành nhân cách cho các em. Đặc biệt là
với học sinh lớp 1. Kiến thức Toán ở lớp 1 là kiến thức bước đầu trang bị cho học
sinh từ nhận biết các số, dấu phép tính, nhận biết một số hình cơ bản và nâng dần
đến thực hiện các phép tính cộng, trừ, giải toán.
Giải toán có lời văn là một trong các mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt
chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em phát
huy được trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày,
tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức
Toán học. Học giải toán có lời văn các em sẽ được giải các bài toán về số học,
các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu
nối giữa Toán học và thực tế đời sống, giữa Toán học với các môn học khác.


Thực tế qua giảng dạy nhiều năm ở lớp 1 tôi thấy phần cộng, trừ các số tự
nhiên, so sánh số, điền số vào ô trống,… học sinh thực hiện tương đối tốt. Riêng
phần Giải toán có lời văn, nhiều em còn lúng túng, ngại làm, làm rất chậm. Do
các em đọc chữ chưa trôi chảy, vốn kiến thức ngôn ngữ, nói, viết còn hạn chế
nên việc hiểu đề bài còn chậm. Vì vậy, đôi khi các em ghi được phép tính nhưng
chưa nêu được đầy đủ câu lời giải, ở kết quả của phép tính thì còn sai tên đơn vị
hoặc sử dụng không đúng dấu ngoặc đơn. Từ đó dẫn đến tình trạng các em ngại
làm toán có lời văn dẫn đến chất lượng môn Toán chưa cao. Đó là điều bản thân
tôi luôn băn khoăn, trăn trở. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:“Hướng
dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn”, nhằm giúp học sinh biết cách giải các
bài toán có lời văn, nâng cao hiệu quả giờ dạy Toán.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

1


Nghiên cứu việc dạy học giải toán có lời văn nhằm phát hiện những khó
khăn, hạn chế còn tồn tại cả về nội dung và phương pháp. Từ đó tìm cách khắc
phục, điều chỉnh cách hướng dẫn học sinh để nâng cao hiệu quả dạy - học.
Góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
theo phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh,
tăng cường hoạt động cá thể, phối hợp với học tập giao lưu; Hình thành và rèn
luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Hướng dẫn giải bài toán có lời văn giúp học sinh lớp 1 dễ hiểu và nhớ lâu
cách giải bài toán, tạo cho các em học sinh sự say mê, hứng thú khi học tập môn
Toán - môn học được coi là khô khan, hóc búa. Từ đó, giúp các em chủ động
lĩnh hội kiến thức thức toán học, tạo tiền đề để các em học tốt các môn học khác.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Hướng dẫn học sinh lớp 1 giải các bài toán có lời văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:

1.4.1. Phương pháp nghiên cứu cơ sở lí luận:
Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan tới vấn đề dạy học sinh lớp 1
giải toán có lời văn để rút ra những nhận xét, đánh giá và đưa ra quan điểm của
bản thân hoặc quan điểm mà bản thân tán thành. Đó là, dạy cho học sinh biết
cách phân tích và giải các bài tập khác nhau thuộc các dạng khác nhau bằng
cách giải toán có lời văn.
1.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Thông qua dự giờ, quan sát các giờ học của học sinh, trao đổi ý kiến với
giáo viên trực tiếp giảng dạy khối 1 và học sinh khối 1.
Kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của biện pháp bản thân áp dụng.
1.4.3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu:
Dùng công thức toán học tính tỉ lệ % các số liệu thu được để có sự đánh giá
đúng nhất.
Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên được thực hiện một cách
thống nhất, quan hệ chặt chẽ bổ sung lẫn nhau.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Toán nói riêng, người giáo
viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt
động học tập để phát triển năng lực cá nhân. Giáo viên tổ chức hướng dẫn học
sinh, huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm bản thân để học sinh chiếm lĩnh tri
thức rồi vận dụng các tri thức đó trong thực hành. Tạo cho học sinh thói quen
làm việc tự giác, chủ động, không rập khuôn, máy móc, biết tự đánh giá và đánh
giá kết quả học tập của mình, của bạn. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin,
niềm vui trong học tập. Đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực
sở trường của mình, biết ứng dụng kiến thức mới trong bài học vào thực tế.

Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học không loại bỏ phương pháp dạy học
truyền thống mà phải vận dụng một cách hợp lý biết cách lồng ghép giữa
phương pháp cũ và phương pháp mới thông qua hoạt động học tập của học sinh,
từ đó các em thu nhận tri thức mới và rèn luyện phát triển kĩ năng mới.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được
thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc nhau, có
liên quan tới cuộc sống xảy ra hằng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là ở chỗ
làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học
của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ
giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải,
những phép tính thích hợp, từ đó tìm ra được đáp số của bài toán. Hiện nay do nhu
cầu đổi mới giáo dục nên ngay từ lớp 1, học sinh đã được làm quen với việc giải toán
có lời văn, đây là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình môn Toán ở Tiểu
học. Việc dạy các em nắm bắt được cách giải bài toán có lời văn ngay từ lớp 1 là việc
làm thiết thực, giúp các em dễ dàng tiếp thu, tôi luyện và trang bị kiến thức để các
em tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức
của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải
toán kết hợp với kíến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn
ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra yêu cầu cho học sinh đọc - hiểu - biết
hướng giải, đưa ra câu lời giải kèm phép tính và đáp số của bài toán.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Về giáo viên.
Qua hoạt động dự giờ thăm lớp, trao đổi kinh nghiệm với các đồng chí giáo
viên giảng dạy khối 1, qua tìm hiểu các tài liệu tham khảo và kinh nghiệm thực
tế giảng dạy ở trường, tôi nhận thấy: Trong dạy học môn Toán nói chung, dạy
học giải toán có lời văn nói riêng, hình thức tổ chức các hoạt động học tập còn
đơn điệu, việc sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả chưa cao, phương pháp dạy
học còn thiếu linh hoạt nên các em học sinh lớp 1 nắm bài học chưa sâu, dẫn đến
kết quả học tập của các em còn hạn chế, chưa phát huy hết khả năng của mình,

thậm chí có em còn sợ học môn Toán. Có những giáo viên khi dạy học môn
Toán chưa gắn liền hoạt động dạy học với ứng dụng thực tiễn, chưa tạo ra điều

3


hấp dẫn để học sinh hứng thú học tập; còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh tìm
hiểu các dạng giải toán có lời văn, giáo viên chỉ chú trọng kết quả của học sinh
mà chưa đi sâu vào phần hướng dẫn học sinh tóm tắt, hiểu và trình bày bài giải.
Bên cạnh đó, việc học sinh luyện giải toán trong bảng con còn hạn chế, giáo
viên chưa nhận xét kĩ những lỗi sai của từng học sinh trong lớp.
Tôi thiết nghĩ, nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên
chưa đầu tư thoả đáng vào việc nghiên cứu bài giảng để chọn ra phương pháp
giảng dạy cho phù hợp với khả năng, đối tượng học sinh. Giáo viên nặng về kết
quả học sinh tìm lời giải và phép tính của một bài toán cụ thể mà chưa chú
trọng dạy cho học sinh cách giải (các bước giải) của dạng toán đó như thế nàò
để phát huy tính tích cực của các em.
Thực tế này dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao, các em chưa có
hứng thú trong việc phân tích, khám phá những bài toán có lời văn. Vì vậy, mỗi
thầy giáo, cô giáo cần phải tìm cách khắc phục những khó khăn, hạn chế đã nêu,
tìm ra phương pháp dạy học tích cực phù hợp để nâng cao chất lượng dạy học
nói chung, dạy học sinh giải toán lớp 1 có lời văn nói riêng.
2.2.2. Về học sinh:
Trong nhiều năm qua, tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
1. Trong quá trình dạy môn Toán, tôi nhận thấy học sinh lớp 1 bước đầu các em
được tiếp xúc với toán học với tư cách là một môn học, được tiếp cận với các
thao tác tư duy như là so sánh, quan sát, phân tích. Đây là một thử thách lớn đối
với học sinh trong khi các em đang bắt đầu với các con số, nét chữ. Làm sao để
các em tập trung chú ý vào việc học toán có hiệu quả - đây là sự đòi hỏi lớn đối
với giáo viên.

Đối với học sinh lớp 1, việc giải toán còn nhiều bỡ ngỡ, nhất là việc giải
các bài toán có lời văn lại càng khó khăn hơn khi các em vừa học chữ, vừa học
viết, vừa học cách trình bày. Có em “đọc chưa thông, viết chưa thạo” nên việc
giải toán còn nhiều tồn tại, còn thụ động máy móc, đặc biệt chưa biết ghi lời giải
cho phép tính hoặc ghi sai lời giải.
+ Học sinh đọc được đề bài nhưng chưa hiểu đề bài, chưa biết thế nào là
tìm hiểu bài toán có lời văn.
+ Các em không biết tìm hiểu bài toán cho biết gì ? bài toán hỏi gì ? Cách
làm như thế nào ?
+ Các em chưa hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, bớt, cho đi, mua về,
và câu hỏi: Có tất cả bao nhiêu ? Còn lại bao nhiêu ?
+ Các em không biết hoặc lúng túng khi tóm tắt bài toán, lúng túng khi nêu
câu lời giải, có khi học sinh viết lại đầy đủ câu hỏi của bài toán. Không hiểu
thuật ngữ toán học nên không biết nên cộng hay trừ dẫn đến nói sai, viết sai
phép tính, sai đơn vị, viết sai đáp số.
+ Một số em làm đúng nhưng khi giáo viên hỏi lại không biết trả lời. Điều
đó chứng tỏ các em chưa hiểu cách giải bài toán có lời văn.
Để có cơ sở so sánh kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm, tôi
đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Toán lớp 1(Phần giải toán có lời văn) vào
tuần 23 trong hai năm học (2017-2018; 2018-2019)

4


Kết quả cụ thể qua khảo sát chất lượng như sau:
Năm học

Lớp Sĩ
số


HS viết
đúng câu
lời giải
SL

TL

HS viết
đúng phép
tính

HS viết
đúng đáp số

HS giải
đúng cả 3
bước

SL

SL

SL

TL

TL

TL


2017-2018 1A 30 19 63,3
23 76,6 24
80,0
19
63,3
2018-2019 1A 29 20 69,0
24 82,7 25
86,2
20
69,0
Từ kết quả khảo sát trên cho thấy, có nhiều học sinh không biết làm một bài
toán có lời văn hoàn chỉnh. Có em viết đúng lời giải thì làm sai phép tính, có em
lại viết sai lời giải mà phép tính và đáp số lại đúng. Số học sinh làm hoàn chỉnh
một bài toán có lời văn còn thấp. Để khắc phục những hạn chế trên, để phát huy
khả năng học Toán cho học sinh nói chung và cách giải những bài toán có lời
văn nói riêng tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích
cực, có hiệu quả của học sinh trong giờ học Toán.
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
Biện pháp 1. Giáo viên cần nắm vững phương pháp giải toán có lời văn.
Với những dạng bài toán có lời văn ở lớp 1, giáo viên hướng dẫn học sinh
lựa chọn phương pháp giải sao cho phù hợp với đặc điểm tư duy của các em.
Đặc biệt, giải toán dựa vào hình ảnh minh họa trực quan chiếm ưu thế trong việc
dạy giải toán có lời văn ở lớp 1.
Để đảm bảo tính vừa sức, tôi hướng dẫn học sinh thông qua các bước sau:
Biểu thị các yếu tố của bài toán qua tóm tắt.
Nhận biết những yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm (dựa vào tóm tắt), học
sinh tự tìm tòi tri thức.
Phát hiện mối quan hệ giữa yếu tố phải tìm và yếu tố đã cho.
Học sinh vận dụng các kiến thức đã học để giải bài toán hoặc tìm ra cách
giải mới (học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức).

Vậy để hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn giáo viên cần phải
trang bị cho các em vốn kiến thức cơ bản về các nội dung có liên quan.
Biện pháp 2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cấu tạo bài toán có lời văn.
Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách tôi cho học sinh tiếp cận với một đề
bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện. Tư duy học
sinh từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn
ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng là phù hợp với tư duy của học sinh.
Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi với các dạng
khác nhau:
Điều đó được thể hiện rất rõ ở tiết 81 (Trang 115) gồm các bài toán có lời văn
mỗi bài có các yêu cầu khác nhau. Ở tiết học này học sinh được làm quen với
các đề bài toán chưa hoàn thiện. Cụ thể là:
Tiết 81: Bài toán có lời văn (Trang 115, 116- SGK Toán 1)
*Dạng đề bài toán thiếu cái đã cho.
Bài 1. Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán.

5


Bài toán: Có ... bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?
Đối với bài toán này tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
- Có mấy bạn đang đứng ? (1 bạn)
Vậy chỗ chấm thứ nhất điền số mấy ? (số 1)
- Thêm mấy bạn đang đi tới ? (3 bạn)
Vậy chỗ chấm thứ hai điền số mấy ? (số 3)
Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học
sinh hoàn chỉnh bài toán như sau:
Bài toán: Có 1 bạn, có thêm 3 bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
Bài 2. Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:


Bài toán: Có …con thỏ, có thêm …con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con thỏ ?
Tương tự như bài toán trên, tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời
câu hỏi:
- Bên trái có mấy con thỏ ? (5 con). Vậy chỗ chấm thứ nhất điền số mấy ?
(số 5)
- Có thêm mấy con thỏ đang chạy tới ? (4 con). Vậy chỗ chấm thứ hai điền
số mấy ? (số 4)
Học sinh hoàn chỉnh bài toán như sau:
Bài toán: Có 5 con thỏ, có thêm 4 con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con thỏ ?
* Dạng đề bài toán thiếu cái cần tìm.
Đối với dạng bài này tôi giúp học sinh sử dụng kĩ năng quan sát tranh, để
hoàn chỉnh đề bài toán. Từ đó giúp học sinh nắm chắc đề bài toán có lời văn ở
lớp 1 gồm 2 phần:
+ Phần cho biết và phần hỏi:
- Phần cho biết gồm 2 yếu tố: (Có..., cho thêm....)
- Phần hỏi: (Có tất cả.....)

6


(Hoặc phần cho biết gồm 2 yếu tố: (Có... bay đi.....); phần hỏi:( còn lại...)
Bài 3. (Trang 116). Viết tiếp câu hỏi để có bài toán:
Bài toán: Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.
Hỏi............................?
- Tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi ?
+ Bài toán cho biết gì? (có 1 gà mẹ và 7 gà con)
+ Vậy câu hỏi của bài toán là gì? (Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?)
Sau khi học sinh xác định được cái cần tìm của bài toán thì đề bài toán

được hoàn chỉnh như sau:
Bài toán: Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà ?
* Dạng đề bài toán thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm.
Bài toán 4: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài toán: Có…con chim đậu trên cành, có thêm …con chim bay đến.
Hỏi ………………………………………………….?
Đối với bài toán này, tôi yêu cầu học sinh nhìn tranh vẽ, nêu số thích hợp
và câu hỏi bằng lời để có bài toán.
Có mấy con chim đậu trên cành ? (4 con chim). Vậy chỗ chấm thứ nhất
điền số mấy ? (số 4)
Có thêm mấy con chim bay đến ?(2 con chim). Vậy chỗ chấm thứ hai điền
số mấy ?(số 2)
Vậy câu hỏi của bài toán là gì ? (Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim ?)
Sau khi học sinh nêu được số thích hợp và câu hỏi của bài toán thì đề bài
toán hoàn chỉnh như sau:
Bài toán: Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi
có tất cả bao nhiêu con chim ?
Trong quá trình dạy học sinh hoàn thành các đề bài toán thiếu dữ kiện, tôi
đã xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái
cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu giúp các em hiểu được bài toán có
lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm. Tôi hướng
dẫn học sinh làm như sau:
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh - Trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ
chấm để hoàn chỉnh đề bài toán. Tôi kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu
vào bài toán mẫu trên bảng lớp.
- Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm (dữ kiện và yêu cầu
bài toán). Tôi dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài
toán.
Sau khi hoàn thành 4 bài toán, tôi cho các em đọc lại và giúp các em xác
định được bài toán 1 và bài toán 2 thiếu cái đã cho; bài toán 3 thiếu cái cần tìm;

bài toán 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiểu được đây
là dạng toán có lời văn nên phải có đủ các dữ kiện.
Biện pháp 3. Giúp học sinh nắm vững các bước giải bài toán có lời văn

7


Sau khi học sinh nắm được cấu tạo của bài toán có lời văn, giáo viên hướng
dẫn các em về quy trình giải toán có lời văn gồm các bước như sau:
- Bước 1: Tìm hiểu bài toán.
- Bước 2: Tóm tắt bài toán.
- Bước 3: Tìm cách giải bài toán
- Bước 4: Trình bày bài giải (gồm 3 phần: câu lời giải, phép tính, đáp số).
Ví dụ: Khi dạy bài: Giải toán có lời văn (Tiết 82-Trang 117- SGK Toán 1)
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất
cả mấy con gà ?
Bước 1: Tìm hiểu đề bài
Đây là bước quan trọng, học sinh không thể bỏ qua được, phải rèn cho học
sinh tránh thói quen là vừa đọc đề xong hoặc chưa hiểu kĩ đề bài đã vội vàng
thực hiện bài giải. Như vậy sẽ không thể tránh khỏi sự bế tắc trong khi giải bài
tập, dẫn đến tình trạng không biết ghi lời giải như thế nào cho phù hợp. Vì vậy
bước đầu tiên tôi đã rèn cho học sinh là đọc kĩ đề bài, xác định được cái đã cho
và cái phải tìm.
Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài toán:
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh minh hoạ trong sách giáo khoa.
- Học sinh đọc bài toán.
- Giáo viên đặt câu hỏi tìm hiểu bài toán:
+ Bài toán cho biết gì ? (Nhà An có 5 con gà)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa ? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
+ Bài toán yêu cầu tìm gì ? (Nhà An có tất cả mấy con gà ?)

Tôi dùng phấn màu gạch chân các dữ kiện, yêu cầu của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán.
Đây là kết quả ban đầu của bước 1 bằng những lược trình đơn giản bài toán
được tóm tắt một cách ngắn gọn đúng, đủ, làm nổi bật mối quan hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm và cũng là bước rất quan trọng giúp học sinh xác định được
yêu cầu của bài toán và để thực hiện các bước giải tiếp theo.
Các bài toán có lời văn ở lớp 1 có thể tóm tắt bằng trực quan hình ảnh hoặc
tóm tắt bằng lời văn.
Tôi hướng dẫn để học sinh hoàn thiện tóm tắt của bài toán. Lúc này học
sinh chỉ cần dựa vào “Bài toán cho biết gì ?” và “Bài toán hỏi gì ?” là hoàn thiện
tóm tắt bài toán.
Tóm tắt

: 5 con gà
Thêm
: 4 con gà
Có tất cả : . . . con gà ?
- Yêu cầu học sinh đọc lại tóm tắt.
Bước 3: Tìm cách giải bài toán
a. Hướng dẫn học sinh viết lời giải:
- Tôi hỏi: Dựa vào đâu ta viết được lời giải của bài toán ? (Dựa vào câu hỏi của
bài toán).
- Tôi nhấn mạnh: Bài toán hỏi cái gì thì trả lời ngay các đó.

8


- Tôi hướng dẫn các em viết câu lời giải theo một số cách sau:
+ Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối (mấy
con gà ?) để có câu lời giải: “Nhà An có tất cả:” hoặc thêm từ là để có câu lời

giải: “Nhà An có tất cả là:”
+ Cách 2: Hướng dẫn cho HS chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất
đó là:
- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ mấy bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Có câu lời giải như sau: “Nhà An có tất cả số con gà là:”
+ Cách 3: Đưa từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm
từ Số (ở đầu câu), từ là (ở cuối câu) để có “Số con gà nhà An có tất cả là:”
+ Cách 4: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà). Tôi chỉ vào 9 rồi hỏi:
“ 9 con gà này là của ai? ” (số gà của nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học
sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số gà của nhà An có tất cả
là”… Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau. Tiếp tục hướng dẫn học sinh
viết các phép tính.
Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau, yêu cầu học sinh chọn câu lời
giải thích hợp nhất, không nên bắt học sinh nhất nhất phải viết lời giải theo một
kiểu.
b. Hướng dẫn học sinh viết phép tính:
- Tôi nêu tiếp: “Muốn biết nhà An có tất cả cả bao nhiêu con gà ta làm phép
tính gì ? (tính cộng); Mấy cộng với mấy ? (5 + 4 = 9)
Tiếp tục tôi gợi ý để học sinh nêu tiếp: 9 này là 9 (con gà) nên ta viết “con
gà” vào dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
*Lưu ý: bài toán hỏi cái gì thì ghi tên đơn vị cái đó (Ví dụ: Hỏi nhà An có
tất cả mấy con gà ?), tên đơn vị (con gà).
c. Hướng dẫn học sinh viết đáp số:
Tôi hướng dẫn học sinh: đáp số viết kết quả của phép tính, đơn vị không
cần viết trong ngoặc đơn.
Bước 4: Trình bày bài giải
Đây là tiết đầu tiên các em thực hiện giải bài toán có lời văn nên các em

không biết trình bày bài giải, vì vậy tôi hướng dẫn tỉ mỉ từng bước bài giải bài
toán. Tôi vừa hướng dẫn vừa trình bày bài giải mẫu trên bảng để các em biết
cách trình bày bài giải.
Bài giải trình bày như sau:
Cách 1:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà
Cách 2:

Bài giải
Nhà An có tất cả số con gà là :
5 + 4 = 9 (con gà)

9


Đáp số: 9 con gà
Ví dụ: Bài tập 3 (Sách giáo khoa Toán 1- trang 151). Một sợi dây dài
13cm, đã cắt đi 2cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng-ti-mét ?
* Thực hiện theo 4 bước hướng dẫn giải bài toán có lời văn trên như sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề bài
- Cho học sinh đọc đề nhiều lần để xác định dạng bài tập.
+ Bài toán cho biết gì ? (Sợi dây dài 13cm).
+ Đã cắt đi mấy cm ? (Đã cắt đi 2cm)
+ Bài toán hỏi gì ? (Sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng-ti-mét ?)
Bước 2: Tóm tắt bài toán
Tôi đã yêu cầu học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đồ đoạn thẳng hoặc tóm tắt
bằng lời văn:

Cách 1: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
? cm
2cm
13cm
Cách 2: Tóm tắt bằng lời văn:
Sợi dây dài : 13cm
Cắt đi
: 2cm
Còn lại
: ...cm ?
Bước 3: Hướng dẫn cách giải và tìm lời giải:
Sau khi tóm tắt xong, tôi đặt câu hỏi gợi ý để các em đặt lời giải và giải
theo hướng sau:
+ Bài toán cho ta biết những gì ? (Sợi dây dài 13cm, đã cắt đi 2cm)
+ Bài toán hỏi gì ? (Sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng-ti-mét ?)
+ Muốn biết sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng-ti-mét ta làm phép tính gì ?
(phép tính trừ)
+ Vì sao ? (vì có từ “còn lại”)
+ Gọi học sinh nêu phép tính trừ? (13 - 2 = 11 (cm) )
Tìm lời giải cho bài toán là dựa vào câu hỏi: Hỏi sợi dây còn lại
dài bao nhiêu xăng- ti- mét ? Chúng sẽ bỏ đi tiếng “hỏi” và “bao nhiêu xăng-timét” thêm từ “là” thì ta được lời giải như sau: “Sợi dây còn lại dài là:”
Bước 4: Trình bày bài giải
Bài giải
Sợi dây còn lại dài là:
13 - 2 = 11 (cm)
Đáp số: 11cm.
Giáo viên không nên yêu cầu các em đặt lời giải một cách máy móc, rập
khuôn và đầy đủ như các lớp trên. Vì đây là bước đầu giúp các em hình thành kỹ
năng giải toán có lời văn, các em đã hiểu được lời giải của bài toán phải phụ
thuộc vào cái cần tìm. Mỗi bài toán có nhiều cách đặt lời giải khác nhau.

Ví dụ: Bài tập 2(Sách giáo khoa Toán 1 - trang 118)
Tóm tắt:

: 6 bạn
Thêm
: 3 bạn
Có tất cả :... bạn ?

10


Bài giải
Tổ em có tất cả số bạn là:
6 + 3 = 9 (bạn)
Đáp số : 9 bạn
Các em có thể đặt lời giải nhiều cách khác nhau, chẳng hạn:
- Tổ em có tất cả là:
- Tổ em có tất cả số bạn là:
- Có tất cả là:
- Có tất cả số bạn là:
- Số bạn của tổ em có tất cả là:
Vậy qua các bài tập trên học sinh đã biết cách viết nhiều câu lời giải khác
nhau, song tôi chốt lại cách viết lời giải đầy đủ nhất: "Tổ em có tất cả số bạn là:"
Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần thêm chữ dài
vào trước chữ “là”. Ví dụ:
Tóm tắt
Đoạn thẳng AB
: 5cm
Đoạn thẳng BC : 3cm
Cả hai đoạn thẳng : ... cm?

Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5 + 3 = 8 (cm)
Đáp số: 8 cm
Tiết 86
Tiết 104
Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp
theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề - tóm tắt - giải bài
toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn
là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Số (đơn vị tính) + có tất cả là:
- Vị trí (trong, ngoài, trên, dưới, ...) + có tất cả là:
- ... đoạn thẳng....+ dài là:
Tiết 105: Giải toán có lời văn (tiếp theo) (Trang 148)
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà ?
HS đọc – phân tích bài toán:
+ Bài toán cho biết gì?
Có 9 con gà. Bán 3 con gà.
+ Bài toán hỏi gì ?
Còn lại mấy con gà ?
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt- bài giải mẫu. Giáo viên giúp
học sinh nhận thấy câu lời giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại
toán thêm đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm
từ còn lại mà thôi. Cụ thể là :
Bài giải
Số gà còn lại là:
9 – 3 = 6 (con gà)
Đáp số: 6 con gà


11


Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp 1.
Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để học sinh có thể giải toán mà
không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Học sinh có thể chọn cho mình 1
cách viết đơn giản nhất bằng cụm từ: Có tất cả là: Hoặc: Còn lại là: Còn học
sinh học tốt các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải khác nhau
nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn.
Ngoài cách giải trên ra, học sinh còn có thể tìm ra lời giải và phép tính
bằng nhiều cách tuỳ theo khả năng tư duy và phát hiện của học sinh. Giáo viên
có thể nắm bắt kịp thời các ý kiến của các em để học sinh nhận thấy sự đưa ra
luận cứ của mình là đúng. Làm như vậy nhằm mục đích phát huy tính tư duy tìm
tòi sáng tạo của học sinh trước những bài toán có dạng khác nhau.
Khi giải bài toán có lời văn, thường thường các em chỉ cần làm bước 4, còn
các bước 1, 2, 3, là các bước học sinh tư duy. Tuy vậy, với đối tượng học sinh của
lớp tôi, tôi yêu cầu các em phải tóm tắt vào vở như là một bước yêu cầu bắt buộc
chứ không chỉ để suy nghĩ, viết ra giấy nháp. Sở dĩ làm như vậy để học sinh ý
thức được rằng tóm tắt để tìm hiểu đề bài cũng là bước hết sức quan trọng.
Để làm được bài toán cần phải đọc kĩ bài toán, đây là bước nghiên cứu để
giúp học sinh có ý nghĩ ban đầu về ý nghĩa bài toán, nắm được nội dung bài
toán và đặc điểm cần chú ý đến câu hỏi của bài không nên vội nhẩm tính khi
chưa đọc kĩ bài, mà xây dựng thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho của bài
toán, tìm cách diễn đạt nội dung của bài bằng ngôn ngữ kí hiệu toán học ngắn
gọn bằng cách tóm tắt điều kiện bài toán hoặc minh hoạ bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Lập kế hoạch và giải, suy nghĩ xem để trả lời các câu hỏi của bài toán: “Cần biết
những gì ? Phải thực hiện phép tính gì ? Phép tính đó có thể trả lời được câu hỏi
của bài toán không ?…”. Trên cơ sở đó lập kế hoạch trình tự để giải toán, trong
đó cần lưu ý: Mỗi bước tính đều phải kiểm tra lại lời giải có đúng với phép tính

không và thử lại đáp số tìm được có đúng với câu hỏi của bài không, có phù hợp
với điều kiện bài toán hay chưa.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Nhờ áp dụng các biện pháp đã nêu trên, với tinh thần trách nhiệm khắc
phục khó khăn của bản thân, đồng thời với sự trợ giúp của các đồng nghiệp, sự
chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, sự ủng hộ của phụ huynh học sinh, kết
quả học tập môn Toán (Phần giải toán có lời văn) của học sinh lớp tôi phụ trách
trong những năm học qua đã có sự tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đã biết cách giải
chắc chắn được bài toán có lời văn theo đúng các bước; Viết đúng câu lời giải;
Viết đúng phép tính; Viết đúng đáp số. Các em nắm vững và thực hiện đúng quy
trình giải toán, biết cách giải và trình bày bài giải. Vì thế tiết học Toán trở nên
sôi nổi và nhẹ nhàng, các em có hứng thú học tập môn Toán hơn.
Tôi xin đưa ra số liệu cụ thể tôi đã thống kê qua từng năm học mà tôi đã áp
dụng sáng kiến vào năm học 2017 - 2018 và năm học 2018 - 2019 như sau:
Năm học

Lớp Sĩ
số

HS viết
HS viết đúng
HS viết
đúng câu lời
phép tính
đúng đáp số
giải

HS giải
đúng cả 3

bước

12


SL

TL(%)

SL

TL(%)

SL

TL(%)

SL

TL(%)

2017-2018 1A 30 30
100
30
100
30
100
30
100
2018-2019 1A 29 29

100
29
100
29
100
29
100
Với kết quả đạt được trong mỗi năm học, tôi nhận thấy mình đã tìm được
hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn
Toán (Phần giải toán có lời văn). Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi nhận thấy việc
đầu tư cho việc giải toán cho các em, nhất là giải toán có lời văn đòi hỏi công phu,
dài lâu từ sự nhiệt tình, sự đam mê tìm tòi nghiên cứu của giáo viên với mục tiêu
hình thành cho các em học tập tích cực, say mê. Sau khi được tiếp thu, lĩnh hội
kiến thức một cách chủ động. Tôi tin rằng các em học sinh lớp 1A có khả năng tư
duy sáng tạo, có tính chủ động và niềm đam mê dành cho môn Toán.
Sự tiến bộ trong học tập môn Toán của các em theo thời gian năm học:
chất lượng học tập tăng, các em đã nắm vững các phương pháp giải các bài
toán trong đó có giải bài toán có lời văn. Nhiều em đã trình bày bài giải rõ
ràng, chính xác và có tính sáng tạo điển hình là các em Lê Hoàng Yến, Hoàng
Lê Yến Nhi, Trịnh Thị Phương Anh, Lê Lâm Nhi, Lê Thảo Vy, Dương Tuyết
Mai, Trịnh Thị Ngân Thương, Trần Bảo Ngọc, Phạm Huyền thư, Đào Mạnh
Minh Vũ, Lê Hoàng Giang, …
Có thể khẳng định, việc các em học tốt môn Toán ở lớp 1 sẽ tạo tiền đề
vững chắc để các em học tốt môn Toán và các môn học khác ở những năm học
tiếp theo.

13


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận:
Việc hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 là một việc
hết sức quan trọng. Nó tạo nền móng để học sinh giải toán ở các lớp trên với bài
toán có nhiều lời giải, nhiều phép tính. Đó là con đường tốt nhất để trẻ chiếm
lĩnh những thao tác trí tuệ nhằm phát triển chính bản thân mình.
Trong quá trình dạy học tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Giáo viên phải nắm vững chương trình môn Toán lớp 1.
Hướng dẫn năm vững cấu tạo của bài toán có lời văn và các bước giải toán
có lời văn ở lớp 1.
Giáo viên nghiên cứu kĩ bài, chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học.
Sử dụng triệt để kênh hình trong sách giao khoa phục vụ cho giảng dạy.
Tổ chức nhiều hình thức học tập, với các phương pháp linh hoạt đảm bảo
tính vừa sức.
Trong khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn phải tuyệt đối thực hiện
đúng quy trình tránh tình trạng cắt giảm các khâu, bước, thực hiện một cách qua
loa đại khái, như vậy sẽ làm cho quá trình tiếp thu trí thức của các em bị hẫng hụt.
Thường xuyên tạo ra môi trường thích ứng để động viên khuyến khích các
em, coi các em là nhân vật trung tâm của quá trình dạy - học. Giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn từng học sinh (trong cách giải toán, biết sử dụng Sách giáo
khoa) một cách chu đáo trong cách giải toán tạo cho học sinh hứng thú, tính linh
hoạt, sáng tạo, tự tin trong khi làm bài.
Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai
của học sinh để định hướng cho học sinh khắc phục trong lần sau.
Giáo viên cần lựa chọn nội dung bài tập sao cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh của lớp mình, có thể thay đổi một số nội dung bài toán sát thực
với thực tế cuộc sống, địa phương.
Để phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh người giáo viên
phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tự học, tự bồi
dưỡng, lựa chọn và áp dụng nhiều phương pháp dạy - học phù hợp với bộ môn.
Tích cực soạn bài và dạy học bằng giáo án điện tử.

3.2. Kiến nghị:
a. Đối với giáo viên:
Để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy thì mỗi giáo viên cần nắm vững
mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung giáo dục, phải nắm bắt được vấn đề cơ bản
đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học theo hướng “Tích cực hoá hoạt
động của học sinh”.
Giáo viên phải biết tổ chức cho học sinh “Học tập trong hoạt động và
bằng hoạt động, học sinh tích cực, tự giác, sáng tạo và tự tin trong học tập”.
Khi nghiên cứu bài, giáo viên phải luôn nhìn bài giảng trên quan điểm
“động” tức là với bài giảng cụ thể nên chọn phương pháp và hình thức dạy
học nào là hợp lý với trình độ học sinh lớp mình phụ trách.
b. Đối với nhà trường:
Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.

14


Tổ chức cho giáo viên học chuyên đề, thảo luận, bàn bạc, học hỏi nhau,
đưa ra những kinh nghiệm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có
hiệu quả để giáo viên vận dụng trong thực tể giảng dạy.
Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã đúc kết trong nhiều năm, từ
thực trạng học sinh học dạng “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 trong trường Tiểu
học Bắc Lương nói chung và lớp bản thân làm chủ nhiệm nói riêng như đã nêu
trên, đã được bổ sung và áp dụng có hiệu quả trong công tác giảng dạy.
Tuy nhiên để thành công hơn nữa, tôi mong nhận được những góp ý
chân thành từ đồng nghiệp, hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến này được
áp dụng rộng răi và thực sự có hiệu quả.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


Thọ Xuân, ngày 28 tháng 5 năm
2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người thực hiện
Lê Thị Thủy

15


PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kiều Đức Thành (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về nội dung và phương
pháp dạy học môn Toán ở tiểu học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Vũ Quốc Chung (Chủ biên) (2007). Phương pháp dạy học toán ở Tiểu học,
NXBGD và NXBSP Hà Nội.
3. Đỗ Đình Hoan (Chủ biên) (2002-2006), Hỏi – Đáp về dạy học Toán 1 (Toán
2, Toán 3, Toán 4, Toán 5), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[1] Vũ Quốc Chung (chủ biên), Phương pháp dạy học toán ở Tiểu học (Tài liệu
đào tạo giáo viên Tiểu học trình độ cao đẳng và đại học sư phạm), NXB đại học
sư phạm, NXB Giáo dục, 2007;
[2] Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp 1, NXB Giáo dục
[3]. Hà Sĩ Hồ, Đỗ Đình Hoan, Đỗ Trung Hiệu ,Phương pháp dạy học Toán,
NXB Giáo dục

16


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................2

1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
2. NỘI DUNG......................................................................................................4
2.1. Cơ sở lí luận...................................................................................................4
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.................................................................4
2.2.1. Về giáo viên................................................................................................4
2.2.2. Về học sinh.................................................................................................5
2.3. Các biện pháp thực hiện................................................................................6
Biện pháp 1...........................................................................................................6
Biện pháp 2...........................................................................................................6
Biện pháp 3.........................................................................................................10
2.4. Hiệu quả đạt được........................................................................................15
3. KẾT LUẬN....................................................................................................17
3.1. Kết luận........................................................................................................17
3.2. Kiến nghị......................................................................................................17
Tài liệu tham khảo..............................................................................................

17


18



×