Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng nhận biết phép tu từ so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
Số
TT

Mục

Nội dung

Trang

A

MỞ ĐẦU

01

1

Lí do chọn đề tài

1

02

2

Mục đích nghiên cứu

2

03



3

Đối tượng nghiên cứu

2

04

4

Phương pháp nghiên cứu

2

B

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

05

I

Cơ sở lí luận

3

06

II


Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến KN

3-5

07

III

Giải pháp đã sử dụng để gải quyết vấn đề

5-18

08

IV

Hiệu quả

19

C

KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ:

9

3.1

Kết luận


19-20

10

2

Kiến nghị

20

A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
“Hiền tài là nguyên khí Quốc gia”, đúng như câu nói nổi tiếng của vị
cố Tiến sĩ triều Lê -Thân Nhân Trung, đã được sử sách ghi tạc và mãi là
chân lí cho mọi thời đại, bởi nó khẳng định: “ đức- tài” - một kho báu vô giá
0


của của đất nước, dân tộc, con người. Vấn đề chăm lo, nuôi dưỡng và đào
tạo nhân tài luôn là mục tiêu đặt hàng đầu và vai trò của giáo dục là vô cùng
to lớn. Những con người có đủ đức, đủ tài luôn là kho báu của Tổ quốc.
Việc xây dựng và phát triển kho báu ấy chính là mục tiêu của giáo dục.
Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và Hội nhập quốc tế, mục
tiêu của giáo dục đề ra là phải đưa nền giáo dục nước nhà theo kịp nền giáo
dục tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó Tiểu học
là cấp học nền tảng, là cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách con người. Để đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng được nhu cầu của
đất nước trong mỗi giai đoạn, người giáo viên Tiểu học cần tổ chức cho học
sinh lĩnh hội được những tri thức, kĩ năng, thái độ cần thiết giúp các em làm

hành trang học tiếp lên các cấp trên, hoà nhập vào cuộc sống xã hội. Vốn
kiến thức đó đòi hỏi phải được tìm hiểu ở tất cả các môn học mà một trong
số đó là phân môn Luyện từ và câu.
Biện pháp tu từ so sánh đã chính thức đưa vào phân môn Luyện từ
và câu lớp 3. Điều đó cũng khẳng định vai trò trách nhiệm của mỗi giáo
viên trong việc hình thành cho học sinh kĩ năng nhận biết và sử dụng biện
pháp tu từ so sánh. Giúp học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện
để học sinh phát triển một cách toàn diện. Đồng thời, giúp giáo viên có được
các phương pháp rèn luyện học sinh về kỹ năng sử dụng phép tu từ so
sánh. Đối với học sinh Tiểu học, ngôn ngữ của các em còn nghèo, các em
mới chỉ dừng lại ở việc cô hỏi sao thì trò trả lời vậy, thậm chí các em còn
nói chưa thành câu, nói trống không. Do vậy, việc rèn cho các em cách diễn
đạt đúng, hay, có hình ảnh trong khi nói và viết đòi hỏi người giáo viên phải
tâm huyết với nghề, uốn nắn, trau chuốt cho học sinh từng li từng tí. Giúp
học sinh biết, vận dụng những điều đã học vào thực tế nói và viết để vốn từ
của các em ngày càng giàu hơn, các em biết sử dụng Tiếng Việt một cách
tinh tế nhất. Muốn như vậy các em phải nắm chắc các chức năng của phép
tu từ so sánh.Vì vậy, tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra “ Một số biện pháp
rèn kĩ năng nhận biết phép tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và
câu lớp 3”.

2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp học sinh tiểu học hiểu được Luyện từ và câu là phân môn thực
hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là giúp học sinh tìm từ ngữ, hiểu được
vốn từ, từ đó mở rộng vốn từ và vận dụng vào để đặt câu...

1


- Giúp cho học sinh có lòng yêu phân môn Luyện từ và câu, thường

xuyên có thói quen tìm hiểu, trau dồi ngôn ngữ, hiểu và mở rộng vốn từ ngữ
phong phú..
- Bản thân tôi đi sâu tìm hiểu thực tế, thực trạng việc dạy, học luyện từ và
câu để từ đó giúp học sinh học tốt luyện từ và câu, cụ thể là nhận biết phép
tu từ so sánh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu và tìm những biện pháp để giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ
năng nhận biết phép tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Nghiên cứu tài liệu:
- Nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt tập 1, Tập 2; sách giáo viên.
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, ... có liên quan đến nội
dung đề tài.
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, từ điển và các loại sách tham khảo.
b. Nghiên cứu thực tế:
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung các các tiết dạy có
liên quan đến phép tu từ so sánh.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (Thông qua các tiết dạy của
bản thân và giáo viên trong tổ để kiểm tra tính khả thi của đề tài).
- Đúc kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.

2


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dạy Tiếng Việt không chỉ dạy tri thức mà quan trọng là dạy kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt, gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ cho việc nói, viết của học sinh.
Con người thời đại mới không chỉ cần khả năng diễn đạt đúng, chính xác
những gì mình cần nói mà còn phải có khả năng diễn đạt hay, hấp dẫn và có

sức thuyết phục cao. Biện pháp so sánh được đưa vào dạy đã phần nào thể
hiện rõ quan điểm trên. Phép tu từ so sánh là một vấn đề mới và khó đối với
học sinh lớp 3. Mặc dù có cấu trúc đơn giản và gần gũi với học sinh, nhưng
nó lại là một hình thức, một phương diện diễn đạt nghệ thuật mà muốn có nó
đòi hỏi chúng ta phải trải qua một quá trình tư duy - thao tác tư duy - tưởng
tượng - liên tưởng - quan sát… Và để có được những điều kiện trên đòi hỏi
con người phải có vốn kinh nghiệm sống, càng nhiều vốn kinh nghiệm sống
bao nhiêu thì khả năng liên tưởng, tưởng tượng ra những hình ảnh so sánh
càng phong phú, thú vị và độc đáo bấy nhiêu. Học sinh Tiểu học có đủ điều
kiện cần thiết để có thể tiếp nhận và sử dụng so sánh trong hoạt động nói,
viết của bản thân. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta phải tổ chức và khởi
nguồn như thế nào để các em có thể phát huy được tối ưu khả năng học tập
tích cực của mình bằng cách khám phá, tự chiếm lĩnh kiến thức, xử lý tình
huống một cách nhanh nhẹn, chính xác. Mặt khác, so sánh có khả năng khắc
họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ, tạo nên những hình ảnh miêu tả
sinh động. So sánh được coi là một trong những phương thức tạo hình, gợi
cảm hiệu quả nhất, có tác dụng lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành
và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của
con người, so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể, diễn đạt
được mọi sắc thái biểu cảm. Với những bài thơ, bài văn viết cho thiếu nhi,
các tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh tu từ, dùng hình ảnh này để nói lên
hình ảnh khác, nhằm giúp các em hiểu và cảm nhận được các bài thơ, bài
văn đều bắt nguồn từ những hình ảnh cụ thể trong cuộc sống. Từ đó, giúp
học sinh có khả năng và thói quen quan sát, cảm nhận cuộc sống xung
quanh mình vô cùng phong phú, sẽ tạo hứng thú cho các em khi viết văn và
ngày càng yêu quý sự “ giàu có của Tiếng Việt”.
Vì vậy làm thế nào để dạy tốt phép tu từ so sánh cho học sinh lớp 3
là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Về phía giáo viên:

3


- Giáo viên dạy theo sách giáo viên và sách giáo khoa mà thiếu sự đầu
tư thêm. Đôi khi còn thả nổi việc luyện tập kĩ năng thực hành cho học sinh.
- Trong khi dạy, giáo viên chưa định hướng cho học sinh nhận biết về
phép tu từ so sánh.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn ôm đồm, sợ học sinh không
hiểu bài nên còn nói nhiều, giảng giải nhiều.
- Đôi lúc giáo viên còn nặng nề về việc truyền thụ kiến thức một cách
áp đặt, chưa phát huy tinh thần tự chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.
- Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
2. Về phía học sinh:
- Một số học sinh nắm kiến thức chưa vững, chưa sâu, còn mơ hồ về những
hình ảnh so sánh qua hệ thống bài tập.
- Phần lớn các em còn rất lúng túng khi tạo lập một câu nói có hình ảnh so
sánh.
- Lứa tuổi các em còn quá nhỏ, do đó vốn từ ngữ của các em còn quá ít,
trong khi đó phân môn Luyện từ và câu lại đòi hỏi các em phải có vốn từ
phong phú để so sánh trong bài học.
- Một số em còn rụt rè, nói nhỏ do nhút nhát, thụ động, thiếu tự tin, nói
viết chưa trọn câu, vốn từ ngữ tiếp thu qua các bài học, môn học chưa cao.
- Khi học xong, học sinh thường không có ý thức vận dụng biện pháp tu
từ so sánh trong khi nói và viết, nhất là trong khi tạo lập văn bản.
3. Kết quả của thực trạng trên:
Qua kiểm tra bằng cách kiểm tra miệng, kiểm tra viết và hỏi đáp về
kỹ năng nhận biết phép tu từ so sánh của học sinh lớp 3D và thu được kết
quả như sau:

Tổng số học sinh lớp 3D: 30 em.
Lỗi về vận dụng phép so
sánh

Lỗi nhận diện phép so sánh

Nhận diện sự
vật so sánh

Nhận diện các
từ so sánh

Đạt
yêu
cầu

Chưa
đạt

Đạt
yêu
cầu

Chưa
đạt

12

18


14

16

Nhận diện sự
vật được so
sánh

Đạt
yêu
cầu

12

Chưa
đạt

18

Chưa tạo được
Chưa cảm
hình ảnh so
nhận được giá
sánh hoặc
trị của phép
hình ảnh so
so sánh
sánh chưa hợp

Đạt

yêu
cầu

10

Chưa
đạt

Đạt
yêu
cầu

Chưa
đạt

20

8

22

4


Thực trạng trên cho thấy số học sinh nhận biết và sử dụng chưa tốt phép
tu từ so sánh khá cao.
III/ GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Dạy đúng quy trình:
Để giúp học sinh học tốt dạng bài tu từ so sánh. Bất cứ một bài tập
nào, giáo viên cần phải yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau:

- Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài, phân tích yêu cầu của
bài
- Học sinh làm bài.
- So sánh đối chiếu kết quả của học sinh với đáp án (Giáo viên giúp
học sinh lí giải được đáp án của mình ).
Ví dụ : Bài tập 2 - Sách Tiếng Việt 3 - tập I (Trang 8): Tìm sự vật được so
sánh trong khổ thơ sau:
Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
- Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề bài.
- Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật.
- Học sinh gạch chân bằng bút chì dưới từ chỉ sự vật vào SGK
- Học sinh trình bày ( Giáo viên có thể hỏi vì sao để học sinh giải thích
lí do tại sao em chọn từ đó ).
- Giáo viên đưa ra đáp án.
Sự vật so sánh
Cái dấu hỏi

Từ so sánh
như

Sự vật so sánh
vành tai nhỏ

2. Dạy phép tu từ so sánh tích hợp qua các môn học khác:
a. Dạy tích hợp trong phân môn Tập đọc:
Khi dạy phân môn tập đọc, giáo viên cần tích hợp, lồng ghép phép tu từ
so sánh:

Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập ITrang 7. Trong bài này có hình ảnh so sánh như: “ Hai bàn tay em như hoa
đầu cành”, giáo viên giúp học sinh tự phát hiện ra hình ảnh so sánh trong
câu thơ, nhằm tạo hứng thú cho tiết "Luyện từ và câu".
Ví dụ 2: Khi dạy bài Tập đọc “Cửa Tùng”, để giải thích từ ngữ (chiếc
thau đồng, bờ biển Cửa Tùng) giáo viên tổ chức cho học sinh tìm những
câu văn có sử dụng biện pháp so sánh. Học sinh sẽ rất dễ dàng tìm ra câu:
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển.
- Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi
mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
5


Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất
lâu và vận dụng tốt trong việc viết văn của mình .
b. Dạy tích hợp trong môn Tự nhiên và xã hội:
Khi dạy bài “Các thế hệ trong gia đình’’ Giáo viên có thể cho học
sinh tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về tình cảm của những
người thân trong gia đình có sử dụng biện pháp so sánh như:
- Anh em như thể tay chân.
- Con hơn cha là nhà có phúc.
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
c. Dạy tích hợp qua môn Toán:
Tích hợp biện pháp so sánh khi dạy Toán qua các dạng về nhiều hơn, ít
hơn, Điền dấu < , >, =, So sánh Số lớn gấp mấy lần số bé, Số bé bằng một
phần mấy số lớn, …
3. Các dạng bài tập về nhận biết phép tu từ so sánh ở lớp 3:
Bài tập về phép tu từ so sánh lớp 3 được chia làm 2 dạng:

a. DẠNG 1 : BÀI TẬP THEO MẪU (BÀI TẬP NHẬN BIẾT)

Giúp học sinh nhận biết các từ chỉ sự vật so sánh. Dạng bài tập này rất
đơn giản. Chủ yếu là nhận biết các sự vật so sánh thông qua các bài tập.
Dạng này chiếm đa số trong chương trình. Nó được xây dựng dựa trên 4 mô
hình sau:

6


b. DẠNG 2: BÀI TẬP SÁNG TẠO

Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn. Tuy nhiên, dạng bài
tập này trong sách giáo khoa rất ít và được chia thành các dạng sau đây:

4. Biện pháp dạy từng dạng bài tập cụ thể:
4. 1. DẠNG 1: BÀI TẬP THEO MẪU (BÀI TẬP NHẬN BIẾT)

Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết phép tu từ so sánh
vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có thủ thuật khi hướng dẫn bài mới,
để học sinh dễ hiểu dựa vào các mô hình như ta vừa phân tích.
a. MÔ HÌNH 1: So sánh Sự vật - Sự vật:

Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các
từ so sánh: như, là, giống, tựa, chẳng bằng, ...
* Tìm hiểu dạng A như B:
Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và
xuyên suốt đến cuối chương trình.
Ví dụ 1: Bài 2 - Sách Tiếng Việt 3 tập 1 - trang 8): Tìm sự vật được so sánh
với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành. (Huy Cận)

7


Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
(Vũ Tú Nam)
Cánh diều như dấu “á”
Ai vừa tung lên trời. (Phạm Như Hà)
Khi dạy bài tập này, tôi đã thực hiện các bước sau:
- Tổ chức cho học sinh đọc đề. Tìm hiểu xem đề bài yêu cầu gì?
- Để làm tốt bài tập này, tôi đã tổ chức một số phương pháp dạy học
nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh, giúp các em tự phát hiện những từ
chỉ sự vật được so sánh với nhau trong từng câu thơ, câu văn.
- Với ví dụ trên để học sinh nắm và khắc sâu được bài học tôi đã đưa ra
hai phương án:
+ Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên
bằng bút chì vào sách giáo khoa.
- Trong phương án này tôi lựa chọn phương pháp động não nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh bằng cách tôi yêu cầu cả lớp suy nghĩ tìm và
gạch chân dưới những sự vật được so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới
đây:
Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành. (Huy Cận)
Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
(Vũ Tú Nam)
Cánh diều như dấu “ á”
Ai vừa tung lên trời.
(Phạm Như Hà)
- Học sinh làm xong tôi cho các em trình bày ý kiến của mình trước lớp các bạn khác theo dõi để nhận xét và bổ sung ý kiến càng nhiều càng tốt.
Khi học sinh trình bày tôi đã liệt kê tất cả ý kiến phát biểu của các em và sau
đó tôi cùng các em phân loại ý kiến để chọn ra ý đúng nhất.

Trong quá trình liệt kê phân loại ý kiến tôi đã kết hợp nêu câu hỏi:
H. Muốn so sánh chúng ta phải có mấy sự vật? ( Có hai sự vật.)
H. Đó là sự vật nào?
- Sự vật 1: Hai bàn tay em
- Sự vật 2: Hoa đầu cành
H. Vì sao hai bàn tay em được so sánh với hoa đầu cành?
(Vì hai bàn tay của bé nhỏ, xinh như một bông hoa.)
H. Vì sao cánh diều lại so sánh được với dấu á?
(Vì cánh diều và dấu á đều cong cong giống nhau.)
+ Phương án 2: Làm trên phiếu học tập.
Ở phương án này tôi cũng khai thác triệt để phương pháp dạy học tích
cực bằng cách tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm bốn em.
- Giáo viên phát phiếu học tập cho các nhóm. Các nhóm điền vào phiếu.
8


- Các nhóm trao đổi thảo luận trong nhóm của mình.
- Các nhóm cử đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình:
Câu
Sự vật 1
a
Hai bàn tay em
b
Mặt biển
c
Cánh diều

Từ so sánh
Sự vật 2
như

hoa đầu cành.
Như
tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
Như
dấu “ á”

+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
Khi học sinh trình bày, nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn
tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như
"tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên phải hướng cho học sinh tìm xem
các sự vật so sánh này có điểm nào giống nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
Giáo viên chốt ý cho cả hai phương án trên bằng tranh ảnh kết hợp
với sơ đồ tư duy giúp học sinh khắc sâu kiến thức vừa học.
Hai bàn tay em như hoa đầu cành.

Hai bàn
tay em

như

hoa đầu
cành

9



Mặt biển như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.

tấm thảm khổng lồ
bằng ngọc thạch

Mặt
biển

n
h
ư

Cánh diều như dấu “ á”

Cánh diều
như
dấu “á”

* Tìm hiểu dạng A là B:
Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh với câu giới
thiệu. Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ”
Ví dụ 2: (Bài 1- Sách Tiếng Việt tập 1 - trang 24, 25): Tìm các hình
ảnh so sánh trong những câu thơ, câu văn dưới đây:
Khi dạy bài này tôi cũng thực hiện các bước đọc đề và phân tích đề như ở
VD1.
- Với bài tập này, tôi cũng lựa chọn phương pháp động não, để phát huy
tính tích cực của học sinh bằng cách tổ chức cho học sinh tự xác định từ chỉ
sự vật được so sánh trong từng câu thơ, câu văn và dùng bút chì gạch dưới
những hình ảnh so sánh có trong từng câu văn, câu thơ.

- Học sinh làm bài xong tôi cho các em trình bày ý kiến của mình trước
lớp - các bạn khác theo dõi để nhận xét và bổ sung ý kiến càng nhiều càng
tốt. Khi học sinh trình bày tôi cũng liệt kê tất cả ý kiến phát biểu của các em
và sau đó tôi cùng các em phân loại ý kiến để chọn ra ý đúng nhất.
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao
10


Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.( Thanh Hải)
b) Em u nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm (Tơ Hà)
c/ Mùa đơng : Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè :
Trời là cái bếp lò nung (Lò Ngân Sủn)
d) Những đêm trăng sáng, dòng sơng là một đường trăng lung linh dát vàng.
Đất Nước Ngàn Năm
- Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự
vật được so sánh bằng hình ảnh trực quan.
Giáo viên cũng chốt ý bằng hình ảnh kết hợp với sơ đồ tư duy để
giúp học sinh khắc sâu hơn những hình ảnh so sánh trên.
Mắt hiền sáng tựa vì sao

Mắt hiền
sáng

tựa

sao


Hoa xao xuyến nở như mây từng chùm

Hoa xao
xuyến nở

mây
từng
chùm

như

.

11


Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh.

Trôøi mùa
đông

cái
tủ
ướp
lạnh



- Trời mùa hè nóng như bếp lửa lò nung.


cái bếp lò
nung


Trôøi
mùa hè

12


Ở cả hai ví dụ này tôi đã tổ chức dạy phân hóa đối tượng bằng hình thức
sau:
- Học sinh khá, giỏi: Tôi tổ chức cho các em tự tìm những sự vật được
so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn.
- Học sinh trung bình, yếu: Tôi sẽ trợ giúp các em bằng những câu hỏi
gợi ý.
Ví dụ: Hai bàn tay em được so sánh với sự vật nào? Mặt biển được so
với sự vật nào? ...
Để giúp học sinh không bị nhầm lẫn giữa câu so sánh với câu giới
thiệu. Tôi đã đưa ra ví dụ và hướng dẫn giúp các em hiểu được cách phân
biệt sau:
Trong câu: Mẹ em là giáo viên (từ “là” trong câu trên có tác dụng
giới thiệu, nên câu này không phải là câu có hình ảnh so sánh. Trong trường
hợp này, giáo viên phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ và của câu).
b. MÔ HÌNH 2: So sánh: Sự vật - Con người.

Dạng của mô hình so sánh này là:
+ A có thể là con người.
+ B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.

* Dạng A như B:
Ví dụ 3: Bài tập 1- Sách Tiếng Việt tập 1 - trang 58: Tìm các hình ảnh
so sánh trong các câu dưới đây:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan. (Hồ Chí Minh)
Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng. (Võ Thanh An)
13


Khi dạy dạng bài tập này tôi đã triển khai phương pháp dạy học tích cực
bằng cách tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm bốn em.
- Giáo viên cũng tổ chức cho học sinh nắm yêu cầu của bài tập.
- Giáo viên phát phiếu học tập cho các nhóm. Các nhóm điền vào phiếu.
- Các nhóm trao đổi thảo luận trong nhóm của mình.
- Các nhóm cử đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình.
Giáo viên cũng trình chiếu tranh ảnh kết hợp với sơ đồ tư duy để
chốt kiến thức cho học sinh, gây sự hứng thú trong học tập cho các em.
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con
người nhưng các em chưa giải thích được "Vì sao?". Chính vì thế, giáo viên
cần phải tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật
và con người, chẳng hạn:
+ "Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi
non đang phát triển đầy sức sống non nớt, chứa chan niềm hy vọng.
+ "Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" phát triển
đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân
trọng.
Trẻ em như búp trên cành.

Trẻ em


như

búp trên
cành

14


Bà như quả ngọt chín rồi.



quả ngọt
chín rồi.

như

Ở bài tập này, tôi cũng kết hợp dạy phân hóa đối tượng bằng cách:
- Với học sinh khá, giỏi tôi tổ chức cho các em đọc yêu cầu đề, phân
tích đề và làm bài.
- Với học sinh, trung bình, yếu tôi cũng đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý
để trợ giúp cho các em.
Ví dụ: Tác giả đã so sánh trẻ em với cái gì?
* Dạng A là B:
Ví dụ 4: Bài tập 1- Sách Tiếng Việt tập 1 - trang 42, 43(phương pháp
dạy như mô hình 1)
- Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc và phân tích đề.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm các sự vật được so sánh trong
những câu thơ trên.

- Giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày trước lớp.
- Giáo viên chốt lại ý đúng.
Giáo viên giúp học sinh hiểu được đây là loại so sánh ngang bằng.
"Ông

buổi trời chiều
Sự vật 1 (người)
Sự vật 2(Sự vật )
Cháu
Sự vật 2 ( người )



ngày rạng sáng"
Sự vật 2 ( Sự vật )

* Dạng A chẳng bằng B:
Ví dụ 5: Bài tập 1c - Sách Tiếng Việt tập 1 - trang 43 : Tìm các hình
ảnh so sánh trong câu :
15


Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời (Trần Quốc Minh)
Dạng bài tập này giáo viên cần tổ chức cho học sinh thực hiện được hai
yêu cầu:
- Xác định sự vật so sánh (ngôi sao - mẹ), (mẹ - ngọn gió)
- Xác định từ so sánh (Chẳng bằng, là)

Khi xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh
so sánh có trong các câu thơ.
c. MÔ HÌNH 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
Mô hình này có 1 kiểu so sánh: A như B
Ví dụ 6 : bài tập 2 - Sách Tiếng Việt 3 tập 1 - Trang 98: Trong các
đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:
+
"Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đập đất" (Trần Đăng Khoa)
+
" Cau cao, cao mãi
Tàu vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi"(Ngô Viết Dinh)
+ Xuồng con đậu quanh thuyền lớn như đàn lợn con nằm
quanh bụng mẹ. Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc
húc vào mạn thuyền mẹ như đòi bú tí.
Dạng bài này, giáo viên cần tổ chức cho học sinh nắm chắc được từ
chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với
nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như".
+ Hoạt động “ vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “ vẫy” tay của con
người.
+ Hoạt động “ đậu” của xuồng con quanh thuyền lớn so sánh với hoạt
động “nằm” quanh bụng mẹ.
+ Hoạt động “ húc húc” của xuồng con vào mạn thuyền mẹ được so sánh
với hoạt động “ đòi” bú tí.
d. MÔ HÌNH 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh:

Mô hình này có 1 kiểu so sánh: A như B
+ A là âm thanh thứ nhất, B là âm thanh thứ hai.
Ví dụ 7: Bài tập 2 - Sách Tiếng 3 Việt tập 1 - trang 117: Tìm những
âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, câu văn dưới đây:
16


Với dạng bài tập này tôi đã tổ chức cho học sinh nhận biết được âm
thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như".
Chẳng hạn:
"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai" (Nguyễn Trãi)
Âm thanh rì rầm của " suối chảy" được so sánh với âm thanh của
"Tiếng đàn cầm" qua từ "như".
Quá trình dạy phép so sánh trong phân môn Luyện từ và câu giáo
viên cần chốt và khắc sâu kiến thức về 3 kiểu so sánh. Đồng thời cung cấp
cho các em dấu hiệu nhận biết các kiểu so sánh là dựa vào từ chỉ quan hệ so
sánh:
- Các từ thường dùng để chỉ quan hệ so sánh ngang bằng: như ; tựa; giống;
là…
- Các từ thường dùng để chỉ quan hệ so sánh hơn: hơn…
- Các từ thường dùng để chỉ quan hệ so sánh kém: chẳng bằng; kém; không
bằng…...
4. 2. DẠNG 2: BÀI TẬP SÁNG TẠO

Giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh.
Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn. Tuy nhiên, dạng bài
tập này trong sách giáo khoa rất ít, tập trung ở cuối chương trình HKI gồm 2
bài tập:
a. Nhìn tranh đặt câu

Ví dụ 8: Bài tập 3/ - Sách Tiếng Việt 3 tập 1 - trang 126: Quan sát từng
cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu có hình ảnh so sánh các sự
vật trong tranh:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc và phân tích yêu cầu đề.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đôi.
- Học sinh hoạt động nhóm đôi để nêu nội dung của bức tranh. Sau đó
yêu cầu học sinh nói cho nhau nghe một số câu có hình ảnh so sánh trong
tranh.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài tập vào vở(cá nhân)

17


Giáo viên trình chiếu tranh và chốt ý.
* Lưu ý: Khi dạy dạng bài này tôi cũng áp dụng hình thức dạy phân hóa
đối tượng học sinh:
+ Với học sinh khá, giỏi tôi yêu cầu các em viết được từ 2 - 3 câu có
hình ảnh so sánh theo nội dung bức tranh.
Ví dụ: Trăng tròn như quả bóng./ Trăng rằm tròn xoe như quả bóng./ …
- Đèn sáng như sao./ Đèn điện sáng như trăng sao trên trời./ …
- Mặt bé tươi như hoa./ Miệng bé cười tươi như hoa./…
- Đất nước ta cong cong hình chữ S./ Hình ảnh nước Việt Nam trên bản
đồ cong cong như hình chữ S./….
+ Với học sinh trung bình, yếu tôi chỉ yêu cầu các em viết 1 câu có
hình ảnh so sánh theo nội dung bức tranh bằng các câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: Giáo viên hỏi: Mặt trăng tròn như cái gì? Hoặc: Mặt trăng tròn được
so sánh với vật gì?
b. Dạng bài tập điền khuyết:
Ví dụ 9: Bài tập 4 - Sách Tiếng Việt tập 1 - trang 126: Tìm những từ
ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống :

a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như...
b.Trời mưa, đường đất sét trơn như...
c. .Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như ....
Ở mỗi câu, tôi cho học sinh xác định sự vật, để học sinh có thể tìm được
những từ so sánh cần điền.
Ví dụ:
a. như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy, như sông như biển
b. như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu ...
c. núi, những ngọn tháp ...
Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, nhất là
các tiết Tiếng Việt (Tăng cường) Giáo viên nên đưa thêm những bài tập
tương tự hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức.
Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu
so sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ so
sánh như:
Tựa, giống, giống như, không thua, không khác (So sánh ngang bằng)
và các từ hơn, kém, thua, chẳng bằng (so sánh hơn kém)

IV. HIỆU QUẢ
18


Qua quá trình tổ chức các hình thức dạy học trên, chất lượng học sinh
đã có nhiều chuyển biến so với đầu năm. Cụ thể đã đạt được kết quả như
sau:
Tổng số học sinh lớp 3D: 30 em.
Lỗi về vận dụng phép so
sánh

Lỗi nhận diện phép so sánh


Nhận diện sự
vật so sánh

Đạt
yêu
cầu

3
0

Chưa
đạt

0

Nhận diện các
từ so sánh

Đạt
yêu
cầu

30

Chưa
đạt

Nhận diện sự
vật được so

sánh

Đạt
yêu
cầu

0

3
0

Chưa
đạt

Chưa tạo được
Chưa cảm
hình ảnh so
nhận được giá
sánh hoặc
trị của phép
hình ảnh so
so sánh
sánh chưa hợp

Đạt
yêu
cầu

0


Chưa
đạt

2
9

Đạt
yêu
cầu

1

2

Chưa
đạt

1

9

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua kinh nghiệm rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho
học sinh lớp 3. Bản thân tôi thấy rằng cần hướng dẫn và rèn cho học sinh
những kỹ năng sau:
* Về phía học sinh:
- Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều
sách báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh, ...
- Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường

sau mỗi tiết Luyện từ và câu dạng này để giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
- Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài và xác định đúng yêu
cầu của đề bài đồng thời phải biết phân biệt chúng thuộc kiểu bài so sánh
dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài.
- Khi quan sát sự vật, cần quan sát thật tinh tế để tìm ra những điểm
giống nhau, những nét tương đồng
* Về phía giáo viên :
- Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy. Định hướng cụ thể phương pháp, hình
thức tổ chức và phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động.
19


- Phải sử dụng đồ dùng, hình ảnh trực quan và trong các tiết dạy không
thể thiếu đồ dùng dạy học (Mô hình, kí hiệu, đồ dùng).
- Hệ thống ngôn ngữ phải trong sáng, gần gũi, dễ hiểu.
- Nếu dự định tổ chức trò chơi học tập thì phải chuẩn bị kĩ. Lường
trước các tình huống sư phạm có thể xảy ra (Học sinh có thể dùng từ thiếu
chính xác, chơi ngẫu hứng, tuỳ tiện, ... )
Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu, tìm tòi bản thân tôi đã đúc rút
được một số kinh nghiệm trong việc rèn kĩ năng nhận biết và sử dụng
Phép tu từ so sánh trong môn luyện từ và câu lớp 3.
Qua việc áp dụng những biện pháp trên tôi thấy kỹ năng nhận biết
phép tu từ so sánh của học sinh lớp tôi dạy đã được nâng lên. Học sinh
không những nhận biết mà còn sử dụng tốt phép tu từ so sánh qua học phân
môn Tiếng Việt trong nhà trường. Góp phần đáng kể vào việc viết văn và
diễn đạt bằng ngôn ngữ của học sinh.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường nên mở hội thảo về các chuyên đề: Làm thế nào để nâng
cao chất lượng phân môn luyện từ và câu cho học sinh tiểu học.
- Phòng GD & ĐT và Sở GD & ĐT nên tổ chức các chuyên đề bồi

dưỡng học sinh các kỹ năng nhận biết và sử dụng các biện pháp tu từ để cho
giáo viên được tham gia học tập.
Đề tài tôi nghiên cứu và thực nghiệm không tránh khỏi những thiếu sót,
tôi rất mong được HĐKH ngành và các bạn đồng nghiệp góp ý để đề tài có
giá trị vào thực tiễn.
Tôi Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Hải Lộc, ngày 22 tháng 5 năm 2018
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Cam kết không copy .
Người thực hiện

Tạ Thị Ngân

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy Tiếng Việt ở tiểu học.
Tác giả: Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Hà Nội 1995
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 3/ tập 1,2 - Nhà xuất bản giáo dục.
3. Sách Tiếng Việt 3/ tập 1,2 - Nhà xuất bản giáo dục.
4. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
5. Tập san giáo dục tiểu học, các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, ...
có liên quan đến nội dung đề tài.

21




×