Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng và đẹp cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.15 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG VÀ ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP 1

Người thực hiện
Chức vụ
Đơn vị công tác
SKKN thuộc môn

: Nguyễn Thị Phương
: Giáo viên
: Trường Tiểu học Lý Tự Trọng
: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2019


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU...................................................................1
Trải qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế,
tôi đã đưa ra một số giải pháp “Rèn chữ viết cho học sinh
lớp 1” với mong muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học
sinh. Từ cách đổi mới phương pháp của thầy góp phần rèn
luyện về tư thế ngồi học, cách cầm bút, để vở và kĩ thuật
viết của trò. Đề tài “Một vài biện pháp rèn kĩ năng viết chữ
đúng và đẹp cho học sinh lớp Một ” là một đề tài rất rộng


cho nên những nghiên cứu mà tôi đưa ra ít nhiều vẫn còn
hạn chế không tránh khỏi những thiếu sót.........................17


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Chữ viết là một trong những phát minh vĩ đại của con người, là công cụ
đắc lực trong việc ghi lại và truyền bá toàn bộ kho tàng tri thức văn hoá của
nhân loại.Giáo dục Tiểu học là nền tảng của giáo dục quốc dân, lớp 1 là nền
móng của bậc Tiểu học. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan
trọng đặc biệt ở bậc Tiểu học. Đối với lớp 1,Tập viết không những có mối quan
hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn
luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà
trường.
Dạy Tập viết là chúng ta đã trao cho các em chìa khoá để mở ra những
cánh cửa tri thức bước vào tương lai. Chữ viết là công cụ để các em vận dụng
suốt đời. Viết đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh giúp học sinh có điều kiện ghi
chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn.Viết xấu tốc độ chậm sẽ
ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Vì vậy dạy học sinh viết đúng, viết
đẹp là rèn luyện cho các em những phẩm chất đạo đức tốt như: tính kỉ luật, tính
cẩn thận, óc thẩm mỹ và sáng tạo. Như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng
nói: “Chữ viết là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết
cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỷ
luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài vở
của mình” .
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, sự bùng nổ của khoa
học Công nghệ thông tin,chữ viết cũng có máy tính làm thay. Vậy việc rèn chữ
có quan trọng không? Từ năm 2001-2002. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết
định về việc tổchức thi viết chữ đẹp hằng năm cho giáo viên và học sinh Tiểu
học. Cho đến nay đã khơi dạy trong học sinh, giáo viên và toàn xã hội về ý thức

cần viết chữ đẹp. Chữ viết đẹp của học sinh là vấn đề được mọi người trong và
ngoài ngành Giáo dục và Đào tạo quan tâm lo lắng. Người xưa đã nói: “Nét chữ
- nết người” là hàm hai ý sau: Thứ nhất, nét chữ thể hiện tính cách con người;
Thứ hai, thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người .
Ngày 14/6/2002 Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành mẫu chữ viết
trong trường Tiểu học theo Quyết định số 31/2002/QĐ-BGD . Đây chính là việc
nhìn nhận tầm quan trọng và ý nghĩa của chữ viết. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao
rèn chữ viết đẹp cho học sinh chính là yêu cầu bức xúc của người giáo viên. Bởi
chữ viết là cần thiết và cấp bách. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, tôi luôn
băn khoăn về vấn đề chữ viết của các em. Làm thế nào để giúp các em viết
đúng, viết đẹp. Các bậc cha mẹ sẽ hạnh phúc và sung sướng biết bao nhiêu khi
nhìn vào trang vở Tập viết của con em mình với những dòng chữ ngay ngắn đều
tăm tắp, đúng và đẹp; những trang vở không bị giây mực, không bị quăn mép.
Chính vì vậy mà tôi quyết định chọn và nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh
nghiệm: “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng và đẹp cho học sinh lớp
Một”.

1


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra các giải pháp, biện pháp cụ thể, thiết thực giúp giáo viên nâng cao
chất lượng dạy học phân môn Tập viết lớp 1,cụ thể là giúp học sinh có kỹ năng
viết chữ đúng và đẹp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp1A trường Tiểu học Lý Trọng
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
2. Phương pháp quan sát .
3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm .

4. Phương pháp điều tra.
5. Phương pháp luyện tập.
6. Phương pháp nêu gương.
2 . NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
* Mục tiêu của giáo dục tiểu học là giúp học sinh hình thành cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản. Hình thành và phát triển những cơ sở nền tảng nhân cách
con người. Bất kì ai cũng phải sử dụng các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết và tính
toán được học ở tiểu học để sống để làm việc. Sản phẩm của Giáo dục Tiểu học
có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi người. Ở tiểu
học chủ yếu là hình thành những kĩ năng cơ bản. Dạy chữ để dạy người. Dạy
người là mục tiêu cơ bản của giáo dục tiểu học. Giáo dục tiểu học là cơ hội tốt
nhất,cơ hội cuối cùng hình thành và giữ gìn bản sắc Việt Nam. Thực hiện tốt
mục tiêu giáo dục tiểu học là đảm bảo sự bền vững lâu dài của đất nước.
* Vị trí và tầm quan trọng của việc rèn chữ viết đúng,viết đẹp cho học
sinh lớp 1:
- Số lượng giờ tập viết: Ở kì 1: 2 tuần có 2 tiết tập viết riêng và một phần
ba thời gian tập và luyện viết trong giờ học vần. Kì 2: 1 tuần /1 tiết và đến tuần
25 có thêm mỗi tuần 2 tiết chính tả.
Hơn nữa lớp 1 là lớp học nền móng của quá trình học ở tiểu học, chính vì
vậy việc rèn chữ viết cho các em viết đúng, viết đẹp là rất quan trọng. “Nét chữ
-nết người” nét chữ là thể hiện tính cách của con người, hơn nữa thông qua việc
rèn chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy phong trào giữ vở sạch,
viết chữ đẹp vừa là mục đích, vừa là phương tiện của quá trình giáo dục toàn
diện nhân cách của học sinh. Có viết được chữ đúng thì học sinh mới có khả
năng học được các môn học khác.
Chữ viết là sáng tạo kỳ diệu của con người. Sự xuất hiện của chữ viết
đánh dấu một giai đoạn phát triển về chất của ngôn ngữ. Chữ viết và dạy chữ
viết được mọi người quan tâm. Việc rèn kỹ năng viết chữ cho học sinh Tiểu học

đã được nhiều thế hệ thầy, cô giáo quan tâm, trăn trở, góp nhiều công sức cải
tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy chữ viết. Dạy Tập viết là dạy
học sinh có những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình
2


dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo các chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái
niệm liên kết nét chữ, hoặc liên kết chữ cái… Từ đó hình thành cho các em
những biểu tượng về hình dáng, đường nét các con chữ, độ rộng, độ cao sự cân
đối, tính thẩm mĩ của chữ viết.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi :
* Nhà trường: Trường Tiểu học Lý Tự Trọng là một trường vốn có bề dày
truyền thống hiếu học. Trường có đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ, năng động, sáng
tạo, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, dám nghĩ dám làm hết lòng tận tuỵ với công
việc, với sự nghiệp “Trăm năm trồng người” mà Đảng và nhà nước giao cho.
Đặc biệt, nhà trường còn nhận được sự chỉ đạo quan tâm sát sao của Đảng
ủy và ủy ban nhân dân phường Đông Sơn, sự ủng hộ của phụ huynh trường có
khuôn viên sạch thoáng mát với đầy đủ về cơ sở vật chất cũng như các trang
thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học .
Nhà trường luôn nằm trong tốp đầu của thành phố về chất lượng dạy học
nói chung và phong trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp”
* Giáo viên: Giáo viên được tham dự tập huấn những chuyên đề về Tập
viết và các cuộc thi “Viết chữ đẹp”, “Triển lãm vở sạch chữ đẹp” hàng năm do
trường và thành phố tổ chức để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và trau dồi kiến
thức. Mỗi giáo viên được trang bị một bộ chữ dạy tập viết do Nhà xuất bản Giáo
dục sản xuất
* Học sinh: Học sinh lớp 1 mới đi học nên các em rất thích đến trường để
học. Đa số các em ngoan, biết nghe lời.
* Phụ huynh: Đa số các phụ huynh có con em học lớp1, là năm đầu cấp

nên đều quan tâm đến việc học tập của con em mình. Các em có đầy đủ sách vở,
đồ dùng học tập theo yêu cầu của giáo viên.
Hơn thế môi trường giao tiếp, phương tiện, thông tin đại chúng thuận lợi
cho việc dạy và học tập viết Tiếng Việt. Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, cụ
thể và phù hợp với đối tượng học sinh.
Tôi thấy đây chính là một môi trường giáo dục hết sức thuận lợi để chúng
ta tiến hành dạy luyện viết chữ đẹp cho học sinh ngay từ năm lớp 1.
2.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu trên tôi thấy rằng trong thực tế quá
trình giảng dạy phân môn Tập viết và việc luyện viết chữ đẹp cho học sinh còn
gặp không ít những khó khăn cụ thể là:
* Về phía học sinh:
- Ngày đầu tiên vào lớp Một các em chưa có những khái niệm về đường
kẻ, dòng kẻ, độ cao, khoảng cách giữa các nét chữ và giữa những chữ cái, chữ
ghi tiếng, cách viết các chữ thường, dấu thanh và chữ số.
- Cách cầm bút chưa đúng
- Tư thế ngồi viết chưa đúng
- Kỹ thuật viết con chữ và chữ chưa đúng
- Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu các chữ cái để
ghi âm, vần, tiếng, không đúng cỡ chữ (độ cao, độ rộng) ghi dấu thanh không
đúng vị trí.
3


- Các em còn quá nhỏ nên chưa có ý thức, hiếu động và thiếu kiên trì,chưa
hứng thú đối với việc rèn chữ. Các em chưa tự giác trong học tập.
- Một số thói quen đã được hình thành ngay từ khi còn ở lứa tuổi mẫu
giáo.
- Một số em học sinh chưa đủ đồ dùng học tập hoặc đồ dùng không đảm
bảo yêu cầu. Có những em viết bút kim, bút mực chảy không đều, có những em

ngòi bút mực bị gai. Bảng con, phấn viết không đảm bảo.
- Trong giờ tập viết GV chưa hướng dẫn một cách cơ bản, tỉ mỉ về việc
viết đúng mẫu, chữ viết chưa đúng quy trình từ nét đầu tiên đến khi kết thúc một
con chữ.
Từ những khó khăn, hạn chế nêu trên làm cho chất lượng dạy phân môn
Tập viết ở các trường hiện nay chưa cao. Đó là một thực tế mà những người giáo
viên trực tiếp giảng dạy rất băn khoăn, lo lắng. Vậy làm thế nào để nâng cao
chất lượng dạy phân môn Tập viết và nâng cao chất lượng chữ viết của học
sinh? (nghĩa là giúp học sinh viết đúng, viết đẹp). Tôi đã dựa vào những nguyên
nhân đó để tìm ra “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng và đẹp cho học sinh
lớp 1”.
2.2.4. Khảo sát thực trạng
Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh lớp 1A từ đó
lấy căn cứ để làm cơ sở kiểm chứng sau này.
- Cụ thể qua khảo sát chất lượng chữ viết ban đầu là:
Loại A
Loại B
Loại C
Thời điểm
Sỉ số
đánh giá
Lớp 1A
SL
%
SL
%
SL
%
Tháng 10
41

15
31,5
18
43,9
8
14,6
Qua quan sát học sinh khi viết và qua chất lượng bài viết của các em, tôi
nhận thấy học sinh thường mắc các lỗi sau:
Chữ viết chưa đúng cỡ, chưa đúng độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm
dừng bút chưa đúng. Viết chưa liền mạch, nối chữ chưa đúng quy định vị trí dấu
thanh, dấu phụ đặt chưa đúng. Nhiều em viết dấu quá to hoặc quá bé, dấu đặt xa
chữ, có em dấu chạm vào chữ, dấu không đúng chữ ghi âm chính…..
Từ đó, tôi thấy mạnh dạn đưa ra một số giải pháp thiết thực để nâng cao
chất lượng dạy phân môn Tập viết cho học sinh lớp 1,cụ thể là :
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giáo viên cần nắm chắc kiến thức, viết tốt mẫu chữ quy định để
dạy học sinh.
Việc nắm chắc các mẫu chữ hiện hành theo chuẩn của Bộ Giáo dục và
Đào tạo và việc viết tốt mẫu chữ quy định là một yêu cầu cần thiết không thể
thiếu được đối với người giáo viên Tiểu học. Đây chính là một tiêu chí mà mọi
giáo viên phải đặt ra và thực hiện. Có nắm chắc các mẫu chữ thì giáo viên mới
viết đúng và đẹp theo chuẩn được từ đó mới hướng được dẫn học sinh viết đúng
và đẹp. Chữ mẫu của giáo viên được coi như “khuôn vàng, thước ngọc”, chuẩn
mực để học sinh noi theo. Lứa tuổi của các em là lứa tuổi hay “bắt chước” và
làm theo mẫu. Giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế. Đặc biệt là
học sinh lớp 1. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang
4


viết mẫu mực của mình để học sinh học tập. Do vậy tôi thường xuyên phải tự

luyện chữ sao cho đúng và đẹp. Mỗi năm học tôi đều có vở tập viết của mình
viết sẵn, vừa để luyện chữ vừa thuận tiện cho việc hướng dẫn và làm mẫu cho
học sinh tập viết. Tôi còn sưu tầm những bài viết, vở viết sạch đẹp của học sinh
những năm học trước để giới thiệu cho học sinh học tập.
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp
học sinh nắm bắt được quy trình từng nét của chữ cái. Do vậy khi viết mẫu cho
học sinh tôi viết chậm lại đủ để cho học sinh quan sát, vừa viết vừa kết hợp nhịp
nhàng với giảng giải, phân tích: Đặt bút từ điểm nào, rê bút như thế nào, đưa bút
vào vị trí nào, thứ tự các nét viết ra sao, dừng bút ở điểm nào? Tôi phân tích cả
cách viết dấu phụ, dấu thanh để học sinh dễ dàng nhận biết được cách viết. Tôi
hướng dẫn cả về khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng (bằng một con chữ o) để
học sinh không viết sát quá hoặc cách xa quá. Đồng thời tư thế đứng viết của
giáo viên cũng phải hợp lý để học sinh quan sát được tay của cô khi viết và theo
dõi được cả quy trình viết chữ. Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp lời nói của
giáo viên phải nhẹ nhàng, gần gũi, chuẩn mực và dễ hiểu, tránh dùng các khái
niệm khó hiểu hoặc cách nói mơ hồ không rõ ràng, nên dùng đúng các thuật ngữ
cách gọi khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi
tiếng, chữ ghi từ... Hướng dẫn tỉ mỉ cách viết từng con chữ, nét nối chính xác
theo đúng quy định cho học sinh. Không nên nói nôm, nói ngọng, nói lộn xộn
hoặc nói quá nhiều gây căng thẳng khó hiểu cho học sinh. Sau đây là mẫu chữ
cái viết thường trong trường Tiểu học mà tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu:
* Mẫu chữ cái viết thường cỡ vừa:
- Các chữ cái được viết với độ cao 5 đơn vị: b, l, h, k, g, y.
- Các chữ cái được viết với độ cao 4 đơn vị: d, đ, q, p.
- Các chữ cái được viết với độ cao 3 đơn vị: t.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị: r, s.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị: o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e,ê,
n, m.
* Mẫu chữ cái viết thường cỡ nhỏ:
- Các chữ cái được viết với độ cao 1 đơn vị: o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e,

ê,n, m.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị: b, l, h, k, g, y.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị: d, đ, q, p.
- Các chữ cái được viết với độ cao 1,5 đơn vị: t.
- Các chữ cái được viết với độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
- Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh 0,5 đơn vị.
* Mẫu chữ cái viết hoa cỡ vừa:
- Các chữ cái được viết với độ cao 5 đơn vị, riêng hai chữ cái được viết
với độ cao 8 đơn vị là: Y, G.
* Mẫu chữ cái viết hoa cỡ nhỏ:
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị, riêng hai chữ cái được viết
với độ cao 4 đơn vị là: Y, G.
* Mẫu chữ số: Chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị.
5


2.3.2. Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất, thiết bị dạy - học:
Việc chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và các thiết bị dạy học học của nhà
trường, giáo viên và học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học ở
Tiểu học. Đó chính là điều kiện dẫn tới sự thành công của việc dạy - học ở bất
cứ môn học nào đặc biệt nhất là phân môn dạy Tập viết trong trường tiểu học.
a. Ánh sáng phòng học: Phòng học phải đủ ánh sáng cho mọi học sinh
ngồi học theo quy định của vệ sinh học đường.
- Mỗi phòng cần có 4 bóng đèn tuýp 1,2m.
b. Bảng lớp: Bảng lớp được treo ở độ cao vừa phải ngang tầm với đầu học
sinh ngồi học, kích thước 1,2m x 2,9m. Chất lượng bảng chống loá, trên bảng có
dòng kẻ phù hợp, bên phải là dòng kẻ ô li nhỏ giống như trong vở Tập viết của
học sinh để giáo viên viết mẫu và hướng dẫn viết vở. Bảng lớp phải luôn luôn
được xoá sạch bằng khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải.
c. Bàn ghế học sinh: Bàn ghế học sinh: Đầy đủ về số lượng và đảm bảo

về chất lượng, trung bình 2 học sinh/1 bàn. Tránh tình trạng học sinh ngồi chật
chội sẽ khó viết. Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung bình của học
sinh lớp 1.
d. Bảng con, phấn, giẻ lau: Yêu cầu học sinh dùng bảng Mic hai mặt có
dòng kẻ ô li giống trong vở Tập viết của các em. Phấn Mic hoặc phấn Thiên
Long trắng có chất liệu tốt, không dùng phấn cứng quá hoặc kém chất lượng.
Giẻ lau phải mềm, sợi bông thấm nước, giữ độ ẩm vừa phải, có thể gấp nhiều
lần, độ dày thích hợp và luôn sạch. Bảng con, giẻ lau đảm bảo đủ cho từng học
sinh mỗi em một cái, học sinh phải có hộp đựng phấn.
e. Vở tập viết và bút: Vở Tập viết phải do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành
hàng năm. Giấy viết phải đảm bảo không bị thấm mực, dòng kẻ phải ngay ngắn,
chữ mẫu phải đúng chuẩn, ngòi bút chì phải gọn nét, bút mực phải trơn không
gai, nét viết không quá thanh hoặc quá đậm, mực xuống đều, dễ viết. Vở viết
luôn đủ dùng cho từng học sinh ở mỗi giai đoạn như: Ở học kỳ I các em có vở
Tập viết Tập một, sang học kì II có vở Tập viết tập hai. Vở luyện viết đúng viết
đẹp .
Ngoài ra tôi thường xuyên phối hợp với phụ huynh học sinh của lớp để
giúp đỡ các em. Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã bàn bạc, thống nhất
về sự chuẩn bị và cách dạy các cháu ở nhà. Tôi đề nghị cha mẹ học sinh chuẩn
bị cho các em bàn học,góc học tập đủ ánh sáng và chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học
tập cho học sinh như: bảng con, phấn trắng, giẻ lau, bút chì, bút mực, khăn lau…
2.3.3. Sử dụng hiệu quả đồ dùng:
Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong quá trình dạy học. Trong
quá trình dạy học, học sinh nhận thức nội dung bài học dưới sự tổ chức dẫn dắt
của giáo viên có sự hỗ trợ của các đồ dùng dạy học. Tư duy của học sinh lớp 1
chủ yếu từ trực quan cụ thể đến lôgic trừu tượng. Đồ dùng dạy học giúp học sinh
khắc sâu các biểu tượng về chữ viết bằng nhiều con đường: mắt nhìn, tai nghe,
tay viết.Qua đó sẽ chủ động phân tích hình dáng, kích thước, cấu tạo của chữ
mẫu, tìm sự giống nhau và khác nhau giữa chữ cái đang học với chữ cái đã học.
Vì vậy đồ dùng dạy học đưa ra phải đảm bảo tính khoa học, đúng lúc, đúng chỗ,

6


nhịp nhàng và phù hợp với nội dung bài dạy. Tránh lạm dụng đồ dùng dạy học
gây sự nhàm trán cho học sinh.
Đồ dùng dạy - học trong môn dạy Tập viết lớp 1 là: Bảng con, phấn trắng,
giẻ lau, vở Tập viết, vở thực hành luyện viết của học sinh và bảng phụ có kẻ ô li
viết sẵn chữ mẫu của giáo viên, chữ mẫu trong khung chữ của bộ chữ dạy Tập
viết của giáo viên, hoặc chữ mẫu trong các bài giảng điện tử mà giáo viên đã cài
đặt. Việc sử dụng tốt các đồ dùng dạy học giúp học sinh tiếp thu kiến thức một
cách nhẹ nhàng dễ hiểu, giáo viên không phải nói nhiều gây căng thẳng, nhàm
chán trong giờ học.
Để giúp học sinh có kĩ năng, kĩ sảo sử dụng đồ dùng học tập đúng cách
và thành thạo đạt hiệu quả cao trong giờ Tập viết tôi thường hướng dẫn học sinh
thực hiện theo yêu cầu của giáo viên.
a. Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết bảng con:
- Bảng con phải luôn luôn được lau sạch sẽ bằng khăn lau sạch.
- Học sinh viết bảng con: Yêu cầu ngồi viết đúng tư thế, cầm và điều
khiển phấn đúng cách, giơ bảng và xoá bảng theo các lệnh của giáo viên:
Lệnh 1: Giáo viên gõ một tiếng thước yêu cầu học sinh viết chữ ghi âm,
vần hoặc chữ ghi tiếng, chữ ghi từ vào bảng con.
Lệnh 2: Giáo viên gõ tiếng thước thứ hai yêu cầu học sinh giơ bảng ngay
ngắn.
Lệnh 3: Giáo viên gõ tiếng thước thứ ba học sinh bỏ bảng xuống.
Lệnh 4: Giáo viên gõ tiếng thước thứ tư học sinh đọc và xoá bảng.
b. Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết vở Tập viết hay Luyện viết:
- Vở Tập viết, Luyện viết lớp 1 cần bọc bìa, dán nhãn vở, giữ gìn sạch sẽ,
không để quăn mép, hoặc giây bẩn. Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay
ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi nghiêng sao
cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 .

- Bút chì dùng ở 8 tuần đầu lớp 1 cần được gọt cho cẩn thận đầu chì không
quá nhọn hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ.
- Bút mực cần sử dụng loại bút có quản, ngòi bút nét thanh, nét đậm ra
đều mực. Để tránh bẩn tay tôi thường hướng dẫn học sinh tỉ mỉ cách lấy mực,
đậy nắp và lau sạch mực ở phần ngoài của bút bằng giấy lau thấm.
Khi viết vở tôi hướng dẫn học sinh thưc hiện theo các lệnh sau:
Lệnh 1: Giáo viên gõ tiếng thước thứ nhất và yêu cầu học sinh đặt bút vào
điểm có dấu chấm trong vở viết một dòng chữ ghi âm hoặc chữ ghi tiếng.
Lệnh 2: Giáo viên gõ tiếng thước thứ hai yêu cầu học sinh đặt bút vào
điểm có dấu chấm viết một dòng chữ ghi tiếng hoặc từ.
Lệnh 3, lệnh 4,.. tương tự như vậy cho đến hết bài.
2.3.4. Tư thế ngồi viết
a. Một số quy định về nề nếp học tập:Tôi hướng dẫn cho học sinh nắm
được một số các kí hiệu mà tôi đã quy định và ghi kí hiệu này lên góc trái phía
trên bảng để các em thực hiện trong các giờ học như sau:
- Kí hiệu ngồi đúng tư thế học tập và trật tự khi giáo viên chỉ vào trong
hình:
7


- Kí hiệu lấy bảng khi giáo viên chỉ vào trong hình, cất bảng khi giáo viên
chỉ ra ngoài hình:
- Kí hiệu V: vở (mở vở khi giáo viên chỉ vào kí hiệu )
- Kí hiệu ngồi giãn khoảng cách khi giáo viên chỉ vào hình:
- Kí hiệu ngồi thẳng lưng khi giáo viên chỉ vào hình:
Việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các kí hiệu trên nhằm mục đích
đảm bảo tính kỉ luật, trật tự trong lớp học,giúp học sinh tập trung chú ý vào các
hoạt động học tập tránh gây mất trật tự và lộn xộn trong giờ học nhất là khi thao
tác sử dụng đồ dùng học tập.
b.Tư thế ngồi viết:

Để học sinh có thể tránh được một số bệnh học đường trong trường học
như: bệnh cong vẹo cột sống, bệnh cận thị… thì giáo viên phải luyện cho học
sinh có được một tư thế ngồi viết thật đúng, thật thoải mái. Muốn vậy, người
giáo viên phải có tư thế ngồi thật đúng để học sinh bắt trước. Ngay từ những tiết
học đầu tiên tôi đã làm mẫu kết hợp giải thích, hướng dẫn rất tỉ mỉ về từng động
tác tư thế ngồi học để các em hiểu và làm theo như sau:
- Lưng thẳng; không tì ngực vào bàn
- Đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 - 30cm.
- Tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ.
- Hai vai ngang bằng.
- Hai chân để song song vuông góc với mặt đất, thoải mái.
Học sinh mới vào lớp 1 chưa có khái niệm về đơn vị đo độ dài nên chưa
thể tự ước lượng được khoảng cách từ 25cm - 30cm nên tôi cho học sinh chống
cùi chỏ tay trên mặt bàn, ngửa bàn tay ra, áp trán vào sát lòng bàn tay để ước
lượng khoảng cách mặt với vở và luôn giữ ở vị trí cố định như vậy khi viết, em
nào quên có thể tự ước lượng lại được.
c. Cách cầm bút:
- Cầm bút bằng ba đầu ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa
- Khi viết dùngba ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút
nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái.
- Không nên cầm bút tay trái.
Tôi cũng làm mẫu và hướng dẫn tỉ mỉ cách cầm bút: Ngón cái và ngón trỏ
đặt ở phía trên, ngón giữa ở phía dưới đỡ đầu bút cách đầu bút khoảng 1 đốt
ngón tay. Cầm bút xuôi theo chiều ngồi, bút đặt nghiêng so với giấy khoảng
. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng

. Khi viết đưa bút từ trái qua phải, từ

trên xuống dưới, các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải nhẹ tay.
d. Cách để vở, xê dịch vở khi viết:

Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết
chữ nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với
mép bàn tạo thành một góc khoảng

. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng

với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông

như vậy dù viết theo kiểu chữ

đứng hay chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về
8


cách để vở). Khi viết xuống những dòng dưới, các em tự đẩy vở lên trên để cánh
tay luôn tì lên mặt bàn làm điểm tựa khi viết.
- Trước lúc viết tôi thường cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi học, cách cầm
bút để vở để học sinh thực hiện theo đúng quy định. Trong quá trình học sinh
viết rất hay quên, thay đổi tư thế ngồi đúng, lúc đó tôi lại phải kiên nhẫn chỉnh
sửa cho từng em. Lặp đi lặp lại nhiều lần, các em cũng dần dần ngồi đúng, cầm
bút đúng.
- Mặt khác tôi phô tô gửi mỗi phụ huynh một bản hướng dẫn về tư thế
ngồi học, cách cầm bút, để vở. Khuyên phụ huynh mua bảng chữ mẫu viết
thường của Bộ Giáo dục và Đào tạo để hướng dẫn học sinh luyện viết ở nhà.
2.3.5. Dạy cho học sinh có kỹ thuật viết đúng, viết đẹp:
a. Dạy học sinh viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản:
Trước tiên tôi hướng dẫn học sinh nắm được các thuật ngữ dòng
kẻ:“Dòng kẻ ngang 1, ngang 2, ngang 3; ngang 4, ngang 5. Ô li 1, ô li 2…ô li 5.
Đường kẻ ngang trên, ngang dưới của một ô li. Dòng kẻ dọc 1, dòng kẻ dọc 2,
… dòng kẻ dọc 5”trong vở ô li, Vở Tập viết, trên bảng con, bảng lớp. Tiếp theo

tôi hướng dẫn cho học sinh nắm chắc và viết tốt các nét cơ bản của chữ. Nắm
được tên gọi và cấu tạo của từng nét cơ bản bao gồm: Nét ngang, nét sổ, nét xiên
trái, nét xiên phải, nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu (là kết hợp của
nét móc xuôi và nét móc ngược), nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong
khép kín, nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt . Việc nắm chắc cách viết,
viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản sẽ nắm được cấu tạo của từng chữ
cái giúp cho việc nối các nét thành chữ cái sẽ dễ dàng hơn. Sau đó tôi dạy học
sinh cách xác định toạ độ của điểm đặt bút và điểm dừng bút phải dựa trên
khung chữ làm chuẩn. Hướng dẫn học sinh hiểu điểm đặt bút là điểm bắt đầu khi
viết một nét trong một chữ cái hay một chữ. Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của
nét chữ đa số điểm kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân chữ. Riêng đối với
con chữ o vì là nét cong tròn khép kín nên điểm đặt bút trùng với điểm dừng bút.
Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét tôi nhấn mạnh hơn chỗ nối nét, nhắc các
em viết đều nét, liền mạch đúng kĩ thuật.
b. Dạy cách rê bút: Là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy
theo đường nét viết trước hoặc tạo ra việt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên.
(Từ rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt của
giấy, do vậy giữa đầu bút và mặt giấy không có khoảng cách)
c. Dạy cách lia bút: Là dịch chuyển đầu bút từ điểm dừng này sang điểm
đặt bút khác, không chạm vào mặt giấy. Khi lia bút, ta phải nhấc bút lên để đưa
nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh về quy trình viết một chữ cái, rèn kĩ
thuật nối chữ, viết liền mạch người giáo viên cần lưu ý sử dụng các thuật ngữ
trên cho chính xác.
+ Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ m tôi hướng dẫn như sau:
- Nét 1: Đặt bút giữa đường kẻ 2 (ĐK 2) và đường kẻ 3 (ĐK 3), viết nét
móc xuôi trái chạm ĐK3, dừng bút ở ĐK 1.
- Nét 2: Từ điểm dừng bút nét 1, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét móc
xuôi thứ hai có độ rộng bằng một ô li rưỡi; dừng bút ở ĐK 1.
9



- Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét
móc hai đầu (độ rộng bằng nét 2); dừng bút ở ĐK2.
d. Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ:
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái,
để học sinh viết đúng kĩ thuật, viết đẹp, nắm chắc mẫu chữ. Tôi chia chữ viết
thành các nhóm và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ gồm những
nét nào, những nét chữ nào học sinh hay viết sai, học sinh gặp khó khăn gì khi
viết các nhóm chữ đó để khắc phục nhược điểm giúp học sinh viết đúng và đẹp
mẫu chữ trong trường Tiểu học cỡ vừa như sau:
- Nhóm 1: Gồm các chữ: m, n, u, ư, i, t, v,r, p.
Các lỗi học sinh hay mắc: Viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc
thường hay bị đổ nghiêng, nét hất lên thường bị choãi chân ra không đúng.
Cách khắc phục: Tôi cho học sinh luyện viết nét sổ có độ cao 2 ô li, sau
đó mới viết nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu có độ cao 2 ô li thật
đúng, thật thẳng. Khi học sinh viết thành thạo các nét đó, tôi mới cho học sinh
ghép các nét thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý điểm đặt bút, điểm dừng
bút, độ cao, độ rộng của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp.
- Nhóm 2: Gồm các chữ: b, l, h, k, y.
Các lỗi học sinh hay mắc: Học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét,
chữ viết còn cong vẹo.
Cách khắc phục: Trước tiên tôi cho học sinh viết nét sổ có độ cao 5 ô li
một cách ngay ngắn, thành thạo để rèn tư thế cầm bút chắc chắn cho học sinh,
sau đó tôi dạy học sinh viết nét khuyết trên có độ cao 5 ô li, độ rộng trong lòng 1
ô li. Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết, tôi hướng
dẫn học sinh đặt một dấu chấm nhỏ vào sát đường kẻ dọc, trên dòng kẻ ngang 2
của li thứ tư và rèn cho học sinh luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi
mới đưa bút lên tiếp viết nét khuyết trên có độ rộng bằng 1 li. Tương tự như vậy
tôi dạy học sinh viết nét khuyết dưới có độ cao 5 ô li, độ rộng 1 ô li.

- Khi dạy viết chữ h, tôi hướng dẫn viết nét khuyết trên trước, từ điểm
dừng bút của nét khuyết trên ở ĐK ngang 1 rê bút viết tiếp nét móc hai đầu có
độ cao 2 li, độ rộng 1 li dừng bút ở ĐK ngang 2. Tương tự như vậy với các chữ
còn lại.
- Nhóm 3: Gồm các chữ: o, ô, ơ, a, ă, â, c, x, d, đ, q, g, e, ê, s.
Các lỗi học sinh hay mắc: viết chữ o chiều ngang quá rộng hoặc quá
hẹp,nét chữ không tròn đều đầu to, đầu bé, chữ o méo. Hầu hết các em viết chữ
o xấu.
Cách khắc phục: Để viết được đúng và đẹp nhóm chữ này thì cần phải
viết chữ o đúng và đẹp tròn theo quy định. Tôi cho học sinh chấm 4 điểm vuông
góc đều nhau như điểm giữa 4 cạnh của hình chữ nhật và từ điểm đặt bút của
con chữ o viết một nét cong tròn đều đi qua 4 chấm thì sẽ được chữ o tròn đều
và đẹp. Sau đó tôi hướng dẫn học sinh ghép với các nét cơ bản khác để tạo thành
chữ.
Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét phải nhấn mạnh hơn chỗ nét nối,
nhất là chỗ rê bút, từ điểm dừng bút của con chữ vừa viết, rê bút lên viết liền
mạch đến đâu mới được nhấc bút. Ở phần đầu học chữ ghi âm, học sinh đã được
10


hướng dẫn rất kĩ về độ cao, độ rộng của từng nét chữ, con chữ. Khi dạy sang
phần vần tuy không cần hướng dẫn quy trình viết từng chữ song tôi vẫn thường
xuyên cho học sinh nhắc lại độ cao các chữ cái, những chữ cái nào có độ cao
bằng nhau, nét nối giữa các chữ cái trong một chữ ghi tiếng, khoảng cách giữa
các chữ ghi tiếng (bằng một con chữ o).
Khi hướng dẫn học sinh viết chữ nét thanh, nét đậm, tôi vừa viết mẫu vừa
nói rõ quy trình viết (viết như quy trình),chỉ khác bằng một mẹo nhỏ để học sinh
dễ làm theo: Chú ý viết các nét rê lên đưa nhẹ tay hơn một chút tạo nét thanh bé,
nét kéo xuống theo chiều đầu ngòi bút tạo nét đậm hơn nét thanh một chút. Đối
với bút mực học sinh cần viết úp ngòi xuống, cổ tay, cánh tay để vuông góc.Với

học sinh trung bình, yếu tôi chỉ yêu cầu các em viết đúng cỡ chữ, thẳng hàng,
ngay ngắn, đều nét, liền mạch. Đối với học sinh viết đẹp, tôi yêu cầu ở mức độ
cao hơn các em viết được chữ nét thanh, nét đậm. Nét chữ có độ mịn, mượt,
không sần sùi. Chữ viết thẳng đứng, các nét chữ song song với nhau, đều nét,
liền mạch, ngay ngắn và sạch đẹp.
Khi dạy học sinh cỡ chữ nhỏ tôi cũng thường xuyên luyện theo cách đó
giúp các em nhớ lâu và viết đều nét, liền mạch, đúng độ cao, độ rộng các chữ
cái.
2.3.6. Khắc sâu những lỗi học sinh thường gặp khó khăn.
Giáo viên cần nhấn mạnh chỗ ghi dấu thanh với vần, từng loại vần. Cái
khó với học sinh là không biết ghi dấu thanh ở vị trí nào nhất là những chữ có từ
2 đến 3 chữ cái trở lên. Khi dạy mỗi vần mới, cuối cùng tôi đều cho học sinh
nhận xét chốt lại những chữ ghi vần đó thì viết dấu thanh ở chữ cái ghi âm gì.
Đặc biệt ở bài ôn tập mỗi loại vần tôi đều khắc sâu vị trí ghi dấu thanh. Với chữ
có dấu phụ là dấu mũ như ô, ơ, ê, thì thanh sắc, huyền, hỏi phải ghi ở bên phải
dấu mũ còn thanh ngã thì ghi ở giữa, phía trên của dấu mũ, các dấu thanh phải
ngay ngắn, cân đối nằm đúng dòng li quy định và không được chạm vào chữ cái
hay dấu phụ.
Trong quá trình chấm chữa bài tôi chữa những lỗi học sinh sai phổ biến
nhất, hướng dẫn kỹ lại cách viết của chữ đó để học sinh khắc sâu cách viết một
lần nữa. Cho cả lớp xem bài viết đẹp. Kịp thời động viên, khích lệ những học
sinh có chữ viết tiến bộ.
Khi chấm bài tôi không chỉ chú ý đến việc chữa lỗi cho học sinh mà còn
kết hợp nhận xét, chỉ bảo, khích lệ, động viên để học sinh tự tin vào bản thân khi
viết bài và nhận ra những lỗi sai cần khắc phục.
Những nét chữ sai tôi nhận xét thật rõ và sau đó tôi viêt mẫu cho các em
sửa lại những chữ các em đã viết sai để về nhà các em tập viết theo mẫu đó cho
đúng và đẹp.
2.3.7. Lồng ghép với các môn học khác
Để học sinh viết đúng và đẹp thì phải tiến hành song song và đồng bộ việc

dạy - học phân môn Tập viết với các môn học khác. Học sinh không chỉ viết
đúng và đẹp ở vở Tập viết mà cần phải viết đẹp ở tất cả các loại vở. Muốn viết
đẹp và thành thạo thì cần phải nắm được kĩ thuật viết. Muốn viết đúng, không
sai, không mắc lỗi thì cần phải đọc đúng, đọc hiểu.Vì vậy trong quá trình dạy
học cần phải rèn cho học sinh không những viết thạo mà còn phải đọc thông. Để
11


làm được điều này khi dạy các giờ Tập viết, Học vần, Tập đọc, Chính tả tôi luôn
chú ý hướng dẫn học sinh phát âm đúng, phân biệt và sửa ngọng cho những học
sinh đọc còn ngọng. Giúp các em đọc đúng, hiểu đúng những từ ngữ địa phương
hoặc những tiếng, những từ ngữ khó có âm đầu hay nhầm lẫn như: l/n, x/s, tr/ch,
r/d, thanh hỏi, thanh ngã . . .
* Tôi chú trọng hướng dẫn cách phát âm l/n như sau:
- Cánh phát âm n: Thẳng lưỡi, đầu lưỡi chạm lợi dưới, hơi thoát ra ngoài
qua cả mũi và miệng.
- Cánh phát âm l: Đầu lưỡi cong lên, chạm lợi trên hơi thoát ra ngoài qua
2 bên rìa, xát nhẹ.
Mặt khác tôi chú ý dạy học sinh nắm chắc cách kết hợp giữa âm và vần
như:
+ Chữ ghi âm k thường kết hợp được với các chữ ghi âm: e, ê, i, (đứng
sau). Ví dụ: ki, ke, kê,…
+ Chữ ghi âm k thường kết hợp được với các vần có âm: e, i, ê đứng
trước như: kiến, kền, kèn,…
+ Chữ ghi âm gh chỉ kết hợp được với các chữ ghi âm: e, ê, i, (đứng
sau).Ví dụ: ghi, ghê, ghe.
+ Chữ ghi âm gh chỉ kết hợp được với các vần có âm: e, i, ê đứng
trước.Ví dụ: ghềnh,…
+ Chữ ghi âm ngh chỉ kết hợp được với các chữ ghi âm: e, ê, i, (đứng
sau). Ví dụ: nghi, nghề, nghe,…

+ Chữ ghi âm ngh chỉ kết hợp được với các vần có âm: e, i, ê đứng
trước.Ví dụ: nghiền, nghênh,…
+ Chữ ghi âm g hoặc ng chỉ kết hợp được với các âm hoặc vần có âm: o,
ô, ơ, u, ư, a, ă, â đứng trước.Ví dụ: ga, gô, go,.. nga, ngo, ngô,…
+ chữ ghi âm c không kết hợp được với âm e, i, ê mà chỉ kết hợp được
với các âm hoặc vần có âm: o, a, ô, ơ, u, ư, â, ă đứng trước.
- Ngoài ra tôi còn giải nghĩa từ, giúp học sinh đọc đúng, hiểu đúng.
- Khi học sinh viết bài tôi chú ý quan sát và sửa lỗi cho các em, chỉ ra các
lỗi sai mà học sinh hay mắc giúp các em tự sửa lỗi.
Kết hợp với dạy tập viết, chính tả, cùng với các môn học khác tôi thấy các
em tiến bộ rõ rệt sau mỗi tuần học. Cuối tuần vào giờ hoạt động tập thể, tôi lại
dành ít phút để tổng kết đánh giá, biểu dương khen ngợi những học sinh có cố
gắng rèn chữ và động viên các em kiên trì luyện tiếp ở tuần sau.
2.3.8. Lập kế hoạch bài học
Lập kế hoạch bài học là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học.
Việc lập kế hoạch bài học giúp người giáo viên có kiến thức rõ ràng về việc dạy
cái gì và dạy vào lúc nào, dạy như thế nào và học sinh cần học ra sao. Làm cho
người giáo viên tự tin hơn và thấy mình đã chuẩn bị đúng hướng. Lập kế hoạch
bài học cho phép người giáo viên tập trung suy nghĩ về những vấn đề chủ yếu
trước khi lên lớp, ứng phó kịp thời và đúng đắn trước những tình huống có thể
xảy ra. Đòi hỏi người giáo viên suy nghĩ về đăc trưng môn học, về mục tiêu bài
học, về đặc điểm học sinh, về phương pháp dạy học và đánh giá.
12


Để lập tốt kế hoạch bài học trong phân môn Tập viết người giáo viên cần
nắm chắc nội dung, chương trình, phương pháp dạy học và quy trình dạy học.
Thấy được điểm khác nhau giữa cách dạy học sinh tập viết trong trong tiết học
vần và trong giờ Tập viết. Soạn tốt giáo án bài dạy một cách cụ thể rõ ràng. Ở
lớp 1, yêu cầu dạy Tập viết được tiến hành trong cả bài dạy Học vần và trong

tiết Tập viết. Phần hướng dẫn học sinh tập viết chữ thường cỡ vừa và nhỏ; tô
chữ hoa cỡ vừa; viết các từ ngữ, các chữ số đã học (từ 0 đến 9), được tiến hành
trong bài dạy Học vần, tập viết, được thực hiện qua 2 bước: viết trên bảng con
(sau khi học đọc chữ ghi âm, tiếng, từ mới) và viết trong vở Tập viết 1 (sau khi
luyện đọc từ ngữ, câu ứng dụng). Tiết Tập viết trong tuần chủ yếu dành cho học
sinh thực hành luyện viết ứng dụng từ ngữ đã học trong bài học vần hoặc tô chữ
viết hoa, luyện viết, củng cố vần, từ ngữ ứng dụng ở phần Luyện tập tổng hợp.
* Nội dung dạy Tập viết:
Mỗi tuần chỉ có 1 tiết Tập viết, nhiệm vụ chính là dạy học sinh luyện viết
đúng theo mẫu chữ do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Trong vở Tập viết, mỗi
bài có 3 mục ứng với nội dung sau:
Tập tô các chữ hoa theo trình tự bảng chữ cái ( A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê,
G, H, I, K, L, M, N,…).
Tập viết các vần bằng chữ thường, cỡ vừa và nhỏ (là các vần đã ôn luyện
ở bài đọc trước đó).
Tập viết các từ ngữ bằng chữ thường cỡ vừa và nhỏ (là các từ ngữ gắn với
nội dung bài đọc, với các vần đã được ôn luyện trong bài đọc).
a/ Quy trình dạy Tập viết trong tiết học vần:
+ Hướng dẫn học sinh viết bảng
- Giới thiệu mẫu chữ viết (theo bìa mẫu chữ Dạy Tập viết - TBDH tối
thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp): Giáo viên chỉ vào chữ mẫu, nêu rõ
đặc điểm, cấu tạo, cách viết.
- Giáo viên viết mẫu (trên bảng phụ hoặc bảng lớp).
- Hướng dẫn học sinh viết chữ ghi âm (vần) vào bảng con.
- Hướng dẫn học sinh viết chữ ghi tiếng, từ mới.
+ Hướng dẫn học sinh viết trong vở Tập viết 1.
b. Quy trình dạy Tập viết trong tiết Tập viết:
A. Kiểm tra bài cũ
- Giáo viên kiểm tra bài viết ở nhà trong vở Tập viết.
- Học sinh lần lượt viết bảng (bảng lớp, bảng con) 2 từ ngữ đã học ở tiết

trước.
B. Dạy bài mới
1. Giới thiệu bài
2. Hướng dẫn học tô chữ hoa
- Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét chữ hoa:
+ Học sinh quan sát chữ hoa trên bảng phụ và trong vở Tập viết.
+ Giáo viên nhận xét số lượng nét và kiểu nét của chữ mẫu.
+ Giáo viên nêu quy trình viết và hướng dẫn viết (vừa nói vừa tô chữ
trong khung chữ)
- Học sinh tập tô 1-2 chữ hoa cho mỗi chữ trong vở Tập viết.
13


3. Hướng dẫn viết vần, từ ngữ ứng dụng
- Học sinh đọc các vần, từ ngữ ứng dụng.
- Học sinh quan sát các vần và từ ngữ ứng dụng viết mẫu trên bảng phụ và
trong vở Tập viết 1, tập hai.
- Giáo viên lưu ý độ cao, nét nối giữa các con chữ, khoảng cách giữa các
chữ.
- Học sinh tập viết trên bảng con.
* Lưu ý: Hướng dẫn viết vần và từ ngữ ứng dụng phần Luyện tập tổng
hợp mang tính chất luyện tập, thực hành, giáo viên không nên mất thời gian
hướng dẫn lại về cách viết các nét của từng vần, từng con chữ.
- Nếu cần, chỉ hướng dẫn riêng đối với học sinh viết còn yếu ..
4. Hướng dẫn học sinh viết trong vở Tập viết
- Học sinh tập tô chữ hoa; tập viết các vần; các từ ngữ theo mẫu chữ trong
vở Tập viết.
-Tuỳ theo điều kiện thời gian và trình độ viết của học sinh trong lớp, giáo
viên yêu cầu học sinh viết khoảng 1/2 hoặc 2/3 số chữ, số dòng ở vở Tập viết.
- Giáo viên quan sát, hướng dẫn cho từng em biết cách cầm bút đúng, có

tư thế ngồi đúng; hướng dẫn các em sửa lỗi trong bài viết.
- Giáo viên chấm chữa 5- 6 bài cho học sinh. Sau đó nêu nhận xét để cả
lớp rút kinh nghiệm.
C. Củng cố, dặn dò:
- Giáo viên nhận xét chung về tiết học, khen những học sinh viết đẹp.
- Dặn học sinh luyện viết thêm vào vở ô li, vở luyện viết
Với mỗi giờ dạy Tập viết, tôi đều thực hiện đầy đủ các bước. Hướng dẫn
học sinh quan sát, nhận xét; giáo viên viết mẫu; học sinh tập viết bảng con, bảng
lớp; hướng dẫn học sinh viết vào vở đến bước chấm bài và chữa bài.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành luyện viết tôi luôn quan tâm theo dõi
hoạt động viết chữ của học sinh để kịp thời nhắc nhở và uốn nắn, giúp đỡ để học
sinh viết đúng hoặc biểu dương những học sinh viết đẹp; giúp học sinh thấy rõ
thành công hay hạn chế trong bài tập viết của các em.
Trong quá trình dạy viết, tôi còn để học sinh tự nhận xét chữ viết, tự sửa
chữa cho nhau khi cần thiết. Những em viết yếu, ngoài sự kèm cặp của cô giáo
còn được sự giúp đỡ của các bạn trong nhóm, trong lớp.
Tốc độ viết cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chữ viết. Thời gian đầu
tôi cho các em viết chậm. Khi viết đẹp tôi mới cho tăng dẫn tốc độ viết, tạo cho
các em thói quen khi viết song mỗi chữ, mỗi từ, phải nhẩm lại kiểm tra độ chính
xác.
Một phương pháp không thể thiếu khi rèn chữ viết là phương pháp luyện
tập, mỗi học sinh ngoài vở tập viết bắt buộc ra tôi còn cho các em chuẩn bị 2
loại vở nữa là vở ô li (loại giấy đẹp) và vở thực hành luyện viết để hướng dẫn
tập viết ở nhà và luyện tập vào giờ học tăng buổi (buổi chiều).
Mỗi loại vở tôi đều thường xuyên chấm nhận xét , nêu ưu khuyết điểm
cho từng em.
2.3.9. Tổ chức các trò chơi và phong trào thi đua “Giữ vở sạch - Viết
chữ đẹp”.
14



Để việc dạy - học phân môn Tập viết thành công phải có sự hướng dẫn tỉ
mỉ, từng li, từng tí của giáo viên. Mặt khác, giáo viên còn phải hiểu tâm lý lứa
tuổi học sinh. Không nên cho các em ngồi viết liền trong một thời gian dài dễ
gây mỏi tay và chán. Cần thường xuyên tổ chức các trò chơi thi viết chữ đẹp
trong mỗi tiết học. Tổ chức thi “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp” trong từng tháng.
Động viên khen ngợi kịp thời những tổ hay cá nhân thực hiện tốt, đặc biệt những
tổ hay cá nhân có tiến bộ tạo cho học sinh sự hứng khởi hăng hái thi đua rèn
luyện.
Trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần tôi thường dành khoảng 10 phút để
tổng kết đánh giá việc rèn chữ viết đẹp, giữ vở sạch của học sinh và tuyên dương
những em có tiến bộ.
Ngoài việc phát động phong trào thi đua tôi còn giới thiệu các bài viết
đẹp, các trang viết đẹp của học sinh trong buổi họp cha mẹ học sinh để cha mẹ
các em cùng thi đua rèn luyện cho con em mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Từ những biện pháp trên, tôi đã áp dụng trong thời gian từ ngay đầu năm
học đến giữa học kì II. Qua đợt chấm “Vở sạch, chữ đẹp” cuối kì I và cấp
trường vừa qua lớp tôi đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
Sĩ số
Loại A
Loại B
Loại C
Thời điểm
HS
đánh giá
SL
%
SL

%
SL
%
Cuối HKI
Giữa HKII

41
41

27
32

65,9
78

13
9

31,7
22

1
0

2,4
0

Nếu so sánh qua quá trình rèn luyện chữ viết trong thời gian ngắn và kết
quả khảo sát ban đầu, tôi thấy số lượng học sinh chữ viết đạt loại A nâng lên cao,
đặc biệt số học sinh chữ viết loại C không còn nữa. Lần đầu, khi chưa áp dụng

biệp pháp nâng cao chất lượng chữ viết, trong quá trình viết các em hay mắc lỗi
sai về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở. Một số em chữ viết còn tẩy xoá
nhiều, vở còn bị quăn góc, các chữ còn sai nhiều về độ cao, độ rộng, khoảng
cách, các nét nối, điểm đặt bút, điểm dừng bút chưa đúng nên chất lượng chữ
viết cũng như chất lượng vở sạch còn thấp.
Lần thứ hai, sau khi áp dụng biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết mà
tôi đưa ra vào dạy Tập viết ở lớp 1A do tôi chủ nhiệm, tôi thấy kết quả có nhiều
chuyển biến. Các bài viết đạt loại A là 32 em = 78 %; số bài viết loại C không
còn nữa. Đa số các em ngồi viết đúng tư thế, cầm bút đúng cách và viết đúng kĩ
thuật. Viết cẩn thận, nắn nót đã thành thói quen của học sinh. Một số em khi mới
vào học đến giờ Tập viết rất ngại nhưng từ khi các em nắm được kĩ thuật viết
chữ đúng các em hồ hởi và phấn khởi, tâm lí vui vẻ thoải mái hơn khi học môn
Tập viết.
Từ kết quả trên đã khẳng định biện pháp rèn chữ viết cho học sinh mà tôi
đề xuất là phù hợp và có hiệu quả. Không những các em viết đẹp, viết đúng mà
các em còn có tư thế ngồi viết đúng.
15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3. 1. Kết luận :
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, tôi thấy việc rèn luyện kỹ năng viết
đúng, viết đẹp cho học sinh Tiểu học nói chung và rèn kỹ năng viết đúng, viết
đẹp cho học sinh lớp 1 nói riêng là rất cần thiết. Việc áp dụng các phương pháp,
biện pháp khéo léo, linh hoạt giúp cho giờ học Tập viết diễn ra một cách nhẹ
nhàng, học sinh hứng thú say mê học tập từ đó nâng cao chất lượng về chữ viết.
Để đạt hiệu quả cao trong việc rèn chữ viết cho học sinh thì người giáo
viên cần nghiên cứu kỹ các mẫu chữ viết trong trường Tiểu học, nghiên cứu kỹ
nội dung bài dạy trong các bài Tập viết, nắm vững mục đích yêu cầu của từng
bài để lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy sao cho phù hợp với đối

tượng học sinh đảm bảo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Đồng
thời cần tạo điều kiện cho mỗi cá nhân học sinh bộc lộ và phát triển khả năng,
năng khiếu của mình.
Từ kết quả trên đã cho thấy những biện pháp mà tôi đưa ra là thiết thực,
hiệu quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy không có biện pháp nào là vạn năng cả mà
điều quan trọng là người giáo viên phải biết lựa chọn, vận dụng các biện pháp
linh hoạt hài hoà, hợp lí thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả cao.
Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy với biện pháp và kết quả
nêu trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
Giáo viên phải viết chữ đúng chuẩn, rõ ràng, đẹp cho học sinh noi theo.Để
học sinh viết đúng, viết đẹp người giáo viên cần có đức tính kiên trì, chịu khó,
hết lòng vì học sinh. Mỗi giáo viên phải nắm chắc kiến thức, quy trình kỹ thuật
viết chữ để dạy tốt từng tiết Tập viết cho học sinh. Phải đưa ra phương pháp dạy
học cụ thể để phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình tuân theo
nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.Phải phân loại chữ viết học
sinh thành từng nhóm chính để có kế hoạch rèn chữ cho từng đối tượng học
sinh.Giáo viên thường xuyên nhận xét, tuyên dương, khích lệ sự tiến bộ về chữ
viết của học sinh trong từng bài viết để học sinh phấn khởi tích cực rèn luyện.
- Trong dạy học Tập viết cần phải thường xuyên tổ chức các trò chơi thi
viết nhanh, viết đẹp tạo sự hứng thú rèn luyện cho học sinh.
- Cần tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh viết chưa đẹp, chưa đúng. Từ
đó tìm ra biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục yếu điểm. Sự phối hợp giữa cha
mẹ học sinh với các thầy cô giáo sẽ tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất về
mọi mặt, giúp ích rất nhiều cho việc nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
3.2. Kiến nghị :
* Đối với giáo viên:
- Cần thấy được vị trí, tầm quan trọng của phân môn Tập viết ở các lớp.
- Người giáo viên phải có một năng lực sư phạm tốt. Phải có một đức tính
kiên trì, nhẫn nại, tỉ mỉ và cẩn thận không nóng vội trong công việc. Phải có
lòng nhiệt tình, say mê, hứng thú trong công việc, hết lòng yêu thương học sinh

coi học sinh như con em của mình.
- Thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu tài
liệu, luyện viết chữ đúng mẫu theo chuẩn để nâng cao chất lượng chữ viết cho
bản thân.
16


- Nắm được hoàn cảnh, tâm lí, lực học của từng học sinh và chuẩn bị tốt
đồ dùng cho tiết dạy.
- Mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng cho các em noi theo, từ tư thế
ngồi viết, cách cầm bút đến chữ viết bảng, cách trình bày bảng, cách chấm bài,
nhận xét cho học sinh.
* Đối với phụ huynh:
- Mua đầy đủ vở Tập viết, thực hành luyện viết và đồ dùng học tập cho
các em.
- Tạo cho các em tâm lý vui vẻ, thoải mái nhất khi đến trường.
- Quan tâm đến việc học của các em ở trường cũng như ở nhà.
- Cần trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để có cách dạy các cháu ở nhà.
- Kết hợp chặt chẽ với nhà trường để tạo điều kiện cho các em học tập tốt
hơn.
* Đối với trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm
để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường, của từng khối lớp.Duy trì
các phong trào thi đua “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Hội thi “Viết chữ
đẹp” cấp trường.Trưng bày các bài viết đẹp, tập vở sạch cho học sinh toàn
trường tham khảo.
* Đối với phòng Giáo Dục và Đào Tạo:
- Cần duy trì tổ chức các hội thi “Viết chữ đẹp” cho giáo viên và học sinh
Tiểu học. Tổ chức các chuyên đề về chữ viết đẹp nhiều hơn nữa để giáo viên học
hỏi và rèn luyện.Trang bị thêm các thiết bị đồ dùng, vở luyện viết chữ đẹp cho

giáo viên và học sinh.
Trải qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế, tôi đã đưa ra
một số giải pháp “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” với mong muốn nâng cao
chất lượng chữ viết cho học sinh. Từ cách đổi mới phương pháp của thầy góp
phần rèn luyện về tư thế ngồi học, cách cầm bút, để vở và kĩ thuật viết của trò.
Đề tài “Một vài biện pháp rèn kĩ năng viết chữ đúng và đẹp cho học sinh lớp
Một ” là một đề tài rất rộng cho nên những nghiên cứu mà tôi đưa ra ít nhiều
vẫn còn hạn chế không tránh khỏi những thiếu sót
Rất mong được sự góp ý của mọi người để đề tài ngày một hoàn thiện hơn
.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác .

Nguyễn Thị Phương

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa , sách giáo viên môn Tiếng Việt lớp 1
2. Vở tập viết , thực hành luyện viết đúng, viết đẹp lớp 1
3. Chuyên đề Giáo dục Tiểu học
4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
5 Thông tư 30, thông tư 22 của Bộ giáo dục và Đào tạo
6. Quyết định số 31/2002/QĐ-BGD

7. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet

18



×