1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như ta đã biết, nếu không biết đọc thì con người sẽ không thể tiếp thu nền
văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh
phúc Vớiđúng nghĩa của từ trong xã hội hiện đại. Biết đọc con người đã nhận khả
năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây có thể tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận
thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người có khả năng chế
ngự một phương tiện văn hoá cơ bản, giúp họ giao tiếp được Với thế giới bên
trong của người khác. Thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt,
khi đọc các tác phẩm văn chương con người không chỉ được thức tỉnh về nhận
thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tươi đẹp. Khơi dậy
được năng lực hoạt động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn.
Không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội
dành cho họ, không thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời
đại bùng nổ thông tin hiện nay thì biết đọc lại càng quan trọng vỡ nó sẽ giúp cho
học sinh sử dụng các nguồn thông tin một cách nhanh chúng, kịp thời.
Biết đọc và đọc đúng có ý nghĩa to lớn như vậy nên môn Tiếng Việt trong
nhà trường tiểu học có một vị trí hết sức quan trọng. Bởi vì môn Tiếng Việt giúp
học sinh nắm được những đơn vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ. Là cơ
sở và hình thành các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết đạt đến trình độ đúng, tạo điều
kiện để cho học sinh tiếp nhận những tri thức khoa học mới. Nếu gọi bậc Tiểu
học là bậc học nền móng thì môn Tiếng Việt là môn học đầu tiên để xây dựng nền
móng vững chắc đó và trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập đọc lại càng quan
trọng vì phân môn này giúp các em học đọc, học viết, giúp các em có kĩ năng giao
tiếp tốt.
Tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp. Ngoài chức năng dạy đọc
phân môn này còn trau dồi cho học sinh những kiến thức Tiếng Việt, kiến thức
văn học, kiến thức đời sống và giáo dục tình cảm, tình yêu quê hương đất nước
1
cho các em. Hơn thế nữa tập đọc còn rèn cho các em có được kĩ năng đọc đây là
một trong bốn kĩ năng quan trọng mà bậc Tiểu học cần rèn luyện.
Mục tiêu của việc dạy và học Tập đọc ở Tiểu học là hình thành và phát triển
kĩ năng đọc đúng, đọc hiểu cho học sinh. Vì những lẽ trên dạy đọc có một ý
nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối Với mỗi
học sinh đi học. Đầu tiên là phải “đọc đúng” để giúp các em chiếm lĩnh được
ngôn ngữ. “Đọc đúng” là công cụ giúp ta học cả đời. Bên cạnh đó nếu “đọc
đúng” sẽ giúp các em học tốt các môn học khác.
“Đọc đúng” cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy
của người đọc vì vậy việc dạy đọc đúng giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở
các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em cách nghĩ logic cũng như biết
tư duy có hình ảnh về sự việc. Vì thế đọc gồm cả giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển.
Còn đối với học sinh lớp 2 yêu cầu đọc trong phân môn tập đọc là phải đọc
đúng và rõ ràng toàn bài, biết nghỉ hơi sau các dấu câu, giữa các dòng, các cụm
từ đọc trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại hoặc một bài văn ngắn. Bước đầu
biết đọc thầm, biết dùng mục lục sách giáo khoa khi đọc và hiểu được ý chính
của đoạn văn vừa đọc.
Theo thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng tốc độ đọc cần đạt ở mỗi học kì có
khác nhau:
Giữa học kì I: khoảng 35 tiếng/phút.
Cuối học kì I: khoảng 40 tiếng/phút.
Giữa học kì II: khoảng 45 tiếng/phút.
Cuối học kì II: khoảng 50 tiếng/phút.
Trong thực tế ở trường tôi, chất lượng đọc của học sinh vẫn chưa cao,
nhiều em đọc chưa lưu loát, còn đọc sai từ, tiếng, ngắt nghỉ hơi chưa đúng, còn
sai khi phát âm: hỏi thành ngã, ngã thành hỏi, đọc tr thành ch, s thành x….. Đây
là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng của phân môn Tập đọc
2
chưa được nâng lên và cũng chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới giáo dục
của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng đọc đúng cho
học sinh lớp 2 ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1. Sử dụng một số biện pháp để khắc phục một số sai sót mắc lỗi tiếng địa
phương của học sinh trong môn tập đọc.
2. Bổ sung thêm một số phương hướng dạy học tập đọc, nhằm nâng cao
chất lượng rèn đọc đúng cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1. Học sinh lớp 2A
2. Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2; Tạp chí giáo dục và các
tài liệu thay sách.
3. Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học tập đọc ở lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu nội dung này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết : Tôi đọc các tài liệu:
+ Các vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học.
+ Phương pháp dạy tập đọc, các tạp chí giáo dục - thời đại, chuyên đề
giáo dục Tiểu học.
+ Phương pháp dạy học Tiếng Việt và các tài liệu khác liên quan đến
đổi mới giáo dục.
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Qua quá trình dạy và dự giờ giáo viên, kiểm tra việc đọc của học sinh và
khảo sát chất lượng học sinh lớp 2, tôi đã nắm bắt và thu thập các thông tin liên
quan đến tình hình dạy và học tập đọc lớp 2, tìm hiểu nguyên nhân.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
Tổng hợp kết quả khảo sát thực tế, phân tích tình hình, phân loại đối
tượng học sinh, ... để tìm ra biện pháp.
3
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận của việc dạy tập đọc
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính
thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng
Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi
con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, văn hóa
giáo dục, thành tựu của các ngành khoa học nói chung đó dẫn tới những yêu cầu
mới trong việc dạy học Tiếng việt ở nhà trường. Đặc biệt trong khi dạy phân
môn Tập đọc cần chú trọng nhiệm vụ hình thành và phát triển 4 kĩ năng sử dụng
tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết. Tập đọc từ lớp 2 trở đi đã thể hiện đầy đủ và rõ
nét những nhiệm vụ cơ bản của phân môn tập đọc. Đây là phân môn mang tính
chất thực hành là chủ yếu. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng
lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo lên từ bốn kĩ năng (cũng là bốn yêu
cầu về chất lượng đọc) đó là đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi trảy) đọc hiểu,
đọc diễn cảm. Trong bốn kĩ năng trên khó có thể nói kĩ năng nào làm cơ sở cho
kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay nhờ hiểu đúng mà đọc đúng. Vì
vậy trong dạy đọc không thể xem nhẹ kỹ năng nào. Bên cạnh đó tập đọc còn có
nhiệm vụ quan trọng khác là giáo dục cho các em lòng ham học, giúp cho kiến
thức về ngôn ngữ, về đời sống, về văn học của các em phong phú hơn, khả năng
tư duy lôgic và khả năng giao tiếp được phát triển. Tập đọc còn góp phần giáo
dục tư tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.
2.2/ Thực trạng của việc dạy tập đọc lớp 2
Từ thực tế đứng lớp giảng dạy tôi thấy học sinh lớp 2A (do tôi trực tiếp
giảng dạy) và khi dự giờ GV dạy khối 2, khi học sinh đọc mức độ đọc chưa cao.
Đa số các em trong lớp là ở vùng nông thôn nên khi đọc bài các em còn mắc
phải một số lỗi cụ thể là:
4
- Chưa phân biệt được đúng tiếng có phụ âm đầu: s/x, ch/tr, r/d/gi, i/iê.( lỗi
phương ngữ)
Ví dụ: Trong bài “Bím tóc đuôi sam” học sinh thường đọc sai các tiếng:
sam – xam, reo – gieo, trường – chường
- Phát âm chưa đúng tiếng có thanh hỏi hoặc thanh ngã.
Ví dụ : Trong bài “Trên chiếc bè” học sinh thường đọc sai các tiếng:
rủ - rũ, Dế Trũi – Dế Trủi, bãi – bải, đã – đả
- Học sinh còn chưa biết cách ngắt, nghỉ ở một số câu dài.
Ví dụ: Bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim” câu Mỗi khi cầm quyển
sách cậu chỉ đọc vài dòng đã ngáp ngắn ngáp dài rồi bỏ dở. Học sinh thường
đọc ngắt, nghỉ như sau:
Mỗi khi cầm /quyển sách cậu chỉ đọc /vài dòng đã ngáp / ngắn ngáp dài
rồi bỏ dở.//
Hay bài: “Câu chuyện bó đũa” các em ngắt, nghỉ câu dài như sau:
Người cha bèn cởi bó đũa ra,/ rồi thong thả bẻ / gãy từng chiếc một / cách
dễ dàng.//
- Học sinh còn đọc sai giọng đọc (chưa phân biệt được giọng đọc của từng
nhân vật Vớingười dẫn chuyện)
Ví dụ: Bài “Bác sĩ Sói” học sinh thường đọc sai giọng đọc của Sói: Bên
xóm mời ta sang khám bệnh. Ta đi ngang qua đây, nếu cậu có bệnh ta chữa giúp
cho. Trong đoạn này giọng của Sói phải đọc giả giọng hiền lành nhưng các em
lại đọc Với giọng hung dữ.
- Nhiều học sinh cũng chưa nắm được nội dung bài.
- Trong tiết dạy Tập đọc học sinh còn đánh vần, đọc chưa trôi chảy nên
trong một tiết học còn phải kéo dài thời gian làm ảnh hưởng rất nhiều đến các
môn học khác.
5
2.3. Kết quả và nguyên nhân của thực trạng
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát thực tế tại lớp
2A vào học kì 1 năm học 2017 - 2018. Kết quả bài kiểm tra
định kì lần 1, lớp 2A đạt được như sau:
Tổng số
HS
20 em
Đọc đúng mẫu
SL
TL
6 em
30%
Ngắt, nghỉ hơi chưa đúng
SL
9 em
TL
45%
Đọc sai âm
đầu,vần, thanh
SL
5 em
TL
25%
Với kết quả như trên thì chưa thể đáp ứng Với yêu cầu giáo dục của nhà
trường trong giai đoạn hiện nay. Nhưng để đạt yêu cầu mới đã đặt ra thì không
phải là một vấn đề dễ dàng. Qua quá trình dự giờ thăm lớp, qua việc khảo sát
thực tế tôi vẫn thấy tồn tại một số vướng mắc trong quá trình dạy Tập đọc hiện
nay mà bản thân tôi và đồng nghiệp vẫn còn phải băn khoăn. Nguyên nhân này
không phải từ một phía mà còn tác động bởi các yếu tố sau:
*Về phía giáo viên:
Trong những năm học trước, qua việc dự giờ thao giảng, tôi nhận thấy đa
số giáo viên chủ quan khi dạy phân môn tập đọc, coi đây là phân môn ít phải
động não nên giáo viên thường dạy qua loa, đôi khi còn bỏ bước, kĩ năng đọc
mẫu, giọng đọc chưa chuẩn dẫn đến học sinh còn đọc theo cô. Bên cạnh đó một
số giáo viên còn chưa quan tâm nhiều đến phương pháp rèn kĩ năng đọc đúng
cho học sinh và chưa chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh mà chỉ chú trọng
đến học sinh đọc tốt, chưa biết vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học và phối
hợp dạy tập đọc ngoài giờ chính khóa.
*Về phía học sinh:
- Do học sinh còn bị ảnh hưởng bởi phương ngữ địa phương, do thói quen
thiếu ý thức, các em còn đọc vẹt theo bạn. Khi đọc các em chỉ chú ý đọc qua loa
cho nhanh hết bài chưa chú ý đến bài đọc sao cho đúng, cho hay.
- Việc chuẩn bị bài của các em còn chưa chu đáo.
6
- Một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc luyện đọc của
con ở nhà, còn xem nhẹ môn học này nên không đôn đốc các em luyện đọc.
Trên đây là một số nguyên nhân mà trong quá trình dạy học phân môn
Tập đọc giáo viên và học sinh thường mắc phải. Là một cán bộ quản lý phụ
trách chuyên môn đứng trước những thực trạng đã nêu ở trên tôi đã mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp dưới đây để giúp giáo viên dạy tốt phân môn Tập đọc
nhằm nâng cao chất lượng môn học.
2.4. Các biện pháp thực hiện
1. Phân loại đối tượng học sinh để kèm cặp, bồi dưỡng
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tham khảo ý kiến của giáo viên chủ nhiệm
của năm học trước và kết quả khảo khát đầu năm tôi đó tiến hành phân loại đối
tượng học sinh để kèm cặp. Tôi đã bố trí cho các em đọc bài và tiếp thu bài tốt
ngồi cạnh những em đọc và tiếp thu bài còn chậm . Như vậy các em kém hơn
vừa học tập theo bạn, vừa học bạn cách học. Dành nhiều thời gian cho các tiết tự
học Tiếng Việt để kèm cặp thêm cho các em đọc đang còn yếu, giao bài cho học
sinh học tốt tự học, giao bài cho học sinh ở mức trung bình hay còn hạn chế có
sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên và của các bạn. Khi giao bài tùy theo năng
lực của học sinh đảm bảo tính vừa sức, phát huy tối đa tính tự giác, tự học, tích
cực của học sinh trong quá trình học tập.
2. Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy
a. Đối với giáo viên:
Hiệu quả của tiết dạy phụ thuộc rất lớn vào công tác chuẩn bị của giáo
viên. Trong phân môn Tập đọc, trước khi dạy một bài tập đọc, để có một tiết dạy
hiệu quả, trong việc chuẩn bị tôi đã làm những việc sau:
- Nghiên cứu kĩ bài dạy, soạn bài trước khi lên lớp để nắm vững các thao
tác, các bước lên lớp của phân môn.
- Tham khảo thêm các tài liệu có liên quan đến bài dạy như: sách thiết kế,
từ điển Tiếng Việt….và vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp.
7
- Một số bài tập đọc có nhiều giọng đọc khác nhau, tôi đã luyện đọc nhiều
lần trước khi dạy.
Ví dụ: Dạy bài “Sáng kiến của bé Hà” có nhiều nhân vật, nhiều sắc thái
giọng đọc khác nhau nên tôi phải luyện đọc bài nhiều lần trước khi dạy.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo.
Ví dụ: Dạy bài “Sự tích cây vú sữa” tôi đã chuẩn bị tranh minh họa cây vú
sữa, trang phục cho học sinh sắm vai.
b. Đối với học sinh:
- Tôi có biện pháp và kế hoạch cụ thể để các em chuẩn bị tốt bài trước khi
đến lớp cụ thể là:
- Nhắc các em bài Tập đọc hôm sau là bài gì để học sinh chuẩn bị trước ở
nhà.
- Nhắc học sinh cần phải có sách giáo khoa trong giờ tập đọc.
- Các em phải đọc bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Ví dụ: Dạy bài “Mẹ” tôi yêu cầu học sinh về nhà đọc bài nhiều lần nên
đến bước luyện đọc thuộc lòng các em đọc rất nhanh thuộc bài thơ.
3. Nắm vững quy trình dạy Tập đọc
Về cơ bản tôi sử dụng quy trình trong sách giáo viên Tiếng Việt 2. Bởi vì
quy trình này hoàn toàn phù hợp với cơ sở ngôn ngữ của Tập đọc, đảm bảo mục
tiêu môn học, mục tiêu từng bài học cụ thể. Tuy nhiên, trong từng tiết dạy, bài
dạy, tôi đã sử dụng phối hợp một số phương pháp dạy học và hình thức tổ chức
dạy học linh hoạt để tiết học nhẹ nhàng, hiệu quả cao. Mỗi một kĩ năng thể hiện
qua bài tôi đều chú ý phân bố thời gian hợp lí. Tôi tiến hành áp dụng quy trình
dạy Tập đọc trong các tiết dạy như sau:
1. Kiểm tra bài cũ.
8
Học sinh đọc bài Tập đọc hoặc học thuộc lòng bài đó học ở tiết trước.
Giáo viên nhận xét và có thể hỏi thêm về nội dung đoạn, bài đã học để củng cố
kĩ năng đọc – hiểu.
2. Dạy bài mới.
2.1. Giới thiệu bài
2.2. Luyện đọc
- GV đọc mẫu toàn bài.
- Luyện đọc từng câu (kết hợp tìm hiểu nghĩa của từ).
- Luyện đọc đoạn, bài.
2.3 Hướng dẫn tìm hiểu bài.
- GV hướng dẫn HS đọc thầm và tìm hiểu bài dựa theo câu hỏi trong SGK
và một số câu hỏi gợi ý thêm.
2.4. Luyện đọc lại / học thuộc lòng (nếu SGK yêu cầu ).
Luyện đọc lại được thực hiện sau khi học sinh đó nắm được nội dung bài
đọc. Hình thức tổ chức luyện đọc lại là thi đọc. Yêu cầu chính của khâu này là
luyện cho HS đọc trôi chảy, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, đúng mức. Riêng HS học
tốt GV có thể giúp học sinh bước đầu có ý thức đọc diễn cảm với yêu cầu cụ thể
sau:
- Thể hiện được giọng điệu của từng nhân vật.
- Thể hiện được tình cảm của người viết.
Khâu luyện đọc lại được thực hiện theo các bước sau:
- GV đọc mẫu.
- GV lưu ý HS về giọng điệu của từng nhân vật hoặc của toàn bộ đoạn
văn, bài văn.
- GV hướng dẫn học sinh đọc thuộc lòng (nếu SGK yêu cầu).
2.5. Củng cố, dặn dò.
9
- Liên hệ thực tế, giáo dục kỹ năng sống.
- Gv nhận xét về giờ học
- Dặn học sinh việc cần làm ở nhà.
4. Rèn kĩ năng đọc đúng tiếng, từ
- Dựa vào kỹ năng đọc của học sinh tôi thấy các em đọc chưa đúng
tiếng, từ là do các nguyên nhân sau:
+ Do học sinh chưa chú ý đến đọc mẫu và phần luyện đọc của giáo viên.
+ Do ngôn ngữ: Phát âm sai:tr/ch, r/d/gi, s/x, i/ iê đọc sai tiếng có thanh
hỏi và thanh ngã.
+ Do học sinh đọc nhanh, đọc cẩu thả dẫn đến bỏ chữ.
+ Do tư thế khi đọc chưa đúng: có em để sách tại bàn rồi đứng lên nhìn
xuống để đọc.
Từ thực trạng trên tôi đã tìm hiểu và hướng dẫn các em cách đọc đúng
như sau:
- Đối với nhóm đọc sai phụ âm đầu ch/tr, r/d/gi, s/x, i/iê
Ví dụ: trời đọc là chời, trâu đọc là châu, trên đọc là chên, sam đọc là xam,
biển đọc là bỉn , tiến đọc là tín….
Tôi hướng dẫn các em khi đọc các tiếng có phụ âm đầu tr, r, s thì đầu lưỡi
phải cong và uốn nắn từng tiếng, từng từ bằng cách: gọi học sinh đọc tốt đọc
mẫu sau đó cho học sinh đó đọc lại nhiều lần. Giáo viên cho học sinh khác nhận
xét bạn đọc sau đó kết luận, còn i và iê thì hướng dẫn phân biệt vần trước khi
đọc.
- Đối với nhóm đọc hay bỏ từ, bỏ chữ tôi thấy là do các em đọc nhanh, đọc lướt
nên tôi yêu cầu các em dùng que chỉ, chỉ vào từng tiếng, từng từ khi đọc để cả
lớp nghe và nhận xét.
- Đối với học sinh đọc nhầm lẫn giữa thanh hỏi và thanh ngã như: bảo nỗi /
bão nổi; sặc sỡ/ sặc sở…Tôi thường gọi các em này phát âm riêng từng thanh
10
hỏi, thanh ngã làm mẫu thật nhiều lần với đủ loại âm tiết để học sinh có sự tự
điều chỉnh trong quá trình phát âm theo. phát âm các tiếng thanh hỏi và thanh
ngã tôi thường thực hiện qua các bước sau:
+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh.
Ví dụ: thanh hỏi: sỏi, thỏi, gỏi
thanh ngã: bã, đã, giã
+ Tiếp theo chắp tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh.
Ví dụ: thanh hỏi: thảo, phải, kẻo (âm tiết nửa mở)
thanh ngã: ngõ, khẽ, cũ (âm tiết mở)
+ Cuối cùng chắp bất kì âm đầu, các vần với các thanh.
Khi các em đó đọc đúng các tiếng từ có phụ âm đầu tr/ch, s/x, r/d, thanh hỏi,
thanh ngã để giúp các em nhớ lâu và không bị mắc lại các lỗi này ở trong các
tiết tập đọc tôi đã tiến hành tổ chức cho các em chơi trò chơi “Thi đọc nhanh và
đúng tiếng có âm đầu, thanh dễ lẫn.”
Ví dụ: Khi dạy bài: “Sự tích cây vú sữa” tôi đã tiến hành tổ chức trò chơi
như sau:
1. Mục đích
- Rèn kĩ năng phát âm đúng Tiếng Việt, khắc phục lỗi phát âm lẫn lộn âm đầu
(phụ âm đầu), vần, thanh do ảnh hưởng cách phát âm địa phương.
- Góp phần trau dồi kĩ năng viết đúng chính tả tiếng Việt.
2. Chuẩn bị
- Chia lớp thành 5 nhóm, mỗi nhóm 4 bạn chơi.
- Tôi cử 1 HS tốt của mỗi nhóm giám sát các nhóm chơi.
3. Cách tiến hành
+ GV phổ biến cách chơi và yêu cầu đánh giá:
11
- Lần lượt từng em trong mỗi nhóm sẽ tìm các tiếng có âm tr, s, r, vần có i, iê ,
thanh hỏi, thanh ngã có ở trong bài đọc to cho cả lớp nghe. Trong thời gian 3
phút nhóm nào đọc đúng và đọc được nhiều từ nhóm đó sẽ thắng cuộc. Mỗi
tiếng đọc đúng sẽ được tính 1 điểm.
- Nhóm trưởng của các nhóm sẽ đổi chéo sang nhóm khác để theo dõi các bạn.
- Các nhóm trưởng nhận xét về từng nhóm đã được phân công theo dõi.
- GV yêu cầu các nhóm trưởng chấm điểm cho từng nhóm.
- GV kết luận và tuyên dương nhóm thắng cuộc.
Trong các giờ Tập đọc tôi thường tổ chức cho các em chơi trò chơi nên các
em rất hứng thú học tập trong tiết học. Một số em đọc yếu đã được khen và
tuyên dương một cách kịp thời nên các em tiến bộ rất nhanh, không còn nhút
nhát khi đọc bài mà các em mạnh dạn và tự tin hơn.
5. Rèn kĩ năng đọc đúng câu
Giờ dạy Tiếng Việt phải hướng đến giáo dục học sinh yêu Tiếng Việt bằng
cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự
phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở
trường tiểu học đặc biệt đối với đối tượng học sinh lớp 2 thì ngữ diệu trong khi
đọc còn rất hạn chế. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa
hoặc ít ra là một cách đọc không để ý đến nghĩa.
Để học sinh lớp 2 đọc đúng câu (nghĩa là ngắt, nghỉ hợp lí) tôi đã tiến hành
theo các bước sau:
- Trước hết tôi thường dùng phương pháp giảng giải để cắt nghĩa cho các em
thấy rõ tầm quan trọng của việc đọc đúng.
- Trước khi dạy một bài Tập đọc cụ thể, tôi dự tính những chỗ học sinh hay
ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyện ngắt giọng.
Ví dụ: Bài “Có công mài sắt có ngày nên kim” học sinh thường đọc nghỉ
câu dài như sau:
12
Mỗi khi cầm /quyển sách cậu chỉ đọc /vài dòng đã ngáp / ngắn ngáp dài
rồi bỏ dở.//
Nếu các em ngắt, nghỉ như thế này thì sẽ không hiểu được nội dung của câu văn.
Tôi dùng các kí hiệu (/) là ngắt, (//) là nghỉ và hướng dẫn các em cần phải ngắt,
nghỉ đúng trong câu này như sau:
Mỗi khi cầm quyển sách,/ cậu chỉ đọc vài dòng / đã ngáp ngắn ngáp
dài,/ rồi bỏ dở.//
Khi các em đọc đúng được câu trên thì các em hiểu được nội dung của câu này
là cậu bé rất lười học. Cầm quyển sách cậu chỉ đọc được vài chữ là bỏ dở.
Trong khi học sinh đọc các bài thơ thì tôi lưu ý về cách ngắt nhịp thơ, vì
theo dự tính khi đọc học sinh sẽ ngắt là:
Ví dụ: Bài “Mẹ”
Lặng rồi cả / tiếng con ve//
Con ve cũng mệt vì hè / nắng oi//
Nhà em vẫn / tiếng ạ ời//
Kẽo cà tiếng võng mẹ / ngồi mẹ ru//
Nếu như các em ngắt nhịp thơ như trên thì các em sẽ không hiểu được ý của
đoạn thơ là gì nên khi tìm hiểu bài các em sẽ không nắm được nội dung của bài
thơ. Vì vậy khi đọc các câu thơ trên các em cần phải ngắt nhịp như sau:
Lặng rồi / cả tiếng con ve//
Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi//
Nhà em / vẫn tiếng ạ ời//
Kẽo cà tiếng võng / mẹ ngồi mẹ ru//
Nếu ngắt đúng như vậy sẽ giúp người nghe hiểu ngay ý thơ cần diễn đạt là:
Đêm hè rất oi bức, tiếng ve lặng đi vì ve cũng mệt trong đêm hè oi bức mà mẹ
13
vẫn thức để đưa võng hát ru cho con ngủ. Qua đó đã chứng tỏ tình thương yêu
bao la của mẹ dành cho con, mẹ đã hết lòng vì con.
Việc ngắt cũng phải phù hợp với dấu câu, nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở
dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối
câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với
câu cầu khiến cần nhấn giọng để thấy rõ nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra
cần phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu.
Như vậy ngắt giọng đúng, dạy đọc đúng là nhiệm vụ của việc dạy tập đọc
và cũng là phương tiện để học sinh chiếm lĩnh văn bản đọc. Nếu các em biết
ngắt giọng đúng thì sẽ giúp các em lĩnh hội được kiến thức dễ dàng hơn.
6. Rèn kĩ năng đọc đúng giọng đọc
Đây là một kĩ năng khó đối với học sinh lớp 2 đặc biệt là đối với học
sinh có giọng đọc yếu. Để đọc đúng giọng đọc của từng nhân vật tôi hướng dẫn
các em đọc đúng giọng của các kiểu câu kể, câu hỏi, câu cảm.
- Với câu kể cần phải đọc với ngữ điệu kể (nhấn giọng những từ ngữ quan
trọng làm nổi bật nội dung, ý nghĩa của bài)
Ví dụ: Khi đọc câu: “Ở lớp cũng như ở nhà, bé Hà được coi là một cây sáng
kiến.” Trong bài: “Sáng kiến của bé Hà” tôi đã hướng dẫn các em như sau:
Tôi gạch chân dưới từ cần nhấn giọng ở trong câu, sau đó đọc mẫu tiếp theo
gọi nhiều học sinh đọc và học sinh khác nhận xét.
Ở lớp cũng như ở nhà, bé Hà được coi là một cây sáng kiến
- Với câu cảm cần hạ giọng và kéo dài giọng ở cuối câu, có đọc được như
thế thì mới thể hiện được nội dung của bài.
Ví dụ: Bài “Con chó nhà hàng xóm” tôi hướng dẫn học sinh câu sau:
Con nhớ Cún, mẹ ạ!
Tôi giới thiệu cho học sinh biết: khi kí hiệu mũi tên ( ) là đọc hạ giọng, mũi tên
( ) là đọc cao giọng. Sau đó tôi đó hướng dẫn các em luyện đọc như sau: GV
đọc mẫu, gọi HS học tốt đọc lại và cho các em khác lần lượt đọc, GV nhận xét.
14
- Câu cầu khiến cần phải nhấn giọng để thấy rừ nội dung cầu khiến khác
nhau.
Ví dụ: Bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió”
Mở cửa ra!
- Câu hỏi cần phải đọc cao giọng ở cuối câu.
Ví dụ: Bài: “Cò và Cuốc”
Khi làm việc, ngại gì bẩn hở chị ?
Để các em đọc đúng giọng đọc các kiểu câu tôi đó tiến hành đọc mẫu yêu
cầu học sinh lắng nghe, cho học sinh đọc lại nhiều lần và yêu cầu học sinh khác
nhận xét.
Khi học sinh đọc đúng giọng đọc của các kiểu câu tôi tiếp tục hướng
dẫn các em đọc đúng giọng đọc của các nhân vật. Học sinh biết phân biệt được
giọng đọc giữa lời kể chuyện và lời các nhân vật .
Ví dụ: Bài: “Mẩu giấy vụn” học sinh phân biệt được :
- Lời người dẫn chuyện: đọc giọng nhẹ nhàng, vui.
- Lời cô giáo: đọc giọng nghiêm túc.
- Lời học sinh: đọc giọng hồn nhiên.
Học sinh đọc đúng giọng đọc của các nhân vật tạo cho các em sự tự tin và
thích thú khi đọc các bài tập đọc có giọng đọc của các nhân vật.
* Sau khi rèn cho học sinh đọc đúng tiếng từ, câu dài hay ngắt nhịp thơ,
tôi đã dành thời gian tổ chức trò chơi vào cuối tiết học (nếu còn thời gian) để tạo
không khí vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng. Các trò chơi được tổ chức dưới các
hình thức sau:
- Thi đọc nhanh, thuộc giỏi.
- Thi đọc tiếp sức.
- Thả thơ.
- Đọc thơ truyền điện.
- Đóng kịch.
- Chọn người uyên bác.
15
- Kể lại cái đã đọc (áp dụng cho từng bài đọc) để giúp các em thể hiện
bằng lời, bằng ngữ điệu và tỏ rõ thái độ của mình đối với điều đã học. Đây chính
là dịp các em rèn cách sử dụng vốn từ, ngôn ngữ làm sống lại cách diễn đạt có
hình ảnh theo cách suy nghĩ của riêng mình và phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
Sau khi học sinh kể xong giáo viên cần chú ý sửa từ, sửa câu và chính tả.
Ví dụ: Bài Bé Hoa - Tiếng Việt 2 - Tập 1.
Sau khi học xong bài tập đọc, tôi cho học sinh dựa vào những hiểu biết
của mình kể lại cho cả lớp nghe về gia đình bạn Hoa.
Ở lớp, đến giờ tập đọc tôi thường chú ý hơn đến các em đọc sai. Cho học
sinh nghe và nhận xét giọng đọc của bạn để rút ra cách đọc đúng và sai cho bản
thân. Cuối cùng tôi kết luận và hướng cách sửa chữa để về nhà các em luyện đọc
đúng. Cuối tuần tôi đều có phần thưởng cho các em học sinh có giọng đọc hay,
đúng.
7. Rèn đọc cho học sinh ngoài giờ chính khóa.
Ngoài việc rèn đọc cho học sinh trong các tiết học chính trên lớp tôi còn
khuyến khích các em luyện đọc mọi lúc mọi nơi:
+ Đọc ở nhà: Ngay từ đầu năm tôi đã thông qua việc họp phụ huynh học
sinh, tôi đã đặt vấn đề bàn bạc cụ thể với phụ huynh học sinh, vạch ra kế hoạch
hoạt động ở trường và ở nhà cho học sinh một cách khoa học, nhằm tạo sự phối
hợp nhịp nhàng, có hiệu quả giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục học sinh
nói chung và dạy học nói riêng. Qua đó phụ huynh nắm bắt được tầm quan trọng
của việc đầu tư về mọi mặt cho con em mình ngay từ đầu năm học. Đồng thời
để phụ huynh thấy vị trí và tầm quan trọng của môn học, đặc biệt là môn Tiếng
Việt và nhăc nhở các em luyện đọc thường xuyên, mua thêm sách , truyện cho
học sinh đọc thêm.
+ Ở thư viện: Tôi chỉ đạo cho nhân viên thư viện lên kế hoạch, tổ chức
các buổi đọc sách cho học sinh tại thư viện; bản thân tôi cùng tham gia các buổi
đọc cùng học sinh lớp 2. Đây vừa là biện pháp rèn đọc vừa giáo dục văn hóa đọc
cho học sinh.
16
+ Sinh hoạt ngoài giờ: Tổ chức các trò chơi mang tính chất luyện đọc...Ví
dụ: tổ chưc hình thức " Đọc cho nhau nghe" trong các giờ ra chơi, từng nhóm
học sinhđến thư viện xanh luân phiên nhau đọc sách cho cả nhóm nghe. Em nào
đọc chưa tốt sẽ phải tự luyện đọc nhiều hơn để có thể đọc cho các bạn nghe;
giao cho một bạn nhóm trưởng theo dõi, hướng dẫn nhóm.; tổ chức thi đọc mỗi
tháng một lần trong lớp, em nào đọc tốt sẽ được thưởng....
2.5. Hiệu quả
Qua việc áp dụng những biện pháp cải tiến như trên trong hơn một học kỳ
luyện đọc liên tục tôi thu được kết quả thật bất ngờ. Qua quá trình dạy học
tôi thấy các em hứng thú học trong tiết Tập đọc, chất lượng tiết
dạy được nâng lên rõ rệt. nhiều em đọc lưu loát, tiến bộ vượt
bậc. Điều đó được thể hiện rừ qua kết quả bài kiểm tra khảo sát
giữa kỳ hai của lớp tôi như sau:
Tổng số
học sinh
20em
Đọc đúng mẫu
Ngắt chưa đúng
Đọc sai âm đầu, vần
SL
TL
SL
TL
SL
TL
13em
65%
5em
25%
2em
10%
Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy phương pháp tôi thực nghiệm đã
đạt được kết quả đáng kể. Thực tế trên lớp tôi thấy học sinh tiến bộ hẳn lên
không những ở phân môn Tập đọc mà còn ở những phân môn học khác. Các em
cảm thấy mạnh dạn, tự tin phấn khởi hơn khi vào tiết học. Từ kết quả trên tôi
khẳng định con đường tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng là đúng, đem lại kết quả
khả quan trong giảng dạy. Từ một lớp đọc chậm qua một thời gian được rèn
luyện nay đã đọc tốt hơn nhiều so với đầu năm. Đặc biệt sau mỗi lần kiểm tra,
kết quả đạt được đã cao hơn, có được kết quả như vậy là do đọc tốt kéo lên. Khi
đọc tiến bộ, các em ham đọc, ham tìm hiểu thì các em tỏ ra hiểu biết hơn, ngoan
hơn, nên chất lượng về đạo đức cũng cao hơn. Đây là một trong những thành
17
công của tôi trong quá trình vận dụng phương pháp mới vào hướng dẫn học môn
Tập đọc và nhất là rèn đọc đúng cho học sinh lớp 2.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để rèn cho học sinh đọc tốt – học tốt phân môn Tập đọc cũng như các
phân môn học khác, bản thân giáo viên phải là người có kỹ năng mà mình đòi
hỏi học sinh có được. Nghĩa là muốn học sinh đọc đúng thì trước hết giáo viên
viên phải đọc chính xác, giọng chuẩn và có trình độ mới thấy được cái sai của
học sinh để sửa lại cho đúng. Bởi một lí do đơn giản là học sinh tiểu học hay bắt
chước mẫu, cô làm đúng trò sẽ làm theo đúng và ngược lại. Do đó trước khi dạy
một bài học nào nhất thiết giáo viên phải chuẩn bị chu đáo từ giáo án tới đồ
dùng trực quan. Lời lẽ giản dị, trong sáng để gây hứng thú học tập cho các em.
Đọc đúng thật sự là một nhu cầu to lớn của người đi học, đọc để đến Với những
hiểu biết cao hơn, vươn đến những thành tựu trí thức cao hơn và nhất là trong
thời đại văn minh hiện nay thì việc đọc ở mỗi con người không thể thiếu được.
Muốn học sinh đọc đúng thì cần phải làm thế nào để học sinh thấy được tầm
quan trọng của nó. Đưa ra cho học sinh thấy được lợi ích khi đọc đúng. Khi học
sinh đã thích đọc thì vai trò của người giáo viên là uốn nắn, nâng đỡ, sửa sai,
bằng nhiều hình thức như khảo sát, kiểm tra, động viên, khen thưỏng. Mặt khác
giáo viên phải thường xuyên kiểm tra giọng đọc của học sinh. Khi dạy không
những rèn đọc đúng mà phải chú ý đến luyện đọc hay, diễn cảm. Muốn học sinh
mình đạt được những kỹ năng trên, trong mỗi bài đọc, bài kiểm tra giáo viên cần
đánh giá, khen ngợi kịp thời, cần lấy những gương tốt để nêu lên cho các em học
tập lẫn nhau. Giống với câu tục ngữ: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học.”
Bên cạnh đó giáo viên phải thay đổi nhiều hình thức dạy học phong phú như tổ
chức trò chơi, thi đọc, giã ngoại, tham quan các di tích lich sử ở địa phương....
để gây hứng thú cho các em tích cực đọc; Ngoài ra muốn tạo cho học sinh một
cảm giác thoải mái khi học, tôi luôn chú ý đến môi trường lớp học, bàn ghế ngồi
học, vệ sinh cá nhân luôn sạch sẽ. Sử dụng sách giáo khoa, tài liệu một cách
18
khoa học; Phối hợp với phụ huynh tham gia vào quá trình luyện đọc cho các
em...
Sau một thời gian ngắn tôi đã nghiên cứu và hoàn thành đề tài nhằm đưa
ra một số biện pháp : “Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2” trong phân
môn Tập đọc bước đầu đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên
không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong được sự giúp đỡ
góp ý của Hồi đồng khoa học, các cấp lãnh đạo để đề tài hoàn thiện hơn.
3.2. Kiến Nghị
Để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh tiểu học. Tôi có một số kiến đề
nghị sau:
- Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề
dạy phân môn Tập đọc.
- Nhà trường cần cung cấp thêm một số đồ dùng trực quan và tài liệu phục
vụ cho dạy phân môn Tập đọc.
- Phòng giáo dục cần tổ chức lựa chọn các sáng kiến đạt giải cao cấp
huyện , tỉnh, quốc gia để các trường áp dụng thức tế.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ mà bản thân đúc rút được qua quá trìnhgiảng
dạy và chỉ đạo chuyện môn của tôi trong việc Rèn kỹ năng đọc đúng cho học
sinh lớp 2, kính mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học để SKKN của
tôi được hoàn thiện hơn
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
19
Nguyễn Thị Lâm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - GS -TS Lê Phương Nga.
2) Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 của các tác giả - Nhà xuất bản Giáo dục
3) Sách thiết kế bài giảng Tiếng Việt 2 của các tác giả - Nhà xuất bả Hà Nội
4) Các tạp chí giáo dục - thời đại, chuyên đề giáo dục Tiểu học.
20
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.
TT
1
2
3
Kết quả
Cấp đánh giá,
đánh
Năm học
xếp loại
giá xếp
đánh giá xếp
( Phòng, Sở,
loại
loại
Tỉnh, …)
( A, B
hoặc C)
Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp giúp giáo viên
nâng cao hiệu quả giảng dạy
PhòngGD&ĐT
toán “ So sánh phân số” ở lớp
4,5
Một số biện pháp giúp giáo viên
nâng cao hiệu quả giảng dạy
Sở GD&ĐT
toán “ So sánh phân số” ở lớp
4,5
B
2011 - 2012
C
2011 - 2012
Giúp học sinh lớp 5 học tốt dạng
toán Chuyển đổi đơn vị đo lường
Phòng
GD&ĐT
B
Giúp học sinh lớp 5 học tốt dạng
toán Chuyển đổi đơn vị đo lường
Sở GD&ĐT
B
Phòng
GD&ĐT
A
2014 – 2015
2014 – 2015
Rèn kỹ năng đọc đúng cho học
sinh lớp 2 ”.
21
2017 - 2018
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KỸ NĂNG ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 2
Người thực hiện: Nguyễn Thị Lâm
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Lam - Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Tiếng Việt.
MỤC LỤC
22
Tên mục
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. Nội dung
4
2.1. Cơ sở lí luận của việc tập đọc
4
2.2 Thực trạng của việc dạy Tập đọc lớp 2
4
2.3.Kết quả và những nguyên nhân của thực trạng
6
2.4 Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
7
1. Phân loại đối tượng học sinh để kềm cặp, bồi dưỡng
7
2. Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy.
7
3. Nắm vững quy trình dạy tập đọc
8
4. Rèn kĩ năng đọc đúng tiếng, từ
10
5. Rèn kĩ năng đọc đúng câu
12
6. Rèn kĩ năng đọc đúng giọng đọc
14
7. Rèn đọc cho học sinh ngoài giờ chính khóa
16
2.5 .Hiệu quả
17
3 . Kết luận và kiến nghị
18
3.1. Kết luận
18
3.2. Kiến nghị
19
MỤC LỤC
23
24