Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.69 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
I. MỞ ĐẦU

TRANG
02
02

1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu

02
02
02

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1. Cơ sở lí luận
2. Trực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn
miêu tả cho HS lớp 5
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
2.Đề xuất

03
03
04


05

16
17
17
18

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho
học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt như nghe, nói, đọc, viết để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động lứa tuổi, góp phần rèn luyện các thao
tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản
1


về tiếng Việt. Học tiếng Việt, học sinh còn được bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt,
hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt được chia thành các phân
môn, mỗi môn có nhiệm vụ rèn cho học sinh một số kĩ năng nhất định. Phân
môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất. Phân môn Tập làm
văn rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó chú trọng vào các kĩ năng nghe,
nói, viết. Đối với phân môn này, học sinh phải được hình thành và rèn luyện
năng lực trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau.
Qua thực tế làm công tác quản lý dự giờ thăm lớp, qua báo cáo chất lượng
và cũng đã có thời gian trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn
là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt, giáo viên rất ngại khi
thi giáo viên giỏi hoặc dự giờ “bị” vào các tiết Tập làm văn còn học sinh thì ngại
học bởi để thực hiện được mục tiêu của phân môn Tập làm văn là xây dựng các

văn bản (nói và viết), học sinh cần huy động tất cả các kiến thức tiếng Việt tiếp
thu được qua việc học Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện… Trong
khi đó, học sinh thì vốn từ nghèo nàn, khả năng diễn đạt và kiến thức thực tế đều
hạn chế nên điểm môn Tập làm văn của các em thường không cao.
Với học sinh lớp Năm, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh là cần
thiết. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học sinh học tốt các môn
học khác ở Tiểu học và học lên lớp trên.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy
học trong nhà trường nói chung, dạy học sinh lớp Năm học tốt văn miêu tả nói
riêng, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy văn
miêu tả cho học sinh lớp 5”
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn được đóng góp một phần công sức
của mình vào việc nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn của khối lớp 5
cũng như công tác nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt của trường Tiểu
học Bắc Sơn.
3.Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
4.Phương pháp nghiên cứu
-Điều tra phân loại đối tượng học sinh
-Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
-Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
II.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2


Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng
hợp các kiến thức, kỹ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu...

để viết nên một bài Tập làm làm. tập làm văn là phân môn học sáng tạo chứ
không phải sao chép... là phân môn học tổng hợp kiến thức của các môn học
khác và kiến thức của cuộc sống, là phân môn tổng hợp các kỹ năng (kỹ năng
sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, kỹ năng trình bày và tạo lập
văn bản...).
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn trong Tiếng Việt được tập hợp lại
xoay quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn
luyện kỹ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy – học có hiệu quả
phân môn Tập làm văn dạng bài miêu tả (tả cảnh, tả người) nhất thiết người giáo
viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các
bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ và câu thường xuất hiện
các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con
người...
Bài tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng,
góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới
mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng phân môn Tập làm văn chất lượng của cảm thụ văn học, của
các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy phải lập được kế
hoạch bài học cụ thể và trò học tập chủ động, tích cực, nghiên cứu hiệu quả mới
mong nâng cao một cách bền vững chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng
và môn Tiếng Việt nói chung ở lớp cuối cấp tiểu học.
Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu, yêu cầu cần đạt về kiến
thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học, theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng của từng môn (ban hành kèm theo Quyết định số 16 của Bộ
GD-ĐT) và phù hợp với trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn số
896” của Bộ GD – ĐT đã đề ra.
Tôi tin rằng, đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại
hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt lớp 5.
2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

a. Thuận lợi:
3


+ Cơ sở vật chất: Ở tất cả các khối lớp đều được trang bị đầy bàn ghế,
bảng ..đảm bảo dạy học. Các điều kiện khác về cơ sở vật chất đều tương đối đảm
bảo cho công tác dạy học.
+ Về giáo viên:
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn.
Riêng đối với giáo viên dạy khối 5 đều có trình độ trên chuẩn. Giáo viên nhiệt
tình, năng động, trách nhiệm với công việc, tích cực trong công tác tự học tự bồi
dưỡng, ham học hỏi và rất hứng thú với phương pháp dạy học mới.
- Mạng internet được phủ sóng cả ở trường và ở nhà riêng nên việc cập
nhật các thông tin phục vụ môn học kịp thời.
- Có đủ các sách tham khảo tài liệu phục vụ môn học cho giáo viên.
+ Về học sinh:
- Các em đều ngoan ngoãn, lễ phép, có ý thức học tập tương đối tốt.
- Nhiều học sinh mạnh dạn, tự nhiên trong giao tiếp.
+ Về phụ huynh:
- Hầu hết phụ huynh học sinh đều quan tâm đến việc học tập của con em
mình, luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho các em. Luôn đồng tình ủng hộ
các hoạt động giáo dục của nhà trường.
b. Khó khăn:
+ Về cơ sở vật chất:
- Chưa đủ 1 máy chiếu/ lớp để giúp giáo viên và học sinh có những tiết học thực
tế sinh động hơn.
- Chưa đủ 1 phòng / lớp vẫn còn phải học 2 ca.
+ Về giáo viên:
- Đối với việc dạy học phân môn Tập làm văn giáo viên vẫn thường lúng
túng hơn các phân môn khác vì để hướng các em có cách nhận xét, cách miêu tả

sao cho có sinh động, mang tính chất văn chương là điều không dễ dàng.
- Giáo viên lúng túng trong việc điều hành hoạt động giữa các cá nhân,
các nhóm học sinh nhịp độ học tập chênh lệch nhau. Khả năng bao quát quán
xuyến của giáo viên trong các nhóm , từng cá nhân còn những khó khăn.
+ Về học sinh:
- Các em còn nghèo vốn từ, không biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
như biện pháp so sánh, nhân hóa.
4


- Các em chưa biết vận dụng kết quả quan sát thực tế vào bài làm
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tải.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng.
- Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kỹ một vài chi tiết cụ thể nổi bật
- Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả
* Qua dự giờ đánh giá giáo viên và khảo sát chất lượng học sinh đối với
tiết Tập làm văn vào thời điểm đầu năm học được thống kê với kết quả như sau:
+ Kết quả giáo viên ở 2/4 đ/c dạy lớp 5:
- Giờ giỏi: 0 đ/c
- Giờ khá : 2 đ/c
+ Kết quả khảo sát học sinh ở 2/4 lớp 5:
LỚP 5A: 33 học sinh
Kết quả
khảo sát

Hoàn
thành tốt
Số
lượng
9


Tỉ lệ
27.3

Hoàn
thành
Số
lượng
14

LỚP 5B: 32 học sinh
Chưa hoàn
thành

Tỉ lệ
42.4

Số
lượng
10

Tỉ lệ
30.3

Hoàn
thành tốt
Số
lượng
7


Hoàn
thành

Tỉ lệ
27.9

Số
lượng
16

Tỉ lệ
50

Chưa hoàn
thành
Số
lượng
9

Tỉ lệ
28.1

3. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho
học sinh lớp 5:
Từ thực trạng trên, tôi đã trực tiếp chỉ đạo trực tiếp đến các đ/c PHT phụ
trách chuyên môn, Tổ trưởng và giáo chuyên môn khối 5 áp dụng một số biện
pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả, các biện pháp được
trình bày cụ thể như sau:
3.1. Bố trí sắp xếp đội ngũ giáo viên dạy lớp 5 phù hợp:
Năm học 2017 – 2018, Ban giám hiệu căn cứ vào kết quả công tác của

giáo viên trong các năm gần đây, chọn những giáo có trình độ năng lực chuyên
môn thực sự vững vàng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, dựa vào ý thức trách
nhiệm của giáo viên, người có kinh nghiệm trong giảng dạy để đứng chủ nhiệm
lớp 5.
Phân công giáo viên dạy lớp 5 năm học 2017 – 2018 như sau:

STT

Họ và tên

Năm
sinh

Trình độ
CM

Danh hiệu

Ghi chú

đã đạt
5


1
2
3
4

Nguyễn thị Bích Hạnh 1972

Đại học GVG cấp Tỉnh
Bùi Thị Thủy
1976
Đại học GVG cấp Tỉnh
Nguyễn Thị Thư
1983
Đại học GVG cấp Thị
Đặng Thị Min h Chính 1974
Đại học GVG cấp huyện Hà Trung
3.2. Đổi mới về sinh hoạt tổ chuyên môn và vai trò của người quản lý
chuyên môn:
a. Nâng cao vai trò của Tổ chuyên môn:
- Chỉ đạo đ/c tổ trưởng chuyên môn phải thường xuyên tổ chức các giờ
dạy thực nghiệm về các dạng bài Tập làm văn trong tổ.
- Tổ trưởng chuyên môn dưới sự chỉ đạo của đ/c PHT phụ trách khối điều
hành các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn thật sự có chất lượng, giảm bớt hình thức
hội họp mà tập trung vào thống nhất phương pháp dạy các môn khó làm sao để
tiết dạy thật sự có hiệu quả.
b. Nâng cao vai trò trách nhiệm của người quản lý:
- Chỉ đạo Các đ/c Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn phải thường
xuyên dự họp với tổ chuyên môn, cùng với tổ tháo gỡ những khó khăn trong nội
dung chương trình và tổ chức thực hiện. Cùng với tổ thống nhất phương pháp
dạy học.
- PHT phụ trách khối dự giờ, góp ý cho giáo viên điều chỉnh ngay những
bất cập hạn chế trong phương pháp dạy của giáo viên và các hình thức tổ chức
dạy học đồng thời nắm bắt được phương pháp học của học sinh kịp thời uốn
nắn.
- Chỉ đạo tổ chức chuyên đề cấp trường về đổi mới PPDH đối với phân
môn TLV nói riêng để thống nhất cách dạy, quy trình của một tiết dạy đối với
phân môn TLV nói chung và văn miêu tả nói riêng.

3.3 Các biện pháp chỉ đạo giáo viên cần thực hiện:
3.3.1.Điều tra phân loại học sinh
Chỉ đạo tổ chuyên môn tiến hành điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối
tượng học sinh : năng khiếu tiếp thu được, tiếp thu chậm. Nắm chắc được đối
tượng học sinh, đề ra những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần giúp học sinh chưa biết làm văn
miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.
3.3.2.Hướng dẫn học sinh đọc sách, nâng cao năng lực cảm thụ văn
học, tích lũy tư liệu văn học.
Chỉ đạo chuyên môn thống nhất với giáo viên một số biện pháp như :

6


- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách không phải chỉ để biết cốt truyện
mà phải ngẫm nghĩ nội dung, bố cục, ý nghĩa của tác phẩm, cách viết của tác giả
để giúp các em cảm thụ sâu tác phẩm, tạo được cái gì trong cách viết của tác giả.
- Hướng dẫn học sinh biết cách tích lũy dần các tư liệu văn học bằng cách
có cuốn sổ tay văn học khi đọc những bài thơ, bài văn có đoạn miêu tả hay hoặc
những từ ngữ gợi tả hay, hình ảnh sinh động thì ghi lại. Tích lũy vốn văn học,
ghi chép các câu văn, câu thơ, câu ca dao hay không phải là để học vẹt, để bê
nguyên xi vào bài văn mà là để tham khảo, làm giàu thêm vốn ngôn ngữ, vận
dụng sáng tạo trong bài viết của mình. Việc hướng dẫn học sinh đọc sách, nâng
cao năng lực cảm thụ văn học, tích lũy dần các tư liệu văn học đã đóng góp một
phần vào việc viết văn hay của học sinh.
3.3.3.Hướng dẫn các em làm giàu vốn từ ngữ
Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài
đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ, câu cùng chủ điểm.
Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một cảnh
vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá

được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lối về
dùng từ, viết câu, làm văn...
Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt. Phân
môn Tập đọc giúp các em hiểu được nội dung của các đoạn văn, khổ thơ có ý
nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người...). Mỗi tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài
câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả của tác giả để học sinh thấm dần
về Tập làm văn miêu tả.
Môn Luyện từ và câu là môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều
nhất khi dạy các tiết mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng
vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt
câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình,
nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động...
Đặc biệt ở chính phân môn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh
làm giầu vốn từ theo các đề tài nhỏ :
Ví dụ : Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dòng sông (bì bõm, ì oạp, ì ầm,
xôn xao, ào ào...).
Ví dụ 2 : Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dòng sông : dòng
sông như dải lụa, dòng sông như con trăn khổng lồ, dòng sông như người mẹ
hiền ôm ấp đồng lúa chín vàng...
7


Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các
cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như : sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối
(đỏ mọng, đặc sệt, trong suốt ...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ...).
Ví dụ 1: Cho các từ (ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ
từ...).
Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau : (Tiếng
chim ... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời .... nhô lên sau lũy tre

xanh. Khói bếp nhà ai ... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau, .... theo chân mẹ.
Đường làng đã ... người qua lại).
Học sinh có thể điền như sau : : Tiếng chim líu lo báo hiệu một ngày mới
bắt đầu. Ông mặt trời từ từ nhô lên sau lũy tre xanh. Khói bếp nhà ai là là bay
trong gió. Đàn gà con liếp chiếp gọi nhau, ríu rít theo chân mẹ. Đường làng đã
tấp nập người qua lại).
Ví dụ : Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để
được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao,
thủy tinh, dải lụa, giọng bà tiên).
-Hoa xoan nở từng chùm trông giống như ... (những chùm sao)
-Nắng cứ như ... xối xuống mặt đất.

(thủy tinh)

-Giọng bà trầm ấm ngân nga như...

(tiếng chuông)

Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc học
sinh phải suy nghĩ kỹ hơn khi chọn từ.
3.3.4.Bồi dưỡng tình cảm, mĩ cảm
Việc bồi dưỡng tình cảm, mỹ cảm rất cần thiết để học sinh viết được bài
văn hay, nếu không có tình cảm đúng thì khó có thể viết được bài văn hay. Tả
một hàng cây bên đường, nếu học sinh không yêu hàng cây ấy, chưa thấy đó là
kết quả của bao nhiêu sức thì bài văn tả hàng cây không có hồn. Nếu các em yêu
hàng cây ấy thì khi quan sát các em sẽ thấy nhiều nét đẹp. Các em về vui mừng
khi thấy hàng cây này nhiều chồi non, cành lá xum xuê... Đối với giáo viên khi
dạy các bài văn, bài thơ miêu tả về cảnh đẹp quê hương, đất nước và con người
cần phải hướng dẫn, phân tích tỉ mỉ cách tả, cách sử dụng tả ngữ, hình ảnh... để
tăng vốn hiểu biết cho các em ; để các em biết nhìn cái đẹp, các em sẽ thêm yêu

quê hương, đất nước, yêu những danh lam thắng cảnh.
3.3.5.Cá thể hóa hoạt động dạy học
8


- Giáo viên luôn quan tâm đến đối tượng học sinh tiếp thu chậm, đồng
thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh có năng
khiếu.
Ví dụ : Khi học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, giáo
viên phải quan tâm đến từng em. Đối với học sinh tiếp thu chậm, giáo viên phải
hướng dẫn cụ thể cho các em bằng những gợi ý như :
+Em hãy nói tình cảm của mình đối với ngôi trường (yêu, ghét) ? (em rất
yêu ngôi trường).
+Em thể hiện tình yêu đó bằng những việc làm như thế nào ? Em trồng
cây, chăm sóc bồn hoa để trường em ngày càng đẹp hơn hay em không bao giờ
bẻ cành, hái hoa trong bồn hoa của nhà trường).
-Tuyệt đối không được hướng dẫn HS một cách đồng loạt để các em có
những câu văn nghĩa chung chung như : (Cô giáo em có mái tóc đen huyền,
mượt như nhung. Đôi mắt cô đen trong và sáng long lanh. Nước da của cô trắng
mịn màng). Hay (Trường em mái tôn đỏ tươi. Cột cờ cao chót vót. Trên đỉnh cột
cờ, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Giờ ra chơi, các bạn ùa ra khỏi lớp như bầy
ong vỡ tổ).
Phải hướng dẫn để HS tìm ra những nét đặc sắc của cảnh. Những nét đặc
sắc đó giúp người đọc hình dung được cảnh vật cụ thể mà không lẫn lộn với
cảnh vật khác.
Ví dụ : Để hướng dẫn học sinh tả ngôi trường thân yêu, giáo viên cho học
sinh quan sát, tìm ý và chọn những chi tiết mà chỉ trường tôi mới có : Ngôi
trường của em không giống bất cứ một ngôi trường tiểu học nào. Đó là một ngôi
trường cao tầng kiên cố, cảnh quan môi trường mùa nào ngôi trường cũng đẹp,
nhưng ngôi trường đẹp nhất vào mỗi độ thu về. Đây là ngôi trường được xây

dựng với sự giúp đỡ của hội Hữu nghị Việt Nhật từ rất lâu rồi.
3.3.6.Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài
Bài văn của HS được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng
đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường
ẩn chứa đến 3 yêu cầu : yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu
cầu về trọng tâm.
Ví dụ : Đề bài ở tuần 4, lớp 5
Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy.
9


Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp
học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định
nội dung bài viết :
Với đề bài tren, ẩn chứa 3 yêu cầu sau :
a.Yêu cầu về thể loại của đề là : Miêu tả (thể hiện ở từ ‘tả’ ).
b.Yêu cầu về nội dung là : Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
(Cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) .
c.Yêu cầu về trọng tâm là : Ở trong một vườn cây (hay trong công viên...).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài (Tả một cơn mưa), chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định theo yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn (Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học)....
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp
nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung...
3.3.7.Hướng dẫn HS biết cách quan sát, tìm ý, sắp xếp, diễn đạt ý
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập
1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật,

giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi
dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả
theo các trình tự hợp lý.
a.Tả theo trình tự không gian
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải.... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này
được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật...
Ví dụ 1: Tả từ ngoài vào trong “Đến Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi
Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh
bướm nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt, xòe hoa. Trong đền dòng
chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm để ở bức hoành phi treo chính giữa”.
Ví dụ 2: Tả từ dưới lên trên “Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn,
dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xòe trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi
xứ Lạng).
b.Tả theo trình tự thời gian

10


Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau)
thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm tập làm văn miêu tả
cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người.
Ví dụ: “... Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện
vàng hoe, những em bé Hmông, những em bé Tu Di, Phú Lá cổ đeo móng hổ,
quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên
chợ thị trấn người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa
– Tiếng Việt 4).
Ví dụ 2: “Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả
nào hương thơm lại ngây ngất kỳ lạ đến như thế. Mới đầu xuân nằm kia, những
hạt thảo quả gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một

năm sau nữa, từ một thân lê, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao
mà mạnh mẽ vậy”. (Mùa thảo quả - Tiếng Việt 5 tập 1).
c.Tả theo trình tự tâm lý
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ 1: “Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kỳ lạ, phủ kín
cả hai vai, xõa xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm
trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trí nhớ
tôi dễ dàng, và như những đóa hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi
bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả...”. (Bà Tôi
– Tiếng Việt 5, tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt, mái
tóc “dày kì lạ”.
Ví dụ 2: Sầu riêng là loại trái quý ở Miền Nam. Hương vị của nó hết sức
đặt biệt, mùi thơm đậm, bay rất ra... Hoa sầu riêng trỏ vào cuối năm... Hoa đậu
từng chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng
cây kỳ lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...” (Sầu riêng
– Tiếng Việt 4).
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng. Ngoài
các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kỹ
11


năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác...) để quan sát,
cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3: Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5, tập 1, trang 33) ta thấy tác

giả đã quan sát bằng các giác quan như sau:
-Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi
-Xúc cảm: Gió bống thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước
-Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mát của những trận
mưa đầu mùa.
-Thính giác: Nghe tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót của
chào mào.
Bên cạnh việc quan sát là việc tìm ý và sắp xếp ý, một trong những
nguyên tắc trong việc sắp xếp ý là phải xác định được trọng tâm của bài để từ đó
sắp xếp và chọn lọc ý cho đúng với trọng tâm. Nếu bài văn tả cảnh đẹp thì phải
chọn đường nét đẹp, màu sắc đẹp, âm thanh hay còn những yếu tố khác không
phục vụ cho ý chủ đạo đó thì không đưa vào. Hoặc nếu tả cây bàng thì trọng tâm
là thân, cành, lá, quả... còn ánh nắng, chim chóc, hoạt động của người vẫn cần tả
nhưng là phụ.
Có nhiều cách sắp xếp bố cục khác nhau, có thể sắp xếp theo trình tự thời
gian hay không, cũng có khi kết hợp cả thời gian và không gian, tâm lý trong
một đoạn văn, bài văn. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách đặt sự vật,
đối tượng miêu tả trong nhiều mối quan hệ: quan hệ khách quan, quan hệ nội tại.
Tìm hiểu được mối quan hệ bài văn sẽ có nhiều chi tiết riêng, tả được cái thần,
cái hồn của đối tượng. Từ đó, lựa chọn vào bài viết được chi tiết, trọng tâm. Tôi
còn hướng dẫn học sinh biết dùng phép đặc tả để làm nổi bật trọng tâm. Đặc tả
không phải chỉ là chỉ tả một chi tiết mà phải tả toàn diện, tuy nhiên đặc tả ưu
tiên cho chi tiết đặc sắc, chi tiết đó làm nổi bật bản chất sự vật.
Đề bài: Hãy miêu tả hình dáng, tính tình của một người bạn học giỏi,
chăm ngoan được nhiều người yêu quý.
Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được.
Ví dụ:
-Bạn Thu Nga học chung lớp với em
-Bạn học giỏi, chăm ngoan nên được nhiều người yêu quý
-Chúng em chơi thân với nhau từ lớp một


12


-Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi
bền lâu.
-Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ
-Bạn có nước da trắng hổng, mịn màng
-Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy, cô và các bạn
khen ngợi.
-Bạn rất hay cười
-Mái tóc bạn không đen như tóc em mà hoe vàng
-Bằng tuổi với em nhưng bạn cao hơn em một cái đầu
-Nga viết chữ rất đẹp nên bạn luôn được cô khen ngợi
-Mỗi khi bạn cười, hai má lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt
dễ thương.
-Bạn không gây gỗ, xích mích với ai bao giờ
-Thầy cô thường lấy bạn để làm gương
Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp xếp ý thành các đoạn mở bài, thân
bài, kết bài phù hợp.
Ví dụ:
*Đoạn mở bài:
Em và bạn Thu Nga chơi với nhau từ năm lớp một. Chúng em rất thân
nhau. Mỗi lúc rãnh rỗi, em thường nô đùa với bạn.
*Đoạn thân bài: Bằng tuổi em nhưng bạn cao hơn em một cái đầu. Bạn có
nước da trắng hồng, mịn màng. Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm
đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt dễ thương. Thu Nga có đôi mắt to rất
hợp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên vẻ hồn nhiên, trong
sáng. Mái tóc bạn không đen như tóc em mà hoe vàng. Nga viết chữ rất đẹp, bạn
luôn được cô khen ngợi là cô bé có đôi bàn tay “diệu kỳ”. Cô thường lấy bạn ra

làm gương cho chúng em noi theo đẻ rèn chữ viết đẹp. Không những viết đẹp
mà bạn còn thông minh hiểu bài rất nhanh. Bạn luôn là trung tâm đoàn kết của
tập thể lớp ....
*Đoạn kết bài:
Mỗi khi vắng Thu Nga, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất
nhớ. Em sẽ cố gắng học những điểm tốt từ bạn để tình bạn của chúng em ngày
càng thêm gắn bó keo sơn.
13


Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn.
-Đoạn mở bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất
xứ nhân vật.
-Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng ngôn ngữ về hình dáng, đường nét, cử
chỉ hoạt động, tính nết của nhân vật. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu
biểu thì ta mới nhận ra nhân vật đó mang những cá tính riêng. Bạn học sinh
trong bài là một học sinh giỏi, chăm ngoan với những đặc điểm riêng, cá tính
riêng, không lẫn lộn với bất cứ bạn học sinh nào khác.
-Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Không thể có
đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hưỡng dẫn học sinh nêu
được cảm xúc tự nhiên, chân thật, không xáo rỗng kiểu như: Em rất yêu quý
bạn...
3.3.8.Giúp học sinh luyện viết câu văn có hình ảnh
Hướng dẫn học sinh biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu
phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp
nhận thông tin. Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu chưa đúng để
cả lớp nhận xét. Ví dụ:
-Trong lớp em ai cũng mến bạn Loan
-Cột cờ cao chót vót lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay
-Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng, cây phượng.

Học sinh trao đổi, sửa chữa:
-Trong lớp em, ai cũng mến bạn Loan
-Cột cờ cao chót vót, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay
-Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng, cây phượng.
Khi các em đã biết viết câu văn đúng ngữ pháp. Giáo viên nên nâng cao
lên một bước hướng dẫn các em viết câu văn hay, vì diễn đạt câu văn không có
hình ảnh và không có sử dụng biện pháp nghệ thuật, so sánh, nhân hóa... thì câu
văn trở nên khô khan, tẻ nhạt khó thu hút người đọc. Do đó trong các tiết luyện
từ và câu tôi hướng dẫn kỹ các em luyện tập qua các bài tập rèn kỹ năng viết
đoạn văn. Giáo viên cần gợi ý các em lập ý trước khi viết thành lời văn cụ thể.
Ví dụ 1: Bài tập 3, trang 88, Tiếng Việt 5, tập 1
Giáo viên gợi ý như sau: -Em chọn từ ngữ nào trong mẫu chuyện trên?
-Quê em có hình ảnh gì đẹp? (HS kể: dòng sông, lũy tre, con đê, cánh
đồng...).
14


-Em hãy đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh nhân hóa và phải biết bộc
lộ tình cảm của mình về quê hương trong câu văn.
Ví dụ 2: Miêu tả mái tóc của một bạn
+Với học sinh chậm, tôi giúp các em viết câu đúng ngữ pháp: tóc bạn
Loan đen nhánh.
+Với HS có năng khiếu, tôi hướng dẫn các em viết câu có hình ảnh: Loan
có mái tóc đen nhánh, óng ả, xõa ngang vai mà không thể lẫn lộn với bất cứ bạn
nào trong lớp được.
3.3.9.Chấm bài và trả bài viết
Chương trình tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết tả bải tả
người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có
chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài hiệu quả.
a.Chấm bài: Khi chấm bài tập làm văn cho học sinh, mỗi bài giáo viên cần

đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem
thử học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa? ghi
ra sổ chấm bài những chỗ hay, chưa hay, hoặc sai những lỗi gì? của từng học
sinh.
Khi chấm điểm xong cho cả lớp, giáo viên đánh giá chung kết quả bài làm
cho học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy và những thiếu sót cần sửa
chữa, bổ sung để chuẩn bị tiết trả bài sắp tới...
b.Trả bài: Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết
lớp 5 theo sách giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính.
1-Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả làm bài của lớp
2-Chữa bài
3-Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và
rút kinh nghiệm (TV5, T1, Trang 53).
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, tôi lấy thông tin từ bài viết của học sinh
(đã chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một cách bài
bản, có linh hoạt tùy theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh
đọc đề bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình
hình làm bài của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của đề, số bài
chưa đạt hoặc đạt chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...).
15


Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho HS nêu dàn ý chung của kiểu
bài tả cảnh (tả người)... Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh nghe và
nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó.
Hoạt động 2: Chữa bài
Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
-Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong quá

trình chấm bài giáo viên đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính
tả... Đến lúc này giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định
hướng như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kỹ
năng diễn đạt cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán
trong học sinh vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
-GV cần lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp, mỗi tiết trả bài viết tập
trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một cách bền vững, túc là cần
có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.
Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp
Ví dụ: Tiết trả bài viết số 1 (tả cảnh, tuần 5): Trọng tâm sửa lỗi là dùng từ,
đặt câu và thực trạng viết câu.
Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi
lời khen, chê của cô giáo. (Ví dụ: Câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết
câu, lỗi chính tả...).
Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tâp làm văn
Hoạt động 3: Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một
số em cho cả lớp nghe để học tập và rút kinh nghiệm.
Với những biện pháp trên, học sinh đã tự làm một bài văn bằng tất cả tình
cảm chân thành mà không thiếu đi những yếu tố văn chương, rất mượt mà và
sâu sắc.
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua những biện pháp tôi đã áp dụng để chỉ đạo giáo viên rèn kĩ năng làm
văn miêu tả cho học sinh lớp 5 được nêu ở trên, đến giữa học kỳ 2 năm học
2017-2018 qua dự giờ đánh giá chất lượng lại 2 đồng chí được áp dụng dạy tiết
Tập Làm văn ở lớp 5 thì cả 2 đồng chí đã đạt giờ dạy giỏi.
Đối với học sinh các em đã nắm được một số kỹ năng nhất định để học có
hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích môn học, không sợ sệt
khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm nữa. Bài làm của các em đa số đã có tiến
16



bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết
câu văn trôi chảy, mạc lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng
khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các em cảm thụ
được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dúng bài, nhất là rất tự tin khi đến
tiết học Tập làm văn.
Cụ thể khảo sát ở hai lớp như sau:
LỚP 5A: 33 học sinh
Kết quả
khảo sát

Hoàn
thành tốt
Số
lượng
15

Tỉ lệ
45,5

Hoàn
thành
Số
lượng
18

Tỉ lệ
54,5

LỚP 5B: 32 học sinh

Chưa hoàn
thành
Số
lượng
0

Tỉ lệ

Hoàn
thành tốt
Số
lượng
16

Tỉ lệ
50

Hoàn
thành
Số
lượng
16

Tỉ lệ
50

Chưa hoàn
thành
Số
lượng

0

Tỉ lệ

Diễn biến chất lượng môn Tiếng Việt sau khi áp dụng đề tài này thật đáng
phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của sự chỉ đạo về chuyên
môn và của cô giáo và học sinh lớp 5A và 5B, Trường Tiểu học Bắc Sơn. Điểm
của phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt của khối 5 nói riêng và của Trường Tiểu học Bắc
Sơn nói chung.
Đây là một sự thành công trong việc áp dụng đối với lớp 5A và 5B, Biện
pháp chỉ đạo này sẽ là tiền đề để tiếp tục áp dụng để chỉ đạo cho toàn khối 4-5
của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả.
III.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận:Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn cần
làm tốt các việc như sau:
Đối với nhà trường:
- Ban giám hiệu nhà trường cần phải chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong
công tác chỉ đạo triển khai thực hiện, cần động viên khích lệ giáo viên khắc phục
những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
- Quan tâm đến công tác sinh hoạt chuyên môn của các tổ và của trường,
cũng như của ngành tổ chức kịp thời chia sẻ những kinh nghiệm với nhau.
- Ban giám hiệu cần tăng cường công tác dự giờ, thăm lớp để nắm bắt
chất lượng dạy của giáo viên, học của học sinh.
Đối với giáo viên:
-Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và
nắm chắc đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
17



-Hiểu rõ tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân
môn thuộc môn Tiếng Việt nên muốn học sinh học tốt phân môn này giáo viên
phải hướng dẫn các em học tốt các phân môn còn lại.
-Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế
hoạch bài học trên lớp, giáo viên chủ động sử dụng linh hoạt các phương pháp
dạy học giúp học sinh tiếp thu bài nhẹ nhàng, hiệu quả.
-Trong giờ học giáo viên nên khéo léo lồng vào để đọc cho học sinh nghe
các câu văn, câu thơ có sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em
những đoạn văn mẫu... giúp các em mở rộng vốn từ, vốn hiểu biết để từ đó các
em học tập, vận dụng vào bài của mình.
-Giáo viên cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu trong việc rèn
kỹ năng viết bài văn cho các em. Bởi trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều
thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc
phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.
-Giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết
khả năng và niềm đan mê, lòng nhiệt tình cho công tác thì mới có được những
kết quả như mong muốn.
2. Đề xuất
* Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: Tổ chức chuyên đề cấp Thị xã về
dạy học phân môn Tập làm văn cũng như các môn học khác.
* Đối với UBND Thị xã:Tiếp tục biên chế đủ tỉ lệ giáo viên để nhà trường
tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc chỉ đạo nâng cao
chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 5. Trong quá trình nghiên cứu do
trình độ lý luận còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến chân thành của các đồng nghiệp.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Bỉm Sơn, ngày 02

tháng 4 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người viết

18


MAI THỊ HẠNH

19



×