Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng việt công nghệ giáo dục lớp 1 trường tiểu học xuân thắng thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.08 KB, 30 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng, mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm
giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu
dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh học
tốt hơn ở bậc trung học cơ sở.
Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng dạy và học đúng thực chất là một
yêu cầu vô cùng cần thiết mà các nhà quản lý giáo dục cần có những biện pháp
chỉ đạo, quản lý tốt để đảm bảo chất lượng dạy và học.
Song thực tế cũng không ít những khó khăn vì trường Tiểu học Xuân
Thắng - Thường Xuân thuộc vùng “kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn” của huyện,
là nơi có điều kiện khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, hạ tầng cơ sở kém, đi lại khó
khăn, kinh tế chậm phát triển trình độ dân trí thấp, cơ sở vật chất thiếu thốn,
trình độ giáo viên không đồng đều, nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp
phát triển giáo dục.
Trong 4 năm học vừa qua nhà trường thuộc 1 trong 6 trường tham gia
chương trình “ Đảm bảo chất lượng trường học SEQAP” và được tổ chức dạy
học chương trình Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục trong 2 năm học gần đây.
Nhận thấy rằng tuy đa số là học sinh dân tộc thiểu số, nhưng các em cũng đã
từng bước tiếp cận được với nội dung chương trình, hình thức tổ chức dạy học
và đạt kết quả cao, cuối năm, học sinh lớp 1 đã đọc thông viết thạo, giao tiếp tốt.
Xuất phát từ những vấn đề trên, là người cán bộ quản lí trường học, bản
thân tôi muốn phát huy hơn nữa về vai trò, nhiệm vụ của mình làm đòn bẩy thúc
đẩy đồng bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường mà trọng tâm là dạy học
môn Tiếng việt Công nghệ giáo dục lớp 1. Đồng thời phải có trách nhiệm hạn
chế những tồn tại, làm cho thực trạng dạy học môn Công nghệ giáo dục, từng
bước nâng cao chất lượng.
Do đó, tôi chọn đề tài "Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng
dạy học môn Tiếng Việt Công nghệ giáo dục lớp1 ở trường TH Xuân Thắng Thường Xuân " nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học đúng thực chất
ở bậc tiểu học của chúng ta hiện nay.


1


Lễ khai giảng năm học 2016 - 2017. Trường TH Xuân Thắng - Thường Xuân

1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm ra những biện pháp giúp cho công
tác quản lý dạy và học của nhà trường đạt hiệu quả cao hơn.
- Đưa ra một số biện pháp hữu hiệu để quản lý tốt nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học đặc biệt môn Tiếng Việt Công nghệ giáo dục ở trường tiểu học
Xuân Thắng – Thường Xuân hiện nay.
- Duy trì và phát huy tốt chất lượng đầu vào học sinh lớp 1, 100% học
sinh đọc thông viết thạo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu gồm: Học sinh khối lớp 1 Công nghệ Giáo dục,
chất lượng môn Tiếng Việt 1 qua các năm học, giáo viên khối lớp 1, đội ngũ
tổ trưởng, tổ phó, cốt cán nhà trường.
- Các hoạt động, các biện pháp quản lý của hiệu trưởng để nâng cao chất
lượng dạy và học đúng thực chất ở trường tiểu học.

Hội Khuyến học xã trao Giấy khen HS lớp 1 học tập tốt môn Tiếng Việt - CND trong Lễ khai giảng năm học 2016 - 2017.

2


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp như:
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
- Phương pháp tìm tòi nghiên cứu các văn bản, tài liệu có liên quan đến

vấn đề quản lý, nâng cao chất lượng dạy học.
- Phương pháp sưu tầm các văn bản, tài liệu có liên quan đến công tác rèn
kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 thông qua môn Tiếng Việt 1 Công nghệ Giáo
dục, ghi lại những nội dung quan trọng.
- Phương pháp nghiên cứu các văn bản chỉ đạo công tác chuyên môn
trong trường Tiểu học; SGK; Thiết kế bài soạn Tiếng Việt 1 Công nghệ Giáo
dục; Tài liệu tập huấn môn Tiếng Việt 1 Công nghệ Giáo dục - Nhà xuất bản
Giáo dục.
* Nhóm các phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp điều tra, phân tích kết quả về chất lượng môn Tiếng Việt 1
qua thực tế dạy học những tháng đầu năm học.
- Phương pháp quan sát tìm hiểu, ghi chép các việc đã triển khai, kết quả
đạt được. Phân tích kết quả, rút ra bài học.
- Phương pháp điều tra khảo sát ghi nhận những vấn đề có liên quan đến
nội dung đề tài.
- Phương pháp trao đổi bàn bạc với tổ khối chuyên môn, giáo viên dạy
giỏi, giáo viên dạy ở mức độ đạt yêu cầu.
- Phương pháp liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp, tìm hiểu chất lượng
học sinh học tập trong lớp, đối tượng học sinh Hoàn thành tốt, học sinh Hoàn
thành, học sinh chưa hoàn thành, cá biệt, để nắm bắt cụ thể, từ đó tạo động cơ
giáo dục thái độ học tập cho các em.
- Phương pháp điều tra kết quả giảng dạy của giáo viên tại đơn vị trong 2
năm học liền nhau: Năm học: 2015 - 2016; 2016 - 2017; kết quả kiểm tra hồ sơ
giáo án, giờ lên lớp của giáo viên; khảo sát chất lượng từng giai đoạn,học kỳ của
học sinh trong năm học.
- Phương pháp tập trung quan sát hoạt động dạy của giáo viên bằng cách trực
tiếp dự giờ, thăm lớp để nắm bắt được chất lượng giảng dạy của giáo viên, song
song quan sát hoạt động học của học sinh thông qua kết quả kiểm tra bài tập của
học sinh qua từng giai đoạn, từng thời điểm với nhiều hình thức khác nhau. Hoạt
động chỉ đạo, quản lý của phó Hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học qua sự

kiểm nghiệm và tổng kết có chọn lọc.
* Nhóm phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
- Phương pháp thống kê trình độ đào tạo của giáo viên.
- Phương pháp thống kê kết quả xếp loại khảo sát giáo viên
- Phương pháp thống kê chất lượng các kỳ kiểm tra của học sinh.
- Phương pháp Phân tích so sánh đối chiếu chất lượng giáo dục của trường
trong 2 năm học: 2015 - 2016; 2016 - 2017.
3


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Như chúng ta đã biết, môn Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục rèn
luyện cho học sinh cả bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết, đồng thời hình thành và
phát triển ở trẻ em lòng nhân ái và những phẩm chất mới như: Cẩn thận, tự tin,
đoàn kết và biết hợp tác, có ý thức tự lập... Vì học sinh lớp 1 là giai đoạn phát
triển quan trọng của đời người. Vậy nên, ở lớp 1 các em có đủ kiến thức về
Tiếng Việt là giúp các em học sinh đọc thông, viết thạo, học đâu chắc đấy, nắm
chắc luật chính tả, nắm chắc hệ thống cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt. Đồng thời
giúp các em phát triển tư duy và biết cách làm việc trí óc, phát huy năng lực tối
ưu của mỗi cá nhân học sinh làm cơ sở vững chắc cho học sinh lên lớp 2 học tốt
hơn và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập nếu kết quả học tập của các
em đạt tốt.
- “Lớp 1 là móng, cấp 1 là nền” câu nói ấy đúng với mọi chương trình,
mọi nền giáo dục. Bởi thế, đầu tư cho lớp 1, cho giáo dục tiểu học cũng là cách
đầu tư khôn ngoan nhất và có lãi nhất! Trong chương trình lớp 1 thì môn học
chủ đạo, chiếm thời lượng chủ yếu và quyết định chất lượng là Tiếng Việt. Bên
cạnh mục tiêu giúp cho học sinh biết đọc thông viết thạo, viết đúng chính tả,
nắm chắc ngữ âm tiếng Việt và không tái mù thì Tiếng Việt 1 Công nghệ Giáo
dục còn hướng tới một mục tiêu hết sức quan trọng là đem đến cho học sinh một

cách học (công nghệ học) để các em có thể sử dụng lâu dài cho việc học nhiều
môn học khác nhằm biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Đây
quả là một vấn đề rất có ý nghĩa, bởi vì với cấp tiểu học thì quan trọng nhất
không phải là học cái gì mà là học như thế nào? (cách học). Vì tập trung dạy
cách học là chủ yếu nên giai đoạn đầu giáo viên cần làm chậm và chắc, đối với
các bậc phụ huynh không nóng vội với những tuần đầu, tháng đầu.

Tiết học môn Tiếng Việt - CND lớp 1A.

4


Điểm nổi bật trước hết của chương trình này là tính vững chắc, đó là việc
học sinh học đâu biết đấy, học đâu chắc đấy. Sự vững chắc đạt được nhờ hai yếu
tố: giải quyết dứt điểm từng đơn vị học và nhắc lại thường xuyên, nhắc lại khi có
cơ hội. Thứ hai là, chương trình phù hợp với mọi đối tượng dù là học sinh ở
vùng thuận lợi hay vùng khó khăn. Với quan điểm dạy ngữ âm nên chương trình
không đặt nặng về nghĩa mà tập trung vào cấu tạo ngữ âm của tiếng. Chính vì
tuân thủ quan điểm này mà chương trình đảm bảo dạy học sinh lớp 1 nắm chắc
về nguyên âm, phụ âm, biết chắc chắn một vần, một tiếng cụ thể có thể ghép với
bao nhiêu thanh. Đặc biệt các em nắm rất chắc luật chính tả. Chỉ riêng điểm này
thôi cũng cho thấy tính ưu việt của chương trình khi mà hiện nay nhiều học sinh
học đến lớp 12 vẫn viết sai chính tả.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Những năm gần đây, trường Tiểu học Xuân Thắng vẫn luôn duy trì và tổ
chức “Ngày hội đọc sách” trong toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, các em
học sinh và các bậc phụ huynh, “phong trào đọc sách” trong các lớp học cũng
được duy trì khá tốt.
Qua 2 năm tổ chức dạy và học lớp 1, và khảo sát thực tế cho thấy đa số
học sinh còn một số hạn chế sau:

Giáo viên nhận thấy các em chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào.
Khi phát âm, học sinh còn hay ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện, chưa
thể hiện được cách đọc diễn cảm. Tốc độ đọc chưa đúng lại chưa
kiên trì, tự giác tập luyện để sửa sai. Học sinh tiểu học nói chung và lớp 1 nói
riêng, phần lớn chỉ biết bắt chước một cách tự nhiên.
Phần lớn học sinh chưa nắm chắc các âm dẫn đến các em đọc sai phụ âm,
vần, thanh, tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ. Chưa hiểu
được nghĩa của một số tiếng, của từ, của câu, dẫn đến chưa nêu
bật được nội dung của bài học, đôi khi các em hiểu bài học một
cách mơ màng.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
- Sáng kiến được áp dụng ở khối lớp 1 trường Tiểu học Xuân Thắng. Giải
quyết những khó khăn trong việc dạy học môn Tiếng Việt, rèn cho học sinh ý
thức, thói quen và hoàn thiện kĩ năng đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi
học sinh. Khắc phục việc sử dụng phương ngữ trong giao tiếp, giúp các em đọc
đúng các phụ âm đầu, vần, thanh, đọc đúng các tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài thơ.
Đây là cơ sở ban đầu để các em làm quen với việc sử dụng tiếng mẹ đẻ thành
thạo. Nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tích lũy thêm kinh nghiệm, giúp bản
thân và các giáo viên trong khối dạy tốt môn Tiếng Việt Công nghệ Giáo dục.
- Làm cho tất cả các giáo viên Tiểu học thấy rõ tầm quan trọng của việc
dạy các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, giáo viên mới kiên trì rèn luyện cho
các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm ngay từ các lớp đầu cấp.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng dạy Tiếng việt nói chung về kết quả dạy học
Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục tại trường nói riêng, trong năm học qua, tôi đã
5


có một số biện pháp trong công tác chỉ đạo thực hiện nhằm nâng cao chất lượng
dạy học Tiếng việt 1- Công nghệ Giáo dục ở trường Tiểu học Xuân Thắng cụ thể
như sau:

* Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy lớp 1.
Để đáp ứng yêu cầu dạy và học theo phương pháp mới Công nghệ Giáo
dục, việc đầu tiên phải có một đội ngũ giáo viên tiểu học nói chung, giáo viên
khối 1 nói riêng có đầy đủ năng lực, phẩm chất cần thiết. Bởi lẽ vai trò người
thầy giáo hết sức quan trọng, nó góp phần quyết định đối với quá trình dạy và
học, đặc biệt mới đầu tiếp cận với cách dạy, và cách học mới.
Để xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường nói chung,
đội ngũ giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, tôi đã thực hiện một số giải pháp sau:
+ Chọn giáo viên dạy lớp 1
- Tổ chức họp Ban giám hiệu – Tổ khối trưởng, thống nhất chọn ra đội
ngũ giáo viên lớp 1 đảm bảo trẻ, khỏe, đẹp, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết
với nghề nghiệp, có năng lực chuyên môn, chữ viết đẹp.
- Năm học 2015 - 2016 trường có 6 lớp 1; Năm học 2016 - 2017 có 5 lớp
1, trong đó: 5/5 Đ/C giáo viên có trình độ trên chuẩn; 2/5 Đ/C là giáo viên giỏi
cấp huyện; 3/5 Đ/C đạt giáo viên giỏi cấp trường liên tục các năm.

Đội ngũ giáo viên được chọn dạy lớp 1 năm học 2016 - 2017.

+ Hình thức tổ chức bồi dưỡng:
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên thấy được muốn
nâng cao chất lượng phải thay đổi cách dạy đối với giáo viên, cách học đối với
6


học sinh, đặc biệt môn Công nghệ Giáo dục thực hiện theo giáo trình thiết kế
sẵn.
- Tổ chức tuyên truyền và tập huấn về dạy học Tiếng Việt 1- Công nghệ
giáo dục tới toàn thể cán bộ, giáo viên trong trường về: Bản chất của Công nghệ
Giáo dục, tính ưu việt của chương trình,…Tổ chức chuyên đề tổng quan chương
trình Tiếng việt 1 - Công nghệ Giáo dục và một số thao tác cơ bản khi dạy Tiếng

Việt 1 - Công nghệ giáo dục. Từ đó 100% giáo viên trong nhà trường đồng tình,
nhất trí cao với nhà trường trong việc lựa chọn dạy Tiếng việt 1 - Công nghệ
giáo dục cùng với 6 trường tham gia chương trình “Đảm bảo chất lượng trường
học (SEQAP)” và 3 trường VNEN làm tư vấn .
- Tổ chức xem băng hình về các tiết dạy ở các dạng bài, tổ chức trao đổi,
thảo luận trong tổ chuyên môn;
- Xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi, giáo viên cốt cán trong tổ.
- Tổ chức cho giáo viên tự học, tự nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa,
sách thiết kế để nắm chắc chương trình, nắm chắc cấu trúc ngữ âm, nắm chắc
quy trình dạy Tiếng việt 1 - Công nghệ Giáo dục.
- Thực hiện nâng cao hiệu quả hoạt động chuyên môn:
Tổ chức các chuyên đề, hội thảo: Ở từng nội dung, bắt đầu mỗi dạng bài
mới, chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức chuyên đề có tiết dạy minh họa để cùng
nhau trao đổi để có sự thống nhất về cách dạy của dạng bài đó trong cả tổ; như:
Chuyên đề dạy phần “âm- chữ”; phần “Vần”; phần “Luyện tập tổng hợp” và
chuyên đề về dạy luật chính tả...
Sau mỗi giai đoạn, tổ chức trao đổi, rút kinh nghiệm, chỉ ra những ưu
điểm cần phát huy và những hạn chế để tìm ra giải pháp khắc phục, như: Trong
khi dạy phần “Âm- chữ”, học sinh có ưu điểm viết tốt nhưng đọc bài trong sách
giáo khoa còn hạn chế, do đó nhà trường đã chỉ đạo giáo viên tăng cường nâng
cao hiệu quả của việc 3 (viết bằng chữ in thường lên bảng cho học luyện đọc).
Tổ chức cho giáo viên dạy thực tế, trao đổi, góp ý.
Ban giám hiệu trực tiếp dạy một số tiết trên lớp để nắm bắt chương trình,
tình hình học tập của học sinh để đưa ra các giải pháp kịp thời, sát với thực tế,
thường xuyên nắm bắt tiến độ dạy và học của giáo viên và học sinh.

7


*HộiCông

táchoạtquản
chỉmới,
đạo:
thảo sinh
chuyênlýmôn
khối lớp 1 môn Tiếng Việt - CND năm học 2016 - 2017.
Tổ chức thực hiện theo bốn bước chu trình quản lý như sau:
+ Chương trình - Kế hoạch:
- Thực hiện nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục, của Sở Giáo dục và
Phòng Giáo dục; căn cứ nội dung, chương trình dạy học Tiếng việt 1- Công nghệ
Giáo dục; căn cứ tình hình thực tế nhà trường, tôi đã xây dựng kế hoạch năm
học chi tiết, hoạch định rõ ràng các thời điểm, công việc cần làm. Chỉ đạo tổ
chuyên môn xây dựng kế hoạch thực hiện, đặc biệt chú ý chỉ đạo giáo viên thực
hiện tốt các nội dung ở 2 tuần đầu hay còn gọi là tuần 0, đây là tuần hết sức quan
trọng đối với học sinh lớp 1, hướng dẫn cho học sinh làm quen với môi trường
học tập, làm quen với một số thao tác, kĩ năng cơ bản,..
Thực hiện Công văn số 333/PGD&ĐT- GDTH ngày 21/9/2016 của Phòng
GD&ĐT Thường Xuân về việc hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn trường
và cụm trường Công nghệ giáo dục năm học 2016-2017;
Nhà trường đã lập kế hoạch số: 01/CS3- KHCM - CNGD ngày 27 tháng 9
năm 2016 về việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn cụm số 3 – CNGD. Tình hình
thực tế thực hiện kế hoạch tháng 12 năm học 2016-2017 của các đơn vị trong
cụm và sự đồng ý nhất trí phê duyệt của Phòng GD&ĐT Thường Xuân .
Cụm số 3 - SHCM - CNGD: TH Xuân Thắng, TH Tân Thành 1 và TH Thị
Trấn – Thường Xuân (đơn vị tư vấn, đơn vị đã có nhiều năm dạy Tiếng Việt lớp
1 – Công nghệ giáo dục) xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn cụm trường
tập trung vào tháng 12/2016, lần 1 tại Trường TH Thị Trấn là đơn vị tư vấn Nhà
trường tổ chức cho tất cả cán bộ quản lý; Tổ khối trưởng chuyên môn, giáo viên
khối 1 đã chọn và giáo viên nữ dự kiến sẽ dạy những năm tiếp theo tham dự đạt
kết quả tốt.


8


+ Công tác tổHội
chức:
nghị xây dựng kế hoạch đầu năm, năm học 2016 - 2017.
- Ra Quyết định thành lập Ban chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt công nghệ giáo dục gồm: Ban giám hiệu, Tổ khối chuyên môn.
- Ra Quyết định thành lập đoàn công tác tham dự sinh hoạt chuyên môn
cụm trường công nghệ giáo dục theo kế hoạch 4 đợt/ năm học gồm: Ban giám
hiệu, Tổ khối chuyên môn, Giáo viên cốt cán, và giáo viên chuẩn bị dạy lớp 1
các năm tiếp theo.
- Tổ chức thông qua kế hoạch, lịch trình công tác tới tổ chuyên môn, các
thành viên trong tổ chuyên môn đóng góp ý kiến, bàn các biện pháp thực hiện.
- Hướng dẫn tổ nhóm chuyên môn, giáo viên kịp thời bổ sung và điều
chỉnh những thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế.
* Đối với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường.
- Với vai trò Bí thư chi bộ tôi luôn cùng với các Đ/C trong Chi ủy, Chi bộ
nhà trường đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, tuyệt đối các hoạt động của nhà
trường thông qua các kế hoạch, Nghị quyết Chi bộ. Nội dung kế hoạch thiết
thực, phù hợp với thực tế, có tính khả thi, luôn được kiểm tra, đôn đốc, điều
chỉnh kịp thời. Các cuộc họp đảm bảo có chất lượng, cán bộ, đảng viên luôn nêu
cao tinh thần trách nhiệm.
* Phát động phong trào thi đua trong nhà trường.
Tổ chức thi đua trong nhà trường là làm cho mọi người có thời cơ thể hiện
mình, làm tăng sự say mê công tác
- Thi đua phải lấy việc nâng cao chất lượng giáo dục làm trung tâm.
- Phải xây dựng tiêu chí thi đua cụ thể, phù hợp với công việc từng cá
nhân, phù hợp với tình hình thực tế nhà trường.

- Thực hiện bình xét thi đua phải đảm bảo công bằng, dân chủ, khách
quan, đúng các văn bản hướng dẫn, đúng quy trình.
9


- Phải có tổng kết, động viên, khen chê kịp thời.
+ Công tác chỉ đạo:
- Nắm bắt tâm tư nguyện vọng của từng cá nhân giáo viên, phân công
đúng sở trường, để tham dự sinh hoạt chuyên môn cụm.
- Giao nhiệm vụ cho mỗi giáo viên nghiên cứu kĩ về chương trình, tài liệu
Tiếng việt 1 - Công nghệ Giáo dục của Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, tôi đã tổ
chức tuyên truyền cho cán bộ, giáo viên hiểu rõ về Tiếng việt 1 - Công nghệ
Giáo dục.
- Chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên lớp 1 nghiên cứu kĩ sách giáo khoa,
từng bài dạy trong sách thiết kế và thực hiện giảng dạy tuân thủ theo đúng sách
thiết kế.
* Công tác kiểm tra:
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch để phát hiện kịp thời những vấn đề cần
uốn nắn, cần bổ sung.
- Cùng với tổ khối chuyên môn khối 1 sắp xếp thời gian, tổ chức khảo sát
chất lượng học sinh của các lớp, cùng giáo viên phân loại từng đối tượng học
sinh, chỉ đạo giáo viên có kế hoạch cụ thể bồi dưỡng học sinh, đặc biệt là những
học sinh chưa đạt chuẩn và đạt chuẩn chưa vững chắc.
- Trực tiếp BGH xuống thực tế các lớp có các đối tượng học sinh đó kèm
cặp, bồi dưỡng cùng giáo viên chủ nhiệm để nâng cao chất lượng học sinh đại
trà.
- Tổ chức tốt công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ, giáo viên, học sinh một
cách chính xác, công bằng. Sau mỗi lần kiểm tra đều chỉ ra được những mặt
mạnh, những ưu điểm cần phát huy và có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời
những nội dung giáo viên, học sinh thực hiện chưa tốt.

- Tăng cường kiểm tra: Kiểm tra theo kế hoạch, kiểm tra đột xuất bằng
nhiều hình thức, đặc biệt là đối với giáo viên dạy Tiếng việt 1 - Công nghệ Giáo
dục, tôi luôn dành nhiều thời gian để kiểm tra, kiểm tra 100% số giáo viên, mỗi
giáo viên kiểm tra nhiều lần, kiểm tra nhiều nội dung:
+ Việc nghiên cứu sách thiết kế trước khi lên lớp.
+ Việc dạy trên lớp.
+ Việc rèn kĩ năng cho học sinh.
+ Việc thực hiện Thông tư 22.
+ Kiểm tra chất lượng, hiệu quả giảng dạy của giáo viên qua từng dạng
bài để có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung kịp thời.
- Nguồn lực kinh phí và cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học:
Việc đầu tư kinh phí cho công tác bồi dưỡng chuyên môn được chú trọng
đặt lên hàng đầu, sẵn sàng chi kinh phí cho các hoạt động tập huấn, tổ chức sinh
hoạt chuyên môn nâng cao chất lượng giáo dục.
Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học là điều kiện quan trọng không
thể thiếu được trong việc giảng dạy nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường.
10


- Từ năm học 2015 - 2016, nhà trường đặc biệt ưu tiên kinh phí cho khối
lớp 1, như: Đóng mới 30 bộ bàn ghế, và được chương trình Đảm bảo chất lượng
trường học hỗ trợ 20 bộ bàn ghế học sinh trang trí lớp học theo mô hình trường
học mới, tủ để cặp cho học sinh và đảm bảo đầy đủ các trang thiết bị khắc phục
vụ cho các hoạt động giáo dục.
- Tạo cảnh quan môi trường xanh- sạch- đẹp, thân thiện, tạo hứng thú cho
học sinh học tập.
- Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho phụ huynh học sinh về
dạy học Tiếng việt 1- Công nghệ Giáo dục.
- Tổ chức họp phụ huynh học sinh ngay tuần cuối của tháng 5 năm học

2014 - 2015 nhà trường đã tổ chức họp riêng các bậc phụ huynh của học sinh
lớp 1 năm học 2015- 2016, cũng như năm học 2016 - 2017, triển khai tới phụ
huynh một số nội dung sau:
+ Trao đổi về chương trình, bản chất của Công nghệ Giáo dục là gì, tính
ưu việt của chương trình này .
+ Chương trình này đã áp dụng thành công ở trường nào.
+ Tuyên truyền để cha mẹ học sinh phối kết hợp cùng nhà trường chuẩn
bị mọi điều kiện cho học sinh về: Sách vở, đồ dùng học tập cho năm học mới,
hướng dẫn phụ huynh lựa chọn sách, tài liệu tham khảo phục vụ cho các môn
học.
+ Tuyên truyền để phụ huynh yên tâm, không cho con em học trước
chương trình, vì chương trình Công nghệ có 2 tuần 0 để các em làm quen với
môi trường, nề nếp học tập,…
- Bắt đầu học kỳ 1 từ tuần học đầu tiên của phần âm- chữ, nhà trường đã
chỉ đạo từng giáo viên chủ nhiệm lớp dạy mẫu một buổi học gồm cả 4 việc và
mời phụ huynh cùng dự để nắm bắt phương pháp, cách dạy, các thao tác, quy
trình, từ đó cùng phối kết hợp với thầy cô trong việc giúp các em học tập tại nhà.
- Giữa học kì I (tuần 9) tiếp tục chỉ đạo giáo viên dạy 1 bài về “Luật chính
tả”; dạy 1 bài phần “Vần” cho phụ huynh cùng dự để phụ huynh phần nào hiểu
thêm về luật chính tả, cách dạy vần để kèm cặp các em hỗ trợ giáo viên trong
việc dạy học sinh.
- Cuối học kì I năm học 2015-2016, tổ chức họp phụ huynh theo lớp, chỉ
đạo giáo viên chủ nhiệm lớp trao đổi kết quả học tập, gửi bài kiểm tra định kì,
học bạ tới phụ huynh. để nắm bắt tình hình học tập của con em mình, thấy được
những ưu điểm, những hạn chế để cùng giáo viên chủ nhiệm có hướng khắc
phục để chuẩn bị tốt cho học kỳ 2.
- Đến học kỳ 2 chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp 1 tiếp tục dạy một bài
phần “Luyện tập tổng hợp” để phụ huynh dự nắm bắt cách dạy, để tạo điều kiện
giúp đỡ được một phần nào cho giáo viên, và học sinh.
* Chỉ đạo điểm nội dung rèn kĩ năng đọc đúng:

Để làm rõ hơn công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng
việt 1 công nghệ giáo dục. Bản thân xin được chia sẻ một số kinh nghiệm cho
một nội dung cụ thể “rèn kĩ năng đọc đúng”.
11


Nhiệm vụ đặt ra là: Muốn cho học sinh đọc đúng, trước hết và chủ yếu
phải có sự dạy dỗ công phu của giáo viên kèm theo một phương pháp khoa học
và kinh nghiệm đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên sâu sát của
các bậc phụ huynh và sự nỗ lực, kiên trì của mỗi học sinh.
- Thứ nhất: Nói về việc đọc mẫu của giáo viên.
Yêu cầu giáo viên phải phát âm chuẩn để các em phát âm
theo vì các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là hình mẫu, là
chuẩn mực. Ở lứa tuổi này, các em hay bắt chước, hay làm
theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Giáo
viên cần phải phát âm rõ ràng và chính xác thật chậm từ 2 - 3 lần . Vì vậy giáo
viên cố gắng cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác thì việc
học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục.
Vậy nên, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không phù
hợp, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm
chán và không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp
này khi thấy thật cần thiết, đó là khi trong lớp có học sinh học
tập tốt, đọc được thì có thể khuyến khích các em đọc mẫu để
các bạn trong lớp làm theo, nếu không giáo viên có thể sử dụng
phương pháp đọc mẫu.
Khi đó, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả
kĩ năng nghe và nhìn (Nghe tiếng phát âm và quan sát môi,
miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ
dàng hơn. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là

phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm
hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ
nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không
đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo
dục việc quan sát môi cô khi phát âm âm mới là quan trọng.

12


Giáo viên hướng dẫn và đọc cho học sinh viết chính tả.

- Thứ hai: Hướng dẫn học sinh phát âm
Lứa tuổi của học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt chước”, giáo viên phát
âm như thế nào thì học sinh phát âm như thế đó; đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh
lớp 1.
Muốn trò phát âm đúng thì thầy, cô phải có những hiểu biết, kinh nghiệm
và cả kĩ năng hướng dẫn phát âm tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng
lời nói rõ ràng, mạch lạc để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng.
Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích
cụ thể cách phát âm (môi - răng - lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi…).
Chương trình môn Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục gồm có năm mẫu.
Bao gồm 3 tập: Tập một, tập hai, tập ba. Vậy, để giúp học sinh đọc đúng, đọc
các bài một cách thành thạo thì đòi hỏi người giáo viên phải nắm chắc cách đọc
để có thể hướng dẫn học sinh của mình.

13


Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc


* Phần học các nét cơ bản:
Ở những tiết học đầu tiên, giáo viên luôn tạo cơ hội để các em làm quen
với các với môi trường học tập: thầy cô, bạn bè, trường lớp, đồ dùng học tập,
làm quen với một số kí hiệu, biết nhận nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ một
cách nhanh nhẹn … Trong tuần này, học sinh cũng được học với các nét cơ bản.
Bởi vậy, giáo viên nên học thuộc và gọi đúng tên các nét cơ bản. Để cho học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này giáo viên phân theo cấu tạo các nét có
tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và
so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả
những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
+ Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
- Nét sổ thẳng: ( ), nét ngang:
- Nét xiên: gồm có ( \ ) nét xiên phải, ( / ) nét xiên trái.
- Nét móc: gồm nét móc xuôi (móc trái), nét móc ngược (móc phải), nét
móc hai đầu.
- Nét cong: gồm có nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong kín.
- Nét khuyết: gồm nét khuyết trên, nét khuyết dưới
- Nét thắt; nét xoắn.

14


Sản phẩm học sinh tập viết.

* Phần học bài Tiếng:
Tiếng là đối tượng lĩnh hội của môn Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục.
Giúp các em biết Tiếng gồm 2 phần (phần âm đầu và phần vần). Đầu tiên, các
em biết đánh vần theo cơ chế hai bước, bước 1: Đánh vần tiếng thanh ngang,
bước hai: Thêm các thanh vào tiếng thanh ngang, biết dùng thao tác và đọc theo
4 mức độ là: To - nhỏ - nhẩm - thầm; biết vẽ mô hình 2 phần của tiếng, đưa tiếng

vào mô hình; biết phân biệt nguyên âm và phụ âm; biết tạo ra các tiếng mới
bằng cách thay phụ âm đầu hoặc các dấu thanh trong Tiếng Việt; biết nghe đọc
và viết đúng, đẹp các tiếng đã học. Giáo viên luôn yêu cầu các em đọc to, rõ
ràng, thực hiện một cách dứt khoát. Ở đây, giáo viên cho các em thực hiện nhiều
lần cho quen trước khi sang bài hai.
* Phần học âm:
Sau khi cho học sinh được học các nét cơ bản và phần bài Tiếng thật chắc
chắn thì tiếp theo các em được học phần học các chữ cái.
Phần học các âm là phần học vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc
từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần,
thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu, thành đoạn
văn.
Lúc này, giáo viên dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong
từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết - kiểu
in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thì phân tích cho học sinh
15


hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in
trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
Ví dụ: Âm /a/, /g/
- Âm /a/ gồm có 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên
phải. Chữ a viết thường cũng có 2 nét: Nét cong kín bên trái và nét móc ngược
bên phải. Âm /g/ gồm có 2 nét: Nét cong kín và nét cong phải, đọc là /gờ/.
Chữ ( g) viết thường cũng gồm có 2 nét: Nét cong kín và nét khuyết dưới.
Từ việc học kĩ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kĩ và tỉ mỉ như
trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của 4 âm
sau:
- Âm /d/ gồm có 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên
phải, đọc là /dờ/. Chữ d viết thường cũng có 2 nét: Nét cong kín và nét móc

ngược bên phải nhưng nét móc ngược này có độ cao bốn ô li.
- Âm /b/ gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên
trái, đọc là: /bờ/. Chữ b viết thường có một nét khuyết trên và một nét xoắn.
Vì trong sách giáo khoa tập một có cả phần chữ in thường và chữ viết
thường nên cần hướng dẫn để học sinh dễ nhận biết và dễ đọc.
Ví dụ: Đối với một số âm có cách đọc khác với cách đọc ở mầm non, đó
là âm /c/ có ba âm gồm âm /k/, âm /c/ và âm /q/. Âm /gi/ theo cách đọc cũ là /di/
nhưng thay đổi cách đọc là /giờ/.
Khi học sinh phát âm nhầm lẫn giữa âm /s/ và âm /x/
- Âm /s/: lưỡi uốn hơi cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát nhẹ,
dứt khoát.
- Âm /x/: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra giữa hai hàm
răng, sau đó mở miệng cho hơi thoát ra, luồng hơi không thể
kéo dài được. Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo
viên phát âm nhiều lần để các em theo dõi hoặc có thể yêu cầu
học sinh phát âm chuẩn làm trước để học sinh khác phát âm
theo.
Sang phần âm ghép (chữ có hai âm ghép lại với nhau), đa số học sinh
chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các bài ôn
tập giáo viên luôn cho học sinh đọc, ghép, viết nhiều giúp các em ghi nhớ tên
âm.
- Các âm ghép: ch/c, nh/n, th/t, kh/k, gh/g, ph/p, ngh/ng
- Còn lại các âm: gi, tr, qu, ng giáo viên cho học kĩ về cấu tạo.
- Phân từng cặp: ch/tr, ng /ngh, c/k, g/gh để học sinh phát âm chính xác
và viết đúng chính tả.
Trong từng tiết học, từng bài ôn giáo viên luôn tìm đủ cách để kiểm tra
phát hiện sự tiến bộ của các em thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ…
từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh.
Trong 9 tuần đầu học sinh học hết phần âm, từ các âm các em ghép thành
tiếng và mỗi tiếng như vậy có hai thành phần: Phần đầu và phần vần.

Giáo viên cho học sinh nắm chắc các âm đó.
16


Sau hai tháng giảng dạy cuối tháng 10, yêu cầu giáo viên tiến hành khảo
sát đọc ở lớp. Xem xét kĩ để phân loại kĩ năng đọc của học sinh theo các mức độ
khác nhau, cụ thể chọn lớp 1B do đ/c: Lang Thị Kiên phụ trách .
Học sinh đọc còn
Học sinh
Sĩ Học sinh có khả
TGKS
nhầm lẫn một số
đọc còn
số
năng đọc tốt
âm, tiếng
yếu kém
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Cuối tháng
25
10
12
48%
10
40%

3
12%
Trong khoảng thời gian này, ngoài hướng dẫn các em đọc các
âm, tiếng trên bảng giáo viên còn cho các em đọc bài trong
Sách giáo khoa, tổ chức luyện đọc cho những học sinh đọc sai ở
các tiết ôn luyện buổi chiều hoặc cuối buổi chiều giành lại
khoảng 15 phút để hướng dẫn các em đó đọc lại.
*Phần học vần:
Sang phần học vần học sinh đã nắm vững các âm nên các em có thể dễ
ghép và đọc các vần hơn. Bên cạnh đó, các em còn được làm quen với các kiểu
chữ hoa: Chữ viết hoa, chữ in hoa nên giáo viên tập cho học sinh nhận biết các
kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp học sinh học tốt phần vần, giáo viên tập cho học sinh thói quen:
Nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các
em học vững.
Ví dụ: Đọc vần uê: Cho học sinh phát âm vần uê.
Nhận diện về cấu tạo vần uê : Vần uê gồm 2 âm: âm đệm /u/ đứng trước
và âm chính /ê/ đứng sau.
Vẽ mô hình và đọc phân tích vần uê trên mô hình.
Đánh vần vần uê: Hướng dẫn học sinh: âm u đứng trước, ta đọc u trước,
âm ê đứng sau ta đọc ê sau: uê
u – ê – uê. Đọc trơn vần: uê
Nếu các em đã nhận diện và vẽ mô hình đúng giáo viên hướng dẫn cách
đánh vần và đọc trơn vần.
Với cách dạy phát âm, nhận diện và đọc phân tích của học sinh như thế,
nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học chúng ta sẽ tạo cho các em kĩ
năng phân tích, nhận diện dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và
thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần,
sách giáo khoa Tiếng Việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu
thơ, giải đố, các bài văn để học sinh luyện đọc. Tổ chức cho các em tìm các

tiếng mới bằng cách thêm âm đầu vào phần đầu hoặc thêm các dấu thanh vào để
được các tiếng mới thông qua một số trò chơi như: Trò chơi “Gọi thuyền”, trò
chơi “Bắn tên”…Nhằm giúp các em biết đọc, phân tích và nắm chắc các tiếng
mới đó.
Ví dụ: Vần ac
- HS phát âm vần ac, mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong
chân lưỡi.
17


- Học sinh phân tích vần ac: /ac/
/a/ - /cờ/ - /ac/. Nhận diện vần ac có
hai âm đó là âm /a/ và âm /c/. Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích nhiều lần.
- Vần at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi
ra trên mặt lưỡi.
- Vần oan: Đây là vần có đủ âm đệm, âm chính, âm cuối.
Trong vần này có vần an, muốn làm tròn môi vần an ta thêm âm
đệm o vào trước vần an. Lúc này, ta có vần oan. Vần oan được
đánh vần như sau: /oan/
/o/ - /an/ - /oan/.
Muốn đánh vần chữ loạn, trước hết phải đánh vần được chữ loan, rồi sau
đó thêm vào dấu nặng (/loan/ - /nặng/ - /loạn/). Cách làm này huấn luyện học
sinh tư duy theo lôgic nội tại của sự vật.
-Vần có nguyên âm đôi: Trong Tiếng Việt có ba nguyên âm đôi (/iê/, /uô/,
/ươ/.
Ví dụ: Vần /iên/ là vần có âm cuối. Vần /iên/ được đánh vần /ia/ - /nờ/ /iên/. Nếu vần không có âm cuối thì vẫn đọc là /ia/ và viết là /ia/, ví dụ: mía(
/mia/ - /sắc/ - /mía/, tia( /tờ/ - /ia/ - /tia/, hay vần /uya/(/u/ - /ia/ - /uya/)…
Ví dụ: Học sinh phát âm sai lẫn dấu thanh (gặp ở những
học sinh có hệ thống bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo
viên cần hướng dẫn thật tỉ mỉ.

- Những tiếng có thanh hỏi/thanh ngã: dã quỳ - dả quỳ, thủ
quỹ - thủ quỷ, hủy bỏ - hủy bõ...)
- Tiếng có thanh hỏi: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh
phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm
theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
- Tiếng có thanh ngã: Phát âm nhấn mạnh giọng, dứt
khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật
đầu. Những tiếng có thanh ngã đọc
nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng.
Giáo viên phát hiện thấy học sinh đọc sai hoặc đọc chưa
được phần nào thì phải sửa chữa, uốn nắn kịp thời, bằng cách
yêu cầu các em nhận diện các
âm có trong vần và yêu cầu các em đánh vần lại.

18


Học sinh tập phát âm

* Học sinh thực hành đọc:
Trước đây, trong phần luyện đọc một số giáo viên vẫn còn giảng giải
nhiều, thời gian luyện của học sinh còn ít... Hiện nay, dạy học theo phương pháp
mới - phương pháp Công nghệ Giáo dục thì giờ đọc của học sinh cần được thực
hành nhiều hơn, thầy làm mẫu một lần, nhưng học sinh nhắc lại nhiều lần, làm
đi làm lại nhiều lần, tự rút kinh nghiệm cho bản thân, từ đó rèn kĩ năng đọc
đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm cho các em.
+ Sử dụng các hình thức tập luyện sau:
Các em ngồi theo nhóm 4, ngoài các em quan sát, theo dõi giáo viên đọc
mẫu thì khi đọc học sinh trong nhóm có thể giúp nhau phát hiện lỗi sai của bạn
để hướng dẫn bạn cùng đọc cùng sửa lỗi.

+ Học sinh đọc chữ trên bảng lớp:
Gọi cá nhân đọc các chữ trên bảng lớp, tìm các từ khó có trong bài Tập
đọc ghi lên bảng yêu cầu học sinh đọc lại. Cách làm này rất tốt và giáo viên có
thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinh tự sửa lỗi sai của mình.
Học sinh luyện đọc từ khó trước khi đọc bài Tập đọc. Khi đọc có thể gọi
những học sinh có năng lực đọc trước và yêu cầu các em học sinh yếu lắng nghe
và nhẩm thầm theo. Sau đó giáo viên gọi các em học sinh yếu đọc, nếu các em
vẫn chưa đọc được thì yêu cầu các em phân tích từng chữ để rồi đánh vần và
đọc.
Đối với những em đọc yếu, đọc chưa đúng và còn nhầm lẫn các âm giáo
viên phân các em ngồi theo một nhóm để dễ dàng hơn khi giúp các em đọc, sau
một thời gian luyện đọc những em nào tiến bộ giáo viên phân ngồi vào nhóm có
em đọc tốt nhằm trong nhóm giúp đỡ bạn đọc đúng để các em tiến bộ hơn.
* Hướng dẫn luyện đọc trong sách giáo khoa:
19


Chương trình Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục được hiện nay được thực
hiện theo quy trình 4 việc. Ở tiết dùng mẫu và tiết lập mẫu (tập 1, 2) thì phần
luyện đọc được thực hiện ở việc 3, còn ở tiết luyện tập tổng hợp (tập ba) thì
phần luyện đọc được thực hiện ở việc 2.
Giai đoạn học âm từ tuần 1 đến tuần 9 cần dạy thật chu đáo và cẩn thận
để giúp các em ghi nhớ các âm. Nếu các em không nhớ hết các âm thì sẽ không
đọc các tiếng, các từ, các câu được. Khi sang học phần học vần và phần luyện
tập tổng hợp thì yêu cầu học sinh luyện đọc nhiều để kĩ năng đọc được tốt hơn.
Trong khi học sinh đọc phải theo dõi, uốn nắn những em đọc yếu, tốc độ đọc
còn chậm. Đối với những em đọc yếu chỉ yêu cầu đọc từng tiếng và từng câu,
những em đọc tốt khuyến khích các em đọc tốc độ nhanh hơn.
* Trong tất cả quá trình đọc giáo viên chú ý nhắc nhở học sinh:
+ Tư thế ngồi đọc:

Ngồi đọc với tư thế lưng thẳng, ngực không tì vào bàn, đầu hơi cúi, mắt
cách sách khoảng 25 - 30cm, hai chân để song song thoải mái.
+ Cách cầm sách:
Khi đọc giáo viên hướng dẫn học sinh giữ sách trên hai tay, tay phải để
dưới sách, các ngón tay giữ vào mép trên quyển sách. Tay trái giữ vào góc dưới
bên trái quyển sách. Nhắc các em giữ quyển sách luôn luôn cân đối.
Giáo viên cần có phương pháp rèn luyện với từng đối tượng học sinh, ở
từng thời điểm khác nhau. Như ở lớp, giáo viên đang dạy có học sinh chưa nhớ
hết các âm, đọc còn nhầm lẫn một số âm ghép. Một số em khác khi thêm dấu
thanh vào các tiếng thường đọc chưa đúng (thanh sắc đọc thành thanh huyền,
thanh ngã đọc thành thanh hỏi).
+ Khuyến khích các em tự phát hiện và nhận xét lẫn
nhau:
Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo
viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa
học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn cho các
em có kĩ năng nghe - nhận xét - sửa sai giúp bạn và tự sửa sai
cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong
các tiết học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt.
Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học
sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện
cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi,
trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện
thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ
nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
+ Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập:
Học sinh Tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Có thể, có
em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc luyện đọc nhưng các em rất thích
được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích

20


đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí
của các em như vậy nên giáo viên luôn động viên, khuyến khích các em; giáo
viên luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh, dù chỉ một tiến bộ nhỏ của
các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập, giáo viên đều khen ngợi kịp
thời.
Qua mỗi bài học, giáo viên thường khen (Ví dụ: “Em đọc có tiến tiến bộ
nhiều, cần phát huy em nhé”, “em đã đọc to, rõ chữ hơn rồi đó, cô khen em”...)
nhằm biểu dương các em. Từ đó, các em rất hứng thú, vui vẻ, không khí lớp học
thoải mái hơn, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà
các em mắc phải. Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà giáo viên còn
khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp
bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn.
Đối với những học sinh có năng lực, đọc bài tốt, giáo viên thường biểu
dương các em trước lớp. Đối với những học sinh đọc còn nhầm lẫn các âm hoặc
đọc sai giáo viên kịp thời sửa, uốn nắn cho các em. Cứ nửa học kì, giáo viên
chọn ra 5 em có tiến bộ nhất để khen thưởng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
với bản thân và đồng nghiệp nhà trường.
Qua một thời gian trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo rèn kĩ năng đọc đúng cho
học sinh lớp 1 qua môn Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục bước đầu đã thu được
những kết quả đáng phấn khởi đó là:
* Đối với giáo viên:
Giáo viên làm việc có tinh thần trách nhiệm hơn. Thực hiện nhiệm vụ chủ
động, tự giác hơn. Hiệu quả công việc được nâng cao hơn. Chất lượng giảng dạy
môn Tiếng Việt 1 theo Công nghệ Giáo dục, đặc biệt là việc rèn kĩ năng đọc
đúng có những chuyển biến khả quan.
- Giáo viên được nâng cao về trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm,

đổi mới phương pháp một cách rõ nét.
- Kết quả xếp loại chuyên môn cuối năm: Toàn trường có 16/23 giáo viên
được đánh giá tay nghề loại tốt.
Giáo viên có nhiều thời gian nghiên cứu hơn khi không phải soạn bài,
tích cực tìm tòi, học hỏi, chủ động trong dạy học Tiếng Việt 1 theo Công nghệ
Giáo dục.
* Đối với học sinh:
+ Chất lượng học môn Tiếng Việt 1 phát triển theo chiều hướng tốt. Tinh
thần học tập của học sinh tốt hơn. Học sinh lớp chỉ đạo điểm có những chuyển
biến rõ rệt về kĩ năng đọc. Các em có giọng đọc to, phát âm chuẩn, đạt được tốc
độ đọc thông.
+ Chương trình Tiếng việt 1- Công nghệ Giáo dục tạo sự chuyển biến tích
cực đối với học sinh nhà trường. Học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản về Tiếng
việt, được hình thành các kĩ năng “ Nghe - nói - đọc - viết” một cách vững chắc,
học sinh được tham gia các hoạt động học tập một cách chủ động, tự tin thông
qua các thao tác học tập.
21


+ Học sinh chủ động tự tìm và chiếm lĩnh tri thức, được phát huy khả
năng tư duy và năng lực tối ưu của mình.
+ Về đọc: Học sinh nắm chắc ngữ âm, nên đọc tốt, đọc to, đọc rõ ràng
hơn trước.
+ Về viết: Học sinh nắm chắc luật chính tả nên viết đúng hơn, viết đẹp
hơn, ít mắc lỗi chính tả hơn trước.
- Về năng lực:
+ Học sinh luôn hứng thú, say mê trong học tập.
+ Có khả năng giao tiếp tốt, mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập.
+ Biết tự phục vụ cho bản thân, biết tự làm lấy việc của mình, biết trao
đổi, hợp tác với bạn một cách tích cực,…

- Về phẩm chất:
+ Học sinh luôn chăm học, chăm làm hơn; tự giác vệ sinh cá nhân, vệ sinh
trường lớp.
+ Học sinh tích cực tham gia các hoạt động của trường, của lớp.
+ Có ý thức vươn lên trong học tập cũng như trong rèn luyện, …
Trong thời gian thử nghiệm, tôi đã chỉ đạo áp dụng đồng bộ các giải pháp
nêu trên và đã nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường; các kết
quả đạt được cụ thể như sau:
* Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài:
- Qua 2 năm thực hiện dạy học Tiếng việt 1- Công nghệ Giáo dục, chất
lượng giáo dục của khối lớp 1 tăng lên rõ rệt, tỷ lệ học sinh Hoàn thành cuối
năm sau cao hơn nhiều so với những năm trước đây, cụ thể như sau:
-Thống kê chất lượng Giáo dục:
Chất lượng giáo dục
Năm
học

Số

T

HS
SL

20152016

72

20162017


78

32

H
TL

41,0

Năng lực

C

T

SL

TL

SL

TL

72

96

3

4


44

56,
4

2

2,5

SL

32

Phẩm chất

Đ
TL

41,
0

C

T

SL

TL


SL

TL

72

96

3

4

44

56,
4

2

2,5

SL

32

Đ
TL

41,
0


C

SL

TL

SL

TL

72

96

3

4

44

56,
4

2

2,5

22



Học sinh đang viết chính tả

Giáo viên đang hướng dẫn học sinh luyện đọc.

23


Sản phẩm của học sinh viết chính tả

Sản phẩm của học sinh viết chính tả

24


Sản phẩm của học sinh viết chính tả

Sản phẩm của học sinh viết chính tả

3. Kết luận, kiến nghị.
- Kết luận:
Trên đây là một số biện pháp trong công tác chỉ đạo thực hiện dạy học
Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục tại nhà trường trong năm học qua. Qua hai
25


×