Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN tổ chức một số trò chơi toán học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn toán cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.28 KB, 19 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài :
Trong chương trình giáo dục tiểu học thực hiện mô hình mới VNEN,
môn toán cùng với các môn học khác có những vai trò góp phần quan trọng đào
tạo nên những con người phát triển toàn diện.
Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgic và tính chính xác cao, nó
là chìa khoá mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên
không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo
khoa trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy
móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Mà đòi hỏi mỗi thầy cô giáo
phải đổi mới phương pháp dạy học môn toán theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh. Mô hình VNEN hướng chuyển các hoạt động
giáo dục trong nhà trường thành các hoạt động tự giáo dục cho HS. Mục tiêu
đầu tiên của mô hình VNEN là tăng tính chủ động cho người học thông qua quá
trình tự kiến tạo, chiếm lĩnh kiến thức với sự hướng dẫn của học sinh. Mọi hoạt
động giáo dục trong nhà trường đều "Vì lợi ích của học sinh và do học sinh thực
hiện". Đặc trưng của Mô hình trường học mới là “TỰ”. Có nghĩa là học sinh: Tự
giác, tự quản, tự học, tự đánh giá, tự tin, tự trọng và giáo viên: Tự chủ, tự bồi
dưỡng. Mô hình đưa ra hình thức học tập theo nhóm, việc này góp phần
tăng khả năng giao tiếp, tự chủ, tính tương tác giữa các học sinh,
rèn khả năng trình bày mạch lạc ở mỗi học sinh, đây vốn là điểm
yếu không chỉ của học sinh tiểu học hiện nay mà của người Việt
Nam chúng ta nói chung, do cách dạy học truyền thống ít chú
trọng. Quy trình dạy học chương trình VNEN gồm 5 bước đó là:
Gợi động cơ tạo hứng thú cho học sinh; Tổ chức cho học sinh trải nghiệm; Phân
tích, khám phá, rút ra kiến thức mới; Thực hành, củng cố bài học và ứng dụng.
Trong đó bước gợi động cơ hứng thú cho học sinh thông qua hoạt động trải
nghiệm như trò chơi.... học sinh mới hứng thú học tập và thầy cô mới thực sự lôi
cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt
động mà các em hứng thú nhất trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Các trò chơi


có nội dung toán học lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em.
Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức toán học một cách dễ
dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say
mê, hứng thú trong học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò
chơi toán học một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy
học môn toán sẽ ngày một nâng cao. Trong thực tế giảng dạy môn Toán lớp 2
hiện nay nhiều thầy cô giáo chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học, giờ học
Toán còn mang nặng lý thuyết trừu tượng, chưa vận dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học nên việc học tập của học sinh diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết
quả học tập của học sinh không đạt được như mong muốn. Nó là một trong
những nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy học môn Toán lớp 2 trong những
năm vừa qua chưa cao. Số học sinh làm bài kiểm tra cuối kỳ đạt điểm khá giỏi
chưa nhiều, nhiều học sinh đạt điểm trung bình.
1


Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm “Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn Toán cho học sinh lớp 2 thực hiện mô hình VNEN ”.

1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động
cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn.
- Gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, một môn học được coi là
khô khan, hóc búa thì việc đưa ra các trò chơi Toán học nhằm mục đích để các
em học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi toán học không những chỉ giúp các em
lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó.


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung giảng dạy môn toán có áp dụng các trò chơi toán học cho học
sinh lớp 2 theo mô hình trường học mới VNEN tại trường TH Hưng Lộc I
- HS lớp 2A trường Tiểu học Hưng Lộc I
- Các phương pháp chỉ đạo của BGH nhà trường.
- Tập thể GV trường Tiểu học Hưng Lộc I.

1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc tài liệu cần thiết: SGK toán lớp 2, Hướng dẫn học toán lớp 2, các tài
liệu bồi dưỡng thường xuyên, tập san giáo dục…
- Xây dựng giải pháp, biện pháp thực hiện.
- Tổng kết kinh nghiệm

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Vị trí của môn Toán trong trường Tiểu học :
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn toán cũng như những
môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về
thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và
bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Môn toán ở trường TiÓu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời
gian trong chương trình học của trẻ.
Môn toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu có
hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người.
Môn toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp
suy nghĩ, phương pháp suy luận lôgíc, thao tác tư duy cần thiết để con người

phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong
thời đại mới.
2.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học.
- ë lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói
cụ thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn
thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt
động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí.
- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi
chúng không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo cho học sinh
hứng thú trong học tập và để học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng thì
các em phải thường xuyên được luyện tập.
- Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện
tượng nào sinh động nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các
em chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy
học, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ ... để củng cố khắc sâu
kiến thức.
2.1.3. Nhu cầu về đổi mới phương pháp dạy học :
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng
tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng lại
rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá t¶i. Chính vì thế nội
dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức truyển tải, truyền đạt làm
thế nào cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi là điều không thể xem nhẹ. Đặc biệt
đối với học sinh lớp 2, lớp mà các em vừa mới vượt qua những mới mẻ ban đầu
chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo. Vì ở
lứa tuổi mẫu giáo, các em được học theo cách vui chơi là chủ yếu còn yêu cầu
về kỷ luật học tập và kết quả học tập không đặt ra nghiêm ngặt đối với mỗi em.
Lên đến lớp 1 thì yêu cầu đó đặt ra là thường xuyên đối với các em ở tất cả các
môn học. Như vậy nói về cách học, về yêu cầu học thì trẻ lớp 1 gặp phải một sự


3


thay đổi đột ngột mà đến cuối năm lớp 1 và sang lớp 2 các em mới quen dần với
cách học đó. Do vậy giờ học sẽ trở nên nặng nề, không duy trì được khả năng chú ý
của các em nếu các em chỉ có nghe và làm theo.
Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học cụ thể đóa là “Lấy học sinh làm trung tâm” hướng tập
trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Với phương pháp này
người giáo viên là người định hướng, tổ chức ra những tình huống học tập nó
kích thích óc tò mò và tư duy độc lập. Muốn các em học được thì trước hết giáo
viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận dụng các phương pháp
sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp trực quan, thuyết trình, trò
chơi ... hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra, thí nghiệm ...
nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học.
Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm
một việc gì đã nhiều thời gian vì thÕ giáo viên có thể thay đổi hoạt động học
của các em trong giờ học. Chính vì vậy mà chương trình VNEN đã được thiết kế
trong tài liệu hướng dẫn học Toán lớp 2 như một " bản thiết kế" chỉ dẫn cho học
sinh các hoạt động tự học và gợi ý giáo viên triển khai các hoạt động. Mỗi bản
thiết kế như vậy bao gồm một số yếu tố như: Tên bài học, mục tiêu, khởi động,
trải nghiệm, khám phá, phân tích rút ra kiến thức mới, củng cố trực tiếp, tự đánh
giá, thực hành luyện tập, ứng dụng, giáo viên nhận xét và ghi nhận kết quả học
tập của học sinh. Tương ứng với mỗi nội dung là các lôgô có hình ảnh cụ thể
như nội dung yêu cầu "học nhóm ":

; làm việc "cá nhân"

; hoạt động cả lớp
; hoạt động với cộng đồng

. Như
vậy thông qua cách thiết kế tài liệu chúng ta cũng thấy được học sinh sẽ trải
nghiệm trong từng tiết học với đa dạng hình thức tổ chức học tập học sinh sẽ
hứng thú học tập và các em sẽ chủ động lĩnh hội kiến thức được tốt hơn .

2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Thuận lợi.
Trường Tiểu học Hưng Lộc I là trường đã đạt chuẩn quốc gia mức độ 2.
Với đầy đủ các phòng học, phòng chức năng. Mỗi phòng học được trang bị máy
tính, máy chiếu kết nối mạng Internet thuận lợi cho giáo viên ứng dụng công
nghệ thông tin, đổi mới phương pháp dạy học. Mỗi lớp học đều có đầy đủ một
bộ đồ dùng dạy học tối thiểu để tại tủ lớp học. Thư viện nhà trường đạt thư viên
tiên tiến, có nhiều thiết bị dùng chung tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao chất
lượng giảng dạy. Nhà trường có đội ngũ giáo viên đạt trình độ chuẩn trong đó
trên chuẩn đạt 92,6%, cán bộ giáo viên thực sự nhiệt tình trong chuyên môn, tích
cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường. Hơn nữa lãnh đạo nhà trường thường xuyên quan tâm đến đội ngũ,
không những trong chuyên môn mà còn động viên tinh thần trong cuộc sống
hàng ngày. Năm học 2018-2019 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp
2A tổng số học sinh là 27 em (11 nữ, 16 nam), với số lượng học sinh nam chiếm
59,2% đông hơn so với học sinh nữ nhưng các em rất chăm ngoan, nề nếp học
tập tốt.
4


2.2.2. Khó khăn.
Do địa bàn nông thôn kinh tế còn nhiều khó khăn. Đa số học sinh chưa
được gia đình thực sự quan tâm mà còn trông chờ tất cả vào nhà trường. Đặc
biệt các em học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm bố mẹ chủ yếu làm nghề nông
nghiệp, trình độ học vấn thấp, chỉ có 2 học sinh là con cán bộ viên chức cấp xã.

Bên cạnh đó trình độ tư duy của các em chưa đồng đều, về vốn kiến thức cơ bản
còn yếu, các em thường có thói quen học vẹt, ghi nhớ máy móc, tính thụ động
chỉ tiếp nhận những điều có sẵn, khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân
tích tổng hợp… còn nhiều hạn chế, khả năng suy luận, suy nghĩ và phương pháp
giải quyết vấn đề chưa khoa học và chính xác, các em chưa biết cách tư duy độc
lập, sáng tạo trong công việc. Đến giờ học toán các em cảm thấy mệt mỏi và
chưa thực sự hứng thú.
2.2.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng
Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Toán lớp 2A tôi chủ nhiệm (lớp
thực nghiệm) và lớp 2B (lớp đối chứng) vào ngày 15 tháng 9 năm 2018 kết quả
cụ thể như sau:
Lớp
2A
2B

Tổng
số
27
27

Hoàn thành tốt
SL
TL (%)
9
33,3
9
33,3

Hoàn thành
SL

TL (%)
15
55,6
16
59,2

Chưa hoàn thành
SL
TL (%)
3
11,1
2
7,4

Qua tìm hiểu lớp chủ nhiệm và khảo sát chất lượng thực tế trên, tôi nhận
thấy tỉ lệ học sinh đạt kết quả ở mức hoàn thành và chưa hoàn thành còn cao, tỉ
lệ học sinh đạt mức hoàn thành tốt còn thấp. Vì vậy tôi nhận thấy việc lựa chọn
phương pháp và hình thức dạy học đa dạng sẽ giúp học sinh có hứng thú hơn
trong từng tiết học và thực hiện thiết kế trò chơi trong các tiết dạy học Toán là
việc làm cần thiết góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy học môn toán nói chung và môn toán lớp 2A nói riêng.

2.3. Các biện pháp thực hiện:
Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng của trò chơi trong dạy
học môn Toán lớp 2:
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá
trình hoạt động trong bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi.
Trò chơi là loại hình phổ biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật,
luật của trò chơi chính là các quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của
hành động trò chơi, luật của trò chơi có thể tường minh có thể không.

Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với
kiến thức kỹ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học,
giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi
học sinh được vận dụng các kiến thức kỹ năng đã học vào các tình huống của trò
chơi và do đó học sinh được thực hành luyện tập củng cố mở rộng kiến thức kỹ
năng đã học. Như vậy trong trò chơi học tập các kỹ năng môn toán được đưa
vào trò chơi.
5


Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học và đặc biệt là đối
với học sinh lớp 2, có thể nói nó quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống
các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi
điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động.
Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn
bã khi thất bại. Vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân các
em thấy có lỗi khi không làm tốt được nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà các em
khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ, nhóm
trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi. Vì vậy
khi đã tham gia trò chơi, học sinh thường vận dụng hết khả năng về sức lực, tập
trung sự chú ý, trí thông minh và sự sáng tạo của mình.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng
cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động
chơi. Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ
sử dụng Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và
hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn. Trò chơi không chỉ là phương tiện mà
còn là phương pháp giáo dục. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn
trò chơi học tập phù hợp với nội dung kiến thức cần củng cố và đặc điểm tình
hình học sinh và luôn chú trọng việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh trong

các tiết học.
Biện pháp 2: Lựa chọn trò chơi học toán phù hợp
- Khi tổ chức trò chơi học tập để dạy môn Toán nói chung và môn Toán
lớp 2 thực hiện chương trình VNEN nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung
bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho
phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì
đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm
bảo các yêu cầu sau :
+ Trò chơi phải mang ý nghĩa giáo dục.
+ Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
+ Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp 2, phù hợp với khả
năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
+ Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
+ Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo.
+ Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh.
- Về cấu trúc của Trò chơi học tập :
+ Tên trò chơi
+ Mục đích : Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến
thức, kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết
kế trong trò chơi.
+ Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi
học tập.
+ Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi quy định đối với
người chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
+ Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
6


+ Nêu lên cách chơi.
Biện pháp 3: Cách tổ chức trò chơi học tập trong môn Toán lớp 2 chương

trình VNEN:
- Thời điểm: Trò chơi khởi động khi bắt đầu vào bài học hoặc sau khi
hoàn thành nội dung bài học.
- Thời gian tiến hành: thường từ 5 - 7 phút
- Nội dung kiến thức: Xuất phát từ nội dung kiến thức đã có hoặc từ thực
tiễn cuộc sống hằng ngày để tạo tình huống có vấn đề trong học tập.
- Liên kết kiến thức với các hoạt động khác trong bài phải hài hoà, dễ
hiểu, tạo hứng thú cho các em và từ đó củng cố được các mạch kiến thức liên
quan
* Các lưu ý khi thực hiện:
- Đối với các bài học mà trong hoạt động cụ thể (có thể ở phần Hoạt động
cơ bản hay Hoạt động thực hành) có lôgô hướng dẫn và yêu cầu thực hiện trò
chơi:
+ Hướng dẫn cho học sinh thực hiện theo lôgô hoặc có thể điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình của lớp
+ Giáo viên quan sát, trợ giúp khi cần thiết
+ Chia sẻ trong nhóm hoặc trước lớp về nội dung kiến thức sau khi thực
hiện trò chơi
- Đối với các bài học mà giáo viên lựa chọn trò chơi cho học sinh thực
hiện:
+ Giới thiệu trò chơi
+ Nêu tên trò chơi
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật
chơi.
+ Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi
+ Chơi thật
+ Nhận xét kết quả chơi, thái độ của ngươi tham dự, giáo viên có thể nêu
thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
+ Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp
nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học

sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui
(như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....)
Ví dụ 1: Bài 28: Số tròn chục trừ đi một số (Hướng dẫn học Toán 2 tập 1Btrang 10):

7


- Đây là hoạt động mà mục đích nhằm ôn lại kiến thức cũ đã học ở lớp
dưới vì vậy sau khi học sinh thực hiện trò chơi giáo viên giúp học sinh củng cố
rõ số tròn chục, bảng trừ “10 trừ đi một số” làm tiền đề cơ sở cho học sinh thực
hiện các hoạt động tiếp theo.
Ví dụ 2: Bài 37: Em ôn lại những gì đã học (Hướng dẫn học Toán 2 tập 1Btrang 44):

- Nhằm ôn lại kiến thức đã học ở các tiết trước vì vậy sau khi học sinh
thực hiện trò chơi giáo viên giúp học sinh củng cố lại cách thực hiện các phép
trừ trong bảng trừ “13 trừ đi môt số” trên cơ sở đó học sinh vận dụng thực hiện
các bài tập tiếp theo nhằm ôn lại cách thực hiện phép trừ có nhớ, sử dụng bảng
11, 12, 13 trừ đi một số.
Ví dụ 3: Bài 47: Em ôn tập về phép cộng và phép trừ (Hướng dẫn học Toán 2
tập 1B- trang 77):

8


- Trong các hoạt động thực hành của bài học đã có trò chơi ở hoạt động 1
để củng cố các kiến thức đã học ở các tiết trước đồng thời lại có trò chơi ở hoạt
động 4 nhằm củng cố lại kiến thức theo yêu cầu mục tiêu thứ nhất của bài.
Vì vậy sau khi học sinh thực hiện trò chơi giáo viên giúp học sinh “ôn tập về
phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vị 100”, biết vận dụng để giải các bài
toán có lời văn (liên quan đến dạng toàn nhiều hơn, ít hơn, tìm thành phần chưa

biết của phép cộng, phép trừ)
Ví dụ 4: Bài 38: 14 trừ đi một số: 14-5 (Hướng dẫn học Toán 2 tập 1Btrang 47):
Đây là dạng bài mới, để củng cố kĩ năng tính nhẩm dạng trừ có nhớ: 14-5
thì cuối tiết học tôi đã sử dụng trò chơi ‘Ong tìm nhuỵ’ cho học sinh.
+ Ở trò chơi này tôi chọn 2 đội, mỗi đội 4 em. Tôi chia bảng làm 2, gắn
mỗi bên bảng một bông hoa có ghi các số ở cánh hoa và 5 chú ong trên mình ghi
các phép tính ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi.
+ Hai đội xếp thành hai hàng. Khi nghe hiệu lệnh ‘ bắt đầu’ thì lần lượt
từng bạn lên nối phép tính với số thích hợp. Trong vòng 2 phút đội nào nối đúng
và nhanh là đội chiến thắng.
+ Qua trò chơi này giúp học sinh củng cố kĩ năng tính nhẩm nhanh và rèn
luyện tính tập thể cho các em.
Biện pháp 4: Sử dụng đồ dùng, phương tiện trong thực hiện các trò chơi học
tập.
- Để thực hiện được thành công các trò chơi học tập nói chung và môn
Toán nói riêng thì thiết kế đồ dùng phải đảm bảo:
+ Tiện dụng (dễ sử dụng)
+ Dễ làm (ai cũng có thể làm được)
+ Rõ ràng, đẹp mắt, nổi bật nội dung tiết học Toán.
+ Tiết kiệm (Sử dụng được nhiều lần, làm bằng những vật liệu dễ kiếm, rẻ
tiền)
9


- Sử dụng đồ dùng, phương tiện trong thực hiện các trò chơi học tập giúp
HS:
+ Tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi.
+ Phát triển năng lực nhận thức cho HS.
+ Làm sinh động nội dung học tập.
- Giáo viên cần biết vận dụng công nghệ thông tin trong việc thiết kế trò

chơi do tính năng ưu việt của các hiệu ứng trong từng hình ảnh động làm cho
các hình ảnh sinh động, hấp dẫn gây sự hứng thú cho học sinh, giúp học sinh dễ
nhớ nội dung kiến thức qua các trò chơi.
Ví dụ: Khi dạy bài 47: Em ôn về phép cộng và phép trừ. (Tài liệu hướng
dẫn học toán 2 tập 1B. Trang 76). Phần củng cố bài giáo viên có thể sử dụng
công nghệ thông tin để thiết kế trò chơi: “Tìm nhà cho các con vật” bằng hình
ảnh động để khắc sâu kiến thức cho các em.
Biện pháp 5: Tìm hiểu một số trò chơi toán học lớp 2
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng
trong quá trình dạy toán cho học sinh lớp 2 thực hiện chương trình VNEN.

Trò chơi 1: Xây nhà ( Bài 2: Số hạng - tổng. Tài liệu hướng dẫn học
Toán 2 tập 1A - Trang 7).
31 + 43

75
+ 24

75

6 + 12

36
5 + 25

74

Vàng

99

72

Đỏ

Xanh

Đỏ

18

Đỏ

50 + 25
24 + 12

Vàng

- Mục đích : Luyện tập và củng cố kỹ năng làm tính cộng nhẩm không nhớ
trong phạm vi 100
- Chuẩn bị : 2 hình vẽ ngôi nhà trên bìa và các mảnh giấy hình tam giác,
chữ nhật (như hình vẽ), có 5 mảnh ghi các tổng tương ứng với các tống ghi trên
ngôi nhà và 2 mảnh ghi sai.
- Cách chơi : Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 5 em

10


Khi nghe hô “1, 2, 3 bắt đầu” các em phải nhẩm nhanh kết quả các phép
tính trên ngôi nhà, rồi tìm mảnh giấy có kết quả tương ứng gắn vào đúng vị trí.
Khi dán xong sẽ được hình ngôi nhà có mái đỏ, tường vàng, cửa xanh.

- Cách tính điểm như sau :
+ Gắn đúng 1 hình được 10 điểm, hình nào gắn sai không được điểm, gắn
đúng cả 5 hình được 50 điểm.
+ Đội nào gắn nhiều hình đúng, nhanh, xong trước là đội thắng cuộc
+ Cả hai đội cùng gắn được số hình đúng bằng nhau thì đội nào nhanh
hơn, xong trước là đội thắng cuộc.
+ Nếu đội gắn xong trước mà gắn được ít hình đúng hơn đội xong sau, thì
đội xong sau là đội chiến thắng.
* Lưu ý : Ở trò chơi kiểu này nên đưa ra một vài kết quả không đúng để
học sinh lựa chọn, nếu nhìn bằng mắt mà không tính kỹ sẽ rất dễ nhầm.
VD : 5 + 25 = ?
Nếu vội có thể cộng nhẩm bằng 75 (vì lấy hàng đơn vị của số thứ nhất
cộng với hàng chục của số thứ 2)
Và cũng vậy, các em có thể nhầm kết quả với 50 + 25. Tôi đưa vào như
vậy cốt để củng cố khắc sâu cách cộng nhẩm.

Trò chơi 2 : Truyền điện (Bài 5: Em ôn lại những gì đã học. ,Tài liệu
hướng dẫn học Toán 2 tập 1A trang 18).
- Mục đích :
+ Luyện tập và củng cố kỹ năng làm các phép tính cộng trừ không nhớ
trong phạm vi 100
+ Luyện phản xạ nhanh ở các em
- Chuẩn bị : Không cần chuẩn bị bất kỳ đồ dùng nào
- Cách chơi : Các em ngồi tại chỗ. Giáo viên gọi bắt đầu từ 1 em xung
phong. Ví dụ em A xướng to 1 số trong phạm vi 100 chẳng hạn “35” và chỉ
nhanh vào em B bất kỳ để “truyền điện”. Lúc này em B phải nói tiếp, ví dụ “trừ
14” rồi lại chỉ nhành vào em C bất kỳ. Thế là em C phải nói tiếp “bằng 21”. Nếu
C nói đúng thì được quyền xướng to 1 số như A rồi chỉ vào một bạn D nào đó để
“truyền điện” tiếp. Cứ làm như thế nếu bạn nào nói sai (chẳng hạn A nói “35”
truyền cho B, mà B nói trừ “18”, tức là sai dạng tính hoặc là C đọc kết quả tính

sai) thì phải nhảy lò cò một vòng từ chỗ của mình lên bảng. Kết thúc khen và
thưởng một tràng vỗ tay cho những bạn nói đúng và nhanh.
* Lưu ý:
+ Trò chơi này không cần phải chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ ..
+ Trò chơi này có thể áp dụng được vào nhiều bài dạy và ở các thời điểm
khác nhau, có thể thực hiện cho học sinh khởi động và cũng có thể áp dụng củng
cố kiến thức. (Ví dụ: Luyện tập các bảng cộng trừ, nhân, chia) và có thể thay đổi
hình thức “truyền”. Ví dụ : 1 em hô to “5 + 6” và chỉ vào em tiếp theo để truyền
thì em này chỉ việc nói kết quả “bằng 11”. Hay “2 x 3 ” truyền vào bạn tiếp theo
nói “bằng 6”.
+ Trò chơi này không cầu kỳ nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi,
hào hứng trong giờ học cho các em.

Trò chơi 3 : Que tính thông minh
11


(Bài 8: Bài toán về nhiều hơn, Tài liệu hướng dẫn học Toán lớp 2 tập
1A trang 27)
- Mục đích: Rèn trí thông minh, nhanh nhẹn, kỹ năng tính khi có bài
toán về nhiều hơn.
- Chuẩn bị :
+ 40 que tính màu: 20 que màu đỏ, 20 que màu vàng
+ 2 ống nhựa màu đỏ, 2 ống nhựa màu vàng. Trên 2 ông đỏ dán mảnh
giấy trên có ghi “nhiều hơn”.
- Cách chơi: Gồm 2 người: 1 nam, 1 nữ đại diện cho 2 đội. Mỗi em cầm
20 que tính, tay trái 10 que màu vàng, tay phải 10 que màu đỏ, 2 ống nhựa 1 đỏ,
1 vàng đặt trên mặt bàn trước vị trí của mỗi em. Cả 2 em cùng được chơi 3 lần.
Thời gian mỗi lần là 1 phút.
. Lần 1: Em hãy cắm số que tính vào 2 ống sao cho ống đỏ có nhiều hơn

ống vàng là 2 que.
. Lần 2: Em phải tiếp tục chuyển bao nhiêu que tính ở ống màu vàng sang
ống màu đỏ để ống đỏ có nhiều hơn 4 que tính.
. Lần 3: Để ống đỏ có nhiều hơn ống vàng 6 que tính thì em chuyển chúng
như thế nào ?
Sau mỗi lẫn chơi giáo viên đánh giá kết quả lưu ý cách giải thích của học
sinh ở lần chơi thứ 3 .
- Cách tính điểm :
+ Mỗi lần chơi học sinh làm đúng : 4 điểm
+ Lời giải thích ngắn gọn, dễ hiểu : 1 điểm
Cuối cùng cộng điểm sau 3 lần chơi : Ai được nhiều điểm thì người đó sẽ
thắng cuộc. Người thắng cuộc được quyền hát tặng lớp 1 bài hoặc chỉ định một
bạn hát 1 bài tặng mình.

Trò chơi 4 : Bác thợ săn (Bài 16: Phần hoạt động thực hành, Tài liệu
hướng dẫn học toán 2 tập 1A ; Trang 59)
- Mục đích : Rèn kỹ năng đọc, hiểu tóm tắt đề toán và giải bài toán có
đơn vị “kg”.
- Chuẩn bị :
+ Một số tranh con vật : gà, ngan, ngỗng, thỏ (tranh nhỏ)
+ Một số thẻ ghi tóm tắt đề toán ở mặt trước và đáp số ở mặt sau
+ Sân chơi: Vẽ các ô, mỗi ô đặt 1 thẻ theo thứ tự sơ đồ dưới đây :

Gà cân nặng : 3kg
Ngỗng hơn gà : 2 kg
Ngỗng : ? kg

Ngỗng nặng : 5kg
Ngan nhẹ hơn : 2 kg
Ngan : ? kg


Thỏ nâu nặng : 2kg
Thỏ trắng bằng Thỏ nâu
Cả hai nặng: ? kg

Mẹ mua 8kg gà, 5kg
Ngỗng và 6kg Thỏ.
Mẹ mua tất cả ? kg

12


1
2
- Cách chơi : Giáo viên lần lượt cho các em chơi
Các em lần lượt bước vào từng ô. Bước vào ô nào phải giải miệng đề toán
trong ô đó. Sau đó đọc to đáp số của bài toán. Chẳng hạn ô thứ nhất em đó phải
nhẩm: Ngỗng nặng là :
3 + 2 = 5 kg rồi nói to “Đáp số 5 kg” sau đó lật mặt sau của tấm thẻ để
kiểm tra đáp số. Nếu đúng thì bước tiếp sang ô thứ hai ....Nếu sai thì em đó bị
loại và em khác lên chơi.
- Cách tính điểm :
Nếu mỗi ô đúng thì được thưởng một con vật. Riêng ô cuối cùng giải
đúng được thưởng 2 con.
Sau cuộc chơi nếu ai được nhiều con vật nhất thì người đó sẽ thắng cuộc.
Lưu ý: Sau mỗi em chơi giáo viên có thể đổi các thẻ có đề toán khác.
Trò chơi 5 : Ai nhiều điểm nhất (Bài 10: Phần hoạt động thực hành; Tài
liệu hướng dẫn học toán 2 tập 1A, trang 37)
- Mục đích :
+ Luyện tập củng cố kỹ năng cộng 2 số có nhớ trong phạm vi 100

+ Tập cho học sinh cách đánh giá, cho điểm
- Chuẩn bị :
+ 2 chậu cây cảnh có đánh số 1, 2
+ Một số bông hoa cắt bằng giấy màu cứng, mặt trước màu trắng ghi các
phép tính như :
25 + 67
18 + 9
45 + 45
6 + 38
12 + 35
53 + 28
34 + 19
37 + 37
5+9
4+8
+ Phấn màu
+ Đồng hồ theo dõi thời gian
+ Chọn 3 học sinh khá nhất lớp làm giám khảo và thư ký.
- Cách chơi : Chia lớp làm 2 đội, khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” lần lượt
từng đội cử người lên bốc hoa trên bàn giáo viên, người chơi có nhiệm vụ làm
nhanh phép tính ghi trên bông hoa, sau đó cài bông hoa lên cây của đội mình.
Người này làm xong cài hoa lên cây thì lại đến lượt người khác. Cứ như vậy cho
đến hết 2 phút. Sau khi giáo viên hô hết giờ thì 2 đội mỗi đội cử 1 đại diện lên
đọc lần lượt từng phép tính trên cây của mình đồng thời giơ cho cả lớp xem
bông hoa đó. Giám khảo đánh giá và thư ký ghi lại kết quả.
- Cách tính điểm :
+ Mỗi phép tính đúng được 10 điểm
+ Tổng hợp số điểm của từng đội. Đội nào nhiều điểm hơn là đội đó
thắng cuộc.
* Lưu ý : Sau giờ chơi giáo viên nêu nhận xét đánh giá các đội chơi

khuyến khích tổ Giám khảo, thư ký, nhắc nhở các em những sai sót vấp phải để
lần sau các em chơi tốt hơn.
13


Trò chơi 6 : Vui cùng đường gấp khúc (Bài 59: Đường gấp khúc – Độ
dài đường gấp khúc; Tài liệu hướng dẫn học toán 2 tập 2A; Trang 28)
- Mục đích : Củng cố học sinh nhận biết đường gấp khúc, biết tính độ
dài đường gấp khúc bằng cách tính tổng độ dài của các đoạn thẳng thành phần
của đường gấp khúc.
- Chuẩn bị :
+ Thước kẻ
+ 2 sợi dây đồng
- Cách chơi :
+ Gọi 2 em tham gia (1 em trai và 1 em gái, đại diện cho lớp) lên bảng chơi.
+ Phát cho mỗi em một sợi dây đồng dài 20 cm và yêu cầu tìm cách nắn
sợi dây đồng thành các đường gấp khúc theo yêu cầu (Ví dụ: đường gấp khúc
tạo bởi 2 đoạn thẳng 6 cm và 14 cm; hay đường gấp khúc tạo bởi 3 đoạn thẳng
có độ dài là 7cm, 8cm, và 5 cm ... )
6cm

14cm

7cm

8cm

5cm

+ Khi nghe hiệu lệnh “1,2,3 bắt đầu” 2 em bắt đầu thực hiện. Em nào

xong trước và thực hiện đúng sẽ được tuyên dương.
+ Nếu cả 2 em cùng làm đúng và xong cùng một lúc thì ra thêm câu hỏi
phụ: Độ dài đường gấp khúc tạo bởi sợi dây có thay đổi khi số đoạn thẳng tạo
thành thay đổi hay không ? Vì sao ? để đánh giá và tuyên dương.

Trò chơi 7 : Ong đi tìm nhụy

(Trò chơi có thể áp dụng vào các bảng +, - , x , : Cụ thể: Bài 38:
14 trừ đi một số : 14 – 5; Tài liệu hướng dẫn học toán 2 tập 1B; Trang 47)
- Mục đích :
+ Củng cố kỹ năng tính nhẩm dạng trừ có nhớ : 14 - 5
+ Rèn tính tập thể
- Chuẩn bị :
+ 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số
như sau, mặt sau gắn nam châm.
5

7

8
6

9

+ 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm
14 - 6

14 - 10
14 - 8


14 - 5
14 - 7
14


+ Phấn màu
- Cách chơi :
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em
+ Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng một bông hoa và 5 chú
Ong, ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi.
Cô có 2 bông hoa trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, còn
những chú Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú
Ong không biết phải tìm như thế nào, các chú muốn nhờ các con giúp, các con
có giúp được không ?
- Hai đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” thì lần lượt từng
bạn lên nối các phép tính với số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu
tiên, trao phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính.
Trong vòng 1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng.
* Lưu ý : Sau khi học sinh chơi xong, giáo viên chấm và hỏi thêm một số
câu hỏi sau để khắc sâu bài học.
+ Tại sao chú ong 14 - 10 không tìm được đường về nhà?
+ Phép tính “14 – 10” có thuộc dạng bài học ngày hôm nay không? Tại
sao?
+ Muốn chú Ong này tìm được đường về thì phải thay đổi số trên cánh
hoa như thế nào?

Trò chơi 8 : Tìm lá cho hoa ( Bài 47: Em ôn tập về phép cộng và phép
trừ; Tài liệu hướng dẫn học Toán 2 tập 1B; Trang 76).
- Mục đích :
+ Củng cố về cộng, trừ nhẩm trong phạm vi các bảng tính.

+ Rèn tính tập thể cao
- Chuẩn bị :
+ 2 bông hoa màu bằng bìa cứng, mặt sau gắn nam châm.
+ 10 chiếc lá mµu xanh, có gắn nam châm mặt sau

15

7+8

6+9

14

41-26

7+7

6+8
15


6+9

30-15

42-28

8+8

9+6


30-16

- Cách chơi :
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em
+ Gắn 2 bông hoa và những chiếc lá lên bảng rồi giới thiệu. Cô có 2 bông
hoa mà nhị của nó là kết quả phải chọn nhanh những chiếc lá có phép tính ứng
với kết quả ở nhị hoa và gắn vào cành hoa của đội mình để tạo thành bông hoa
toán học thật đúng, thật đẹp.
+ 2 đội xếp hàng một, khi nghe hiệu lệnh cả 2 đội bắt đầu chơi. Đội nào
nhanh, đúng thì sẽ là đội thắng cuộc.
Sau khi đã chấm phân đội thắng - thua, giáo viên chỉ vào chiếc lá và hỏi :
8+8

: Tại sao con không gắn l¸ này cho hoa? để học sinh trả

lời
+

9+6

: Nếu các con gắn chiếc lá này các con sẽ gắn vào bông hoa nào?

Trò chơi 9 : Rồng cuốn lên mây (Bài 95: Ôn tập về phép nhân và phép
chia; Tài liệu hướng dẫn học Toán 2 tập 2B; Trang 59)
- Mục đích: - Kiểm tra kĩ năng tính nhẩm của học sinh. Ví dụ : Củng cố
các bảng nhân, chia...
- Chuẩn bị: - Một tờ giấy viết sẵn các phép tính nhân, chia trong các bảng
nhân chia trong các bảng đã học.
- Cách chơi: Một em được chủ định làm đầu rồng lên bảng.

+ Em cất tiếng hát :
“ Rồng cuốn lên mây
Rồng cuốn lên mây
Ai mà tính giỏi về đây với mình”
+ Sau đó, em hỏi:
“ Người tính giỏi có nhà hay không?”
- Một em học sinh bất kỳ trả lời:
- “Có tôi! Có tôi!“
- Em làm đầu rồng ra phép tính đố, ví dụ : “12 : 4 bằng bao nhiêu?”
- Em tính giỏi trả lời ( nếu trả lời đúng thì được đi tiếp theo em đầu rồng. Cứ
như thế em làm đầu rồng cứ ra câu hỏi và cuốn đần các bạn lên mây.
* Lưu ý : Ở trò chơi này nên chọn em làm đầu rồng (là em Trưởng trò)
phải nhanh nhẹn, hoạt bát.

Trò chơi 10 : Thi quay kim đồng hồ (Bài 73: Giờ, phút. Thực hành
xem đồng hồ; Tài liệu hướng dẫn học toán 2 tập 2A; Trang 72)
- Mục đích:
+ Củng cố kĩ năng xem đồng hồ
16


+ Củng cố nhận biết các đơn vị thời gian: giờ phút
- Chuẩn bị : 4 mô hình đồng hồ
- Cách chơi:
+ Chia lớp thành 4 đội (4 tổ theo lớp học)
+ Lần thứ nhất: Gọi 4 em lên bảng (4 em đại diện cho 4 đội), phát cho mỗi
em 1 mô hình đồng hồ, chuẩn bị quay kim đồng hồ theo hiệu lệnh của giáo viên.
Khi nghe giáo viên hô to 1 giờ nào đó, 4 em này ngay lập tức phải quay kim đến
đúng giờ đó. Em nào quay chậm nhất hoặc quay sai bị loại khỏi cuộc chơi.
+ Lần thứ 2: Các đội lại thay người chơi khác

+ Cứ chơi như vậy 8 – 10 lần. Đội nào còn nhiều thành viên nhất đội đó là
đội thắng cuộc.
* Các trò chơi mà tôi đã nêu trên không những thực hiện được trong tiết
dạy học toán mà còn được vận dụng vào nhiều tiết dạy khác như: Luyện từ và
câu, chính tả, tập đọc. Thông qua trò chơi, học sinh đã được ôn luyện, củng cố,
khắc sâu kiến thức đã học. Từ đó các em nhớ kĩ và vận dụng vào thực hành tốt
hơn. Hoặc có trò chơi chúng ta áp dụng vào nội dung khởi động nhằm ôn lại
kiến thức cũ và tạo hứng thú cho học sinh ngay đầu tiết học.
2.4. Hiệu quả:
Sau một năm thực hiện áp dụng đổi mới phương pháp dạy học Toán, đặc
biệt là đưa các trò chơi Toán học vào giảng dạy thường xuyên trong năm học,
chất lượng giảng dạy môn Toán của lớp tôi chủ nhiệm năm học 2018- 2019 đã
được nâng lên so với các lớp trong khối không thực hiện đưa trò chơi Toán học
vào giảng dạy, học sinh tiếp thu kiến thức và vận dụng vào giải các bài toán
được tốt hơn, số lượng điểm khá, giỏi trong các lần kiểm tra định kì chiếm tỉ lệ
cao, lớp luôn được xếp thứ Nhất trong toàn khối về chất lượng môn Toán sau
mỗi lần kiểm tra định kỳ.
Dưới đây là kết quả khảo sát môn Toán ở lớp 2A (lớp thực nghiệm) và
lớp 2B ( lớp đối chứng) vào ngày 22 tháng 2 năm 2019.
Lớp
2A
2B

Tổng số
27
27

Hoàn thành tốt
SL
15

11

TL (%)
55,6
40,7

Hoàn thành
SL
12
15

TL (%)
44,4
55,6

Chưa hoàn
thành
SL
TL (%)
0
1
3,7

* Nhìn vào bảng khảo sát chất lượng ta thấy: Ở lớp thực nghiệm: Tỉ lệ học
sinh đạt mức hoàn thành tốt cao hơn lớp đối chứng và đầu năm lớp thực nghiệm
có số học sinh chưa hoàn thành cao hơn lớp đối chứng nhưng cuối năm học tỉ lệ
này ở lớp thực nghiệm không còn nữa. Điều đó cho thấy để học sinh khắc sâu
được kiến thức mà đặc biệt là học sinh lớp 2 chúng ta phải có nhiều phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học. Học sinh khắc sâu được kiến thức thì khả
năng vận dụng kiến thức vào thực hành mới đạt kết quả tốt. Và đặc biệt việc đưa

hình thức trò chơi vào củng cố kiến thức hoặc khởi động là hình thức mềm hóa
kiến thức và thông qua trò chơi học sinh dễ nhớ kiến thức hơn.
17


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, bản thân tôi nhận thấy việc đưa
hình thức trò chơi vào trong giờ học toán ở tiểu học nói chung và giờ học toán
lớp 2 thực hiện chương trình VNEN nói riêng là rất cần thiết. Bởi vì sử dụng trò
chơi học tập không chỉ giúp học sinh nắm được, củng cố được nội dung kiến
thức Toán một cách nhẹ nhàng mà còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy,
phát triển trí tưởng tượng, khả năng diễn đạt mạch lạc và nhất là tạo hứng thú
học tập, tạo niềm vui, lòng say mê học tập. Từ đó rèn luyện đức tính chăm chỉ,
tự tin, năng động sáng tạo góp phần rèn luyện cho học sinh có những đức tính,
phẩm chất và phong cách làm việc của người lao động mới. Để đưa hình thức
trò chơi vào trong giờ học toán đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện tốt các nội
dung đó là:
- Phải nhiệt tình, thực sự yêu nghề, yêu trẻ, tâm huyết với chuyên môn.
- Cần tìm hiểu, nghiên cứu kỹ về tâm lý học sinh, nắm chắc đặc điểm của
lứa tuổi để có phương pháp giảng dạy đúng, phù hợp với yêu cầu.
- Nắm chắc những thuận lợi, khó khăn chủ quan, khách quan của học sinh,
để có biện pháp khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi giảng dạy có hiệu quả.
- Nắm vững chương trình Toán của cấp học, của lớp mình dạy để sử dụng
các trò chơi góp phần đổi mới phương pháp dạy học một cách thích hợp vào
giảng dạy Toán nói chung.
- Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng. Tích cực nghiên cứu, tìm hiểu
những cái mới để nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, chính trị cho bản
thân.
- Luôn trăn trở nghiên cứu những vướng mắc khi truyền đạt kiến thức mới

đến với học sinh, từ đó tìm biện pháp giải quyết, khắc sâu kiến thức cho học
sinh.
3.2. Kiến nghị
Đối với giáo viên: Cần kết hợp vận dụng linh hoạt hệ thống phương pháp
dạy học. Khi dạy nội dung kiến thức mới hoặc ôn tập cho học sinh giáo viên nên
đưa các hình thức trò chơi vào củng cố kiến thức.
Đối với nhà trường: Có kế hoạch tổ chức các chuyên đề ứng dụng các
hoạt động trò chơi trong các tiết học Toán có hiệu quả để giáo viên có thể tiếp
cận, trao đổi, học hỏi cách thức, kinh nghiệm, sáng kiến về thiết kế và sử dụng
trò chơi học tập góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Đối với Phòng Giáo Dục: Chọn những sáng kiến kinh nghiệm có giá trị
cao, có khả năng áp dụng rộng rãi trong thực tiễn in thành tập san phục vụ ngành
giáo dục huyện nhà.
Trên đây là kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện và mang lại kết quả. Kính
mong Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp góp ý kiến để
tôi hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm trên.

18


XÁC NHẬN CỦA TT ĐƠN VỊ

Hưng Lộc , ngày 28 tháng 2 năm 2019
Tôi xin cam đoan trên đây là SKKN
mình viết không sao chép của người khác
Người thực hiện

Trương Thị Cúc

19




×