Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trong các giờ tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.21 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Khái niệm đọc.
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Tập đọc ở Tiểu học.
2.1.3 Mục tiêu của môn Tập đọc ở lớp 5.
2.1.4. Nội dung của môn Tập đọc ở lớp 5.
2.2. Thực trạng việc dạy và học đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5.
2.2.1. Quan điểm của giáo viên về giờ Tập đọc.
2.2.2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc .
2.2.3. Khả năng đọc của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đông Lĩnh B.
2. 3. Một số biện pháp luyện đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trong
giờ Tập đọc.
2.3.1. Chuẩn bị tâm thế cho việc đọc.
2.3.2. Luyện tập lấy hơi và tập thở.
2.3.3. Luyện đọc to.
2.3.4. Luyện đọc đúng..
2.3.5. Luyện đọc diễn cảm.
2.3.6. Giáo viên đọc mẫu.
2.3.7. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh
bằng cách tổ chức các trò chơi học tập trong giờ Tập đọc.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị.


Trang
1
1
1
1
1
1
1
1
2
2
2
3
3
3
3
3
4
4
5
5
8
8
9
11
11
12

1



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ở Tiểu học, Tiếng Việt là môn học quan trọng, nó được coi là công cụ để
học tốt các môn học khác. Môn Tiếng Việt gồm có nhiều phân môn và các phân
môn này quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung kiến thức cho nhau. Trong đó Tập
đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ năng đọc
cho học sinh. Dạy đọc không chỉ giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh, giúp
cho các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc
sống trí tuệ phát triển. Tập đọc còn góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ,
bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy
có hình ảnh.
Là giáo viên dạy lớp 5, tôi luôn trăn trở làm sao để nâng cao chất lượng giờ
dạy Tập đọc cho các em. Đặc biệt là các biện pháp để rèn cho học sinh không
những chỉ đọc thông được văn bản mà còn phải đọc hay, đọc diễn cảm văn bản
được đọc. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giúp các em lựa chọn được giọng
điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc
điểm của nhân vật hoặc tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội
dung miêu tả trong văn bản thơ cũng như văn bản văn xuôi và đặc biệt là luyện
đọc phân vai trong văn bản kịch. Những băn khoăn này chính là lý do tôi chọn
đề tài: “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
trong các giờ Tập đọc”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao chất lượng của giờ Tập đọc đặc biệt là kĩ năng đọc diễn
cảm cho học sinh lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 5A trường Tiểu học Đông Lĩnh B năm học 2017- 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp luyện tập thực hành

+ Phương pháp kiểm tra đánh giá
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Khái niệm đọc.
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ
viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành
tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa
không có âm thanh (ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát
âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như
các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông
hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái
1


niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiu chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến
việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được
chú ý đúng mức.
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Tập đọc ở Tiểu học.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc
lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình
đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành
trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng
thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác
động tích cực đến những kỹ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh
cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu
điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó
mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà

hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc
không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của phân môn Tập đọc là giáo dục lòng ham đọc sách,
hình thành thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác
thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng
đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một
trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và
phát triển.
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức
về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và
tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.
2.1.3. Mục tiêu của môn Tập đọc ở lớp 5.
Phân môn Tập đọc ở lớp 5 giúp học sinh:
- Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các
lớp dưới, tăng cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh, khả
năng đọc diễn cảm.
- Phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn ., hiểu ý nghĩa của bài và
phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.
- Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để hình thành
nhân cách con người mới.
2.1.4. Nội dung của môn Tập đọc ở lớp 5.
- Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 62 bài thuộc các loại hình văn bản
nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 46 bài văn xuôi ( 4 bài là trích đoạn kịch),
18 bài thơ ( có 4 bài ca dao ngắn được dạy trong cùng một tiết).
- Nội dung: Các bài Tập đọc xoay quanh 5 chủ đề: Việt Nam - Tổ quốc
em, Cánh chim hoà bình, Con người với thiên nhiên, Nam và nữ, Những chủ
nhân tương lai.
- Bài tập đọc lớp 5 gồm có các phần :
2



+ Văn bản đọc
+ Những từ mới cần giải nghĩa.
+ Các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài.
2.2. Thực trạng của việc dạy và học đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5.
2.2.1. Quan điểm của giáo viên về giờ Tập đọc.
Nhìn chung giáo viên Tiểu học đều rất coi trọng giờ Tập đọc. Phần lớn
giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm, hướng dẫn ngắt nghỉ câu dài cho học sinh.
Tuy nhiên việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm còn hạn chế. Nhiều giáo viên chưa có ý
thức tự trau dồi bản thân, luyện kĩ năng đọc diễn cảm văn bản đọc để đọc mẫu
cho học sinh.
2.2.2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc.
Hiện nay ở Tiểu học, khi rèn đọc cho học sinh, giáo viên thường sử dụng
các phương pháp dạy học : phương pháp luyện đọc theo mẫu, phương pháp
luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát
hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…) và phương pháp đóng vai (đối với văn kể
chuyện và văn bản kịch ).....
2.2.3. Khả năng đọc của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đông Lĩnh B.
Qua 18 năm công tác, tôi nhận thấy ở Tiểu học các em chưa thật chú trọng
môn Tập đọc vì các em cho rằng môn Tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ
như môn Toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa
quan tâm đến việc đọc của mình như thế nào. Học sinh ở các trường ven thành
phố Thanh Hóa nói chung và học sinh trường Tiểu học Đông Lĩnh B nói riêng,
các em phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông nên trong các giờ Tập đọc các em
hay mắc các lỗi ở các tiếng có âm đôi : iê, uô, ươ ; tiếng có thanh hỏi, thanh
ngã; tiếng có âm đầu là r, tr, s ; ...., một số em bị ngọng và gặp khó khăn khi phát
âm các tiếng có vần kết thúc bằng nh, ng, c, t..... Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả của giờ Tập đọc. Mặt khác, khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng,
các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh
lý). Hầu hết các em chỉ biết bắt chước giáo viên một cách thụ động. Bên cạnh

đó, các em thiếu tự tin, còn rụt rè, e ngại khi đọc bài nên các em đọc bài tương
đối nhỏ.
Nhìn chung việc đọc của học sinh còn nhiều hạn chế so với yêu cầu
chung của việc rèn đọc hiện nay. Các em mới đạt được yêu cầu đọc thông, đọc
đúng và đang còn hạn chế khi đọc hay và diễn cảm. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng trong các giờ Tập đọc, ngay từ đầu năm học 2017 - 2018, tôi đã khảo sát
chất lượng đọc của học sinh lớp 5A trường Tiểu học Đông Lĩnh B, kết quả như
sau:
Sĩ số
Đọc chưa đạt
Đọc đúng
Đọc diễn cảm
Lớp
SL
SL
%
SL
%
SL
%
5A
19
5
26,3
13
68,4
1
5,3
2.3. Một số biện pháp luyện đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trong giờ Tập
đọc.

Đọc diễn cảm chỉ có thể có được trên cơ sở hiểu thấu đáo nội dung bài đọc.
Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm…phù
3


hợp với nội dung từng ý, từng nội dung của bài đọc; phù hợp với kiểu câu, thể
loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm, phân biệt
lời nhân vật, tác giả.
Để đọc diễn cảm, người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng biểu cảm
(kỹ thuật ngắt giọng biểu cảm) làm chủ được tốc độ (nhanh, chậm, ngân nga…),
làm chủ được cường độ giọng đọc (to, nhỏ, nhấn…), làm chủ được ngữ điệu (độ
cao giọng đọc, lên giọng, xuống giọng…).
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và thực trạng của việc dạy
đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5, để khắc phục những hạn chế, phát huy những
ưu điểm hiện có ở thực tế, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn
học sinh đọc diễn cảm nhằm nâng cao hiệu quả của giờ Tập đọc nói chung và
của học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đông Lĩnh B nói riêng. Cụ thể như sau :
2.3.1. Chuẩn bị tâm thế cho việc đọc.
Để chuẩn bị cho việc đọc đạt kết quả tốt nhất, giáo viên hướng dẫn học
sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần phải ngồi ngay ngắn, khoảng
cách từ mắt đến sách nên khoảng 30 - 35 cm, cổ và đầu thẳng, phải hít vào sâu
và thở ra chậm để lấy hơi. Khi đuợc giáo viên gọi đọc bài, học sinh phải bình
tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế
khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc rõ ràng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành
tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - là người tiếp nhận thông tin
bằng chữ viết; vai thứ hai là người trung gian để truyền thông tin đưa văn bản
viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái
hiện văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc
cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình

thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng
khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho các em sự tự tin cần thiết.
Giáo viên cần cho các em hiểu rằng: các em đọc không phải chỉ cho mình cô
giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả những
mọi người nghe rõ. Nhưng như thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên.
Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ "lí nhí", giáo viên cần tập cho các em đọc to
chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy. Giáo viên nên cho học sinh đứng
trên bảng để đối diện với các bạn trong lớp. Tư thế đứng đọc phải thoải mái,
sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
2.3.2. Luyện tập lấy hơi và tập thở.
Rèn cho học sinh biết thở sâu ở những chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi khi đọc,
đặc biệt là ở những chỗ ngắt giọng biểu cảm, những chỗ lắng cần tạo ra sự im
lặng, có tác dụng truyền cảm “gây bão tố” góp phần tạo nên hiệu quả biểu hiện
cao.
Ví dụ: Trong bài “Ê-mi-ly, con…” khi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
khổ 3:
Ê-mi-ly con ôi !
Trời sắp tối rồi…
Cha không bế con về được nữa !
4


Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
Đêm nay mẹ đến tìm con
Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn
Cho cha nhé
Và con sẽ nói giùm với mẹ:
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn.
Tôi đã hướng dẫn học sinh ngừng nghỉ sau mỗi câu thơ và nghỉ sau “Con sẽ
ôm lấy mẹ” để tạo ra một khoảng lặng, một khoảng nghẹn ngào trong cảm xúc

trước khi đọc tiếp “mà hôn cho cha nhé”. Nghỉ hơi lâu sau câu thơ “Và con sẽ
nói giùm với mẹ” để thể hiện sự xúc động của người cha là Mo-ri-xơn khi nói
lời từ biệt với gia đình yêu thương.
Tương tự, với 4 câu cuối bài “Tiếng vọng” SGK tập 1/trang 108
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn.
Để dồn âm lượng cho cụm từ “như đá lở trên ngàn” tôi hướng dẫn học sinh
nghỉ lấy hơi sau từ “tiếng lăn” vừa là để tạo ra một chút im lặng, vừa gây chú ý
sau đó mới đọc “như đá lở trên ngàn” để thể hiện nỗi ám ảnh, day dứt về hình
ảnh những quả trứng không có mẹ ấp ủ đêm đêm lăn vào giấc ngủ của tác giả.
2.3.3. Luyện đọc to.
Việc rèn cường độ giọng đọc, đọc to học sinh đã được làm quen từ lớp 1.
Trải qua 4 lớp, đến lớp 5 học sinh đã có nền tảng khá vững. Khi dạy đọc diễn
cảm ở lớp 5 tôi chú trọng cường độ giọng đọc, tốc độ đọc, đọc to ngay từ khâu
đọc vỡ bài. Bằng nhiều hình thức khuyến khích (khen, biểu dương, cổ vũ…) tổ
chức thi đua cá nhân, tạo cho học sinh tâm thế, sự hưng phấn, tự tin khi đọc bài.
Học sinh lớp tôi đã đọc to, rõ ràng, đủ lớn cho cả lớp nghe. Đầu năm có những
học sinh nhút nhát đọc quá nhỏ, lí nhí, tôi đã gọi các em đứng trên bảng, hướng
dẫn cho các em tư thế đứng (đàng hoàng, thoải mái), tư thế cầm sách (mở rộng
và cầm bằng hai tay) yêu cầu các em đọc to chừng nào em ở xa nhất trong lớp
nghe được mới thôi. Cứ như thế, dần dần các em đọc được to, rõ, đúng yêu cầu.
Đối với những học sinh quá hứng thú, phấn kích đọc quá to hoặc gào lên không
cần thiết, tôi nhắc nhở, yêu cầu các em đọc to vừa phải. Những học sinh sửa lại
được đúng yêu cầu được khen ngợi, cổ vũ.
2.3.4. Luyện đọc đúng.
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc
đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là

không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc
đúng các âm thanh ( đúng các âm vị) và ngắt nghỉ hơi đúng chỗ ( đọc đúng ngữ điệu ).
- Luyện đọc các âm vị tiếng Việt ( từ ngữ dễ lẫn, khó phát âm ).
Bài “Chuỗi ngọc lam” Khi dạy, căn cứ vào khả năng đọc của lớp, tôi đã
luyện đọc đúng cho Trong các giờ Tập đọc, tôi rất quan tâm đến việc phát âm
đúng chuẩn cho các em . Ví dụhọc sinh các từ ngữ: “chuỗi, muốn, kiếm, bỗng,
bao nhiêu, Gioan” Sở dĩ tôi đã lựa chọn những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi
5


dạy, các em hay bị lẫn vần có nguyên âm đôi, phụ âm đầu, dấu thanh vì cách phát âm
tiếng địa phương của Đông Lĩnh B sai lệch so với chuẩn. Các em nói tiếng địa
phương nên nhiều em cũng đọc theo tiếng địa phương vì thế các em đã đọc sai.
Cụ thể như sau :
Từ :

Học sinh đọc nhầm:

chuỗi

chuổi

muốn

mún

kiếm

kím


bỗng

bổng

bao nhiêu

bao nhiu

Gioan

Gion

Ngoài ra, để giúp các em phát âm đúng so với chuẩn, trong các tiết tăng
cường Tiếng Việt, tôi chú trọng đến việc rèn cách phát âm mà các em dễ lẫn
trong phương ngữ, đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu, vần và thanh :
Ví dụ: Dạng bài tập phân biệt vần :
+ Bài tập 1 : Dạng bài tập yêu cầu học sinh phát âm đúng các từ :
múi bưởi/ muối biển; tủi thân/ tuổi thơ; đỉm/ điểm mười, chư/ chưa; ....
+ Bài tập 1: Điền vần uôi hay ui vào chỗ chấm:
quả ch..…, ch .... qua, x........ dòng, x...... khiến, m… vị; m….. biển
+ Bài tập 2: Điền vần im hay iêm vào chỗ chấm:
trái t…...; t….. thuốc; con ch…...;
lúa ch…....; k........ tra, đ...... mười.
Ví dụ: Dạng bài tập phân biệt phụ âm đầu :
+ Bài tập 3: Điền r/ d/gi vào chỗ chấm:
... a vườn; tức ...ận, ...âng lên, vuốt ...âu;
+ Bài tập 4: Điền s, x vào chỗ chấm:
nhỏ … íu, … ạch …. ẽ, hàng ..... oan
hòn ... ỏi, ... ân phơi, lá ...en, .... òe ... a.
+ Bài tập 5: Điền ch/ tr hay vào chỗ chấm:

......ang ....í, .....ắng ngần, .....ờ đón
buổi …. iều; thủy ...iều; tiếng ...im, lời ...úc
Sau khi học sinh điền xong, giáo viên kiểm tra và yêu cầu các em đọc.
Nếu các em đọc sai, giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu
giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc trơn bài
đọc tốt hơn.
- Đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu.
Để đọc đúng cần dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để
6


ngắt hơi cho đúng. Khi rèn đọc học sinh tôi lưu ý các em cách để đọc đúng nhịp,
tiết tấu:
+ Không tách một từ ra làm hai:
VD: Không ngắt hơi
Đó là một buổi/sáng đầu xuân
Hoặc: Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ/hôi sa
Những trưa tháng sáu
+ Không đọc tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm
VD: Không đọc
Con/thác réo ngân nga
Đàn/dê soi đáy suối
(Trước cổng trời - trang 80)
+ Không đọc tách giới từ với danh từ đi sau nó.
VD: Không đọc
- Những năm bom Mĩ
Trút trên/mái nhà

- Nối rừng hoang với/biển xa
+ Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Ví dụ: không đọc
- Ngôi nhà giống bài thơ sắp làm xong
Là/bức tranh còn nguyên màu vôi gạch
- Không gian là/nẻo đường xa
Thời gian vô tận mở ra sắc màu
* Lưu ý học sinh dựa vào quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt nhịp cho
đúng.
Ví dụ: Phải ngắt nhịp
Trải qua/mưa nắng vơi đầy
Men trời đất/đủ làm say đất trời
Không ngắt:
- Trải qua mưa/nắng vơi đầy
Men trời/đất đủ/làm say/đất trời
- Con chim sẻ nhỏ/chết rồi
Không ngắt: Con chim sẻ/nhỏ chết rồi
* Lưu ý ngắt hơi phù hợp với dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu ở dấu
chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu
kể, thay đổi giọng phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm…
Luyện cho học sinh đọc đúng, tôi cũng đã rèn cho hcoj sinh kỹ năng đọc
diễn cảm. Mỗi giờ lên lớp tôi đều phải dự tính trước để ngăn ngừa các lỗi khi
đọc cho học sinh. Khi lên lớp tôi kết hợp nhiều biện pháp để rèn đọc đúng: đọc
mẫu, phân tích sự khác biệt, cho đọc cá nhân, đọc đồng thanh… Với những câu
tôi dự tính học sinh đọc sai phách câu (ngắt nghỉ không đúng) tôi cũng tìm hiểu
và áp dụng những biện pháp khắc phục. Cuối cùng mới luyện cho các em đọc
7


đoạn, đọc cả bài.

2.3.5. Luyện đọc diễn cảm.
Tổ chức cho học sinh đàm thoại để tìm hiểu ý đồ của tác giả và tìm cách
đọc, đọc phân vai với các văn bản truyện có nhiều lời thoại
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm đoạn:
“Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền
núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San.
Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về hương
thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn”, tôi làm như sau:
- Treo bảng ghi đoạn văn và yêu cầu học sinh đọc thầm và cho biết:
+ Nội dung của đoạn văn là gì?
+ Để điễn tả nội dung đó tác giả đã sử dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm
nào?
+ Từ ngữ nào được lặp lại nhiều nhất trong đoạn văn trên?
+ Khi đọc các câu văn ngắn cần đọc như thế nào?
Qua thảo luận trả lời câu hỏi, các em biết được cách đọc, nhấn giọng vào
các từ ngữ miêu tả mùi hương thảo quả (lướt thướt, quyến, rải, ngọt lựng, thơm
nồng…)
Khi đọc các câu ngắn đọc ngân kéo dài những tiếng cuối câu, thu hẹp
quãng ngắt giữa các câu nhằm tạo cảm giác mở rộng về không gian lan toả của
hương thảo quả, thể hiện sự say mê ngây ngất như muốn hít căng lồng ngực tất
cả mùi hương quyến rũ của thảo quả.
Đối với những bài mà nội dung và cách đọc của từng đoạn trong bài có sự
khác biệt. Tôi giúp học sinh hệ thống lại bài bằng cách lập dàn ý cho bài đọc.
Dựa vào dàn ý các em tìm ra những điểm cần lưu ý để lựa chọn cách đọc cho
phù hợp. Một điều rất quan trọng, nó tác động trực tiếp tới thính giác của các em
đó là việc đọc mẫu của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên chính là cái
đích, là hình mẫu kỹ năng mà học sinh cần đạt được. Chính vì thế tôi luôn chú
trọng việc rèn đọc của bản thân để đem đến cho các em một hình mẫu chuẩn:
đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Chuẩn bị
bài chu đáo, tìm hiểu cảm nhận nội dung của bài đọc, đọc nhiều lần trước khi

đến lớp đã tạo ra cho tôi sự tin trong mỗi giờ tập đọc. Trước khi làm mẫu tôi
luôn chú trọng ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế nghe và yêu cầu học sinh
đọc thầm theo. Khi đọc tôi chú ý bao quát cả lớp, đọc đủ lớn cho tất cả các em
đều nghe được. Bên cạnh đó, tôi cũng chú trọng phát triển những em có khả
năng đọc tốt và tận dụng giọng đọc của các em làm giọng đọc mẫu. Việc làm đó
rất có hiệu quả, nó kích thích học sinh thi đua với nhau rèn đọc tốt, đọc hay.
2.3.6. Giáo viên đọc mẫu.
Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phụ diễn cảm xúc của bài đọc.
Phải hoà nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có cảm xúc,
mới tìm thấy ngữ điệu phù hợp.
Đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu đọc phù hợp.
Đó là việc thể hiện giọng đọc, ngắt biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ
để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đó gửi gắm trong bài đọc, đồng
8


thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
Giáo viên đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học
sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Ví dụ: nghe và phát hiện cách đọc
của giáo viên ngừng nghỉ, ngắt nhịp ở chỗ nào , nhấn giọng hay cao giọng,kéo
dài giọng ở từ ngữ nào?... Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn
cảm bộc lộ sự sáng tạo của mình.
Muốn học sinh đọc hay, đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết giáo viên
phải đọc tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học
sinh trong tiết học. Để đọc tốt, người giáo viên luôn coi trọng việc đọc mẫu để
từ đó thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều chỉnh mình
đọc đúng hơn và phải có lòng ham muốn đọc hay.
Bài đọc mẫu của giáo viên chính là yếu tố quan trong giúp học sinh đọc
đúng, đọc hay trong các tiết Tập đọc. Do đó, khi giáo viên đọc mẫu phải đảm
bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. Để đạt được

yêu cầu này, mỗi giáo viên cần chuẩn bị, nghiên cứu và luyện đọc trước bài Tập
đọc. Từ đó có cách đọc và giọng đọc phù hợp với từng loại bài Tập đọc. Chẳng
hạn trong chương trình Tập đọc lớp 5, trích đoạn kịch " Lòng dân" của Nguyễn
Văn Xe là một trong những bài tương đối khó đọc. Nếu không luyện đọc trước
một cách kĩ lưỡng, không tìm hiểu về người dân Nam bộ, không tìm hiểu về
những tên Cai, tên lính trong thời kì kháng chiến, giáo viên khó lòng diễn tả
được vẻ xấc xược, hống hách khi đọc văn bản này.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học
sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi
đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh
thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián
đoạn.
2.3.7. Tổ chức các trò chơi học tập.
Để xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập, phát huy sự chủ động,
sáng tạo của học sinh, tôi đã tổ chức các trò chơi học tập cho các em trong các
giờ Tập đọc. Thông qua các trò chơi kích thích hứng thú đọc; rèn tư duy linh
hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng, tình cảm
tốt đẹp.
Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc diễn cảm
hoặc học thuộc lòng. Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, tôi lựa chọn trò chơi
học tập thích hợp để tổ chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối tiếp từng
đoạn (theo nhóm, tổ), “đọc truyền điện” thi tìm nhanh- đọc đúng; nhìn một từ
đọc cả câu hoặc nhìn một câu đọc cả đoạn, nghe đọc đoạn - đoán tên bài; thi đọc
truyện theo vai, thả thơ…
Dưới đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi luyện đọc mà tôi đã tổ chức
cho học sinh thực hiện trong các giờ dạy Tập đọc :
+Thi đọc tiếp sức:
* Chuẩn bị:1đồng hồ, SGK, giáo viên dự kiến một số nhóm tham gia chơi.
* Tiến hành:
- Hướng dẫn cách chơi.

9


- Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau.
- Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang. Mỗi em cầm một cuốn
SGK, đẫ mở sẵn trong đó có bài văn, bài thơ sẽ thi đọc.
- Giáo viên hô lệnh: “ bắt đầu”, em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái)
đọc câu thứ nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng của câu thứ nhất, em số 2 (cạnh em
số 1) mới được đọc tiếp câu thứ hai… Cứ như vậy cho đến em cuối cùng của
nhóm. Nếu câu tiếp theo lại đến lượt em số 1, em số 2 đọc… cho đến hết bài thì
dừng lại .
- Giáo viên tính và ghi bảng thời gian đọc của mỗi nhóm.
- Học sinh sẽ bị tính lỗi nếu đọc sai, lẫn hay thừa thiếu tiếng trong câu
hoặc đọc câu sau khi người trước chưa đọc xong, đọc vượt quá một câu theo quy
định.
- Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian mỗi câu văn đọc đúng
cho một ngôi sao, không tặng sao các trường hợp vi phạm.
- Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức
nhanh nhất, hay nhất, giành được nhiều ngôi sao nhất.
*Lưu ý: ở tiết tập đọc một bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc 2 dòng
hoặc một câu lục bát. Nếu là tiết Tập đọc - Học thuộc lòng, giáo viên cho học
sinh thi tiếp sức theo cách trên nhưng học sinh không nhìn SGK.
+ Thả thơ:
* Chuẩn bị: Giáo viên viết vào phiếu câu thơ đầu (hoặc giữa) ở mỗi khổ
thơ, hoặc 1-2 từ đầu của mỗi câu thơ. Ví dụ bài: Hành trình của bầy ong (Tập
đọc - Học thuộc lòng, lớp 5). Giáo viên làm các phiếu như sau:
Phiếu 1: Với đôi cánh……………………sắc màu
Phiếu 2: Tìm nơi………………………..không tên
Phiếu 3: Bầy ong……………………….mật thơm.
* Tiến hành: Giáo viên hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu:

- Mỗi lượt chơi gồm 2 nhóm và số người bằng số phiếu, mỗi nhóm cử
nhóm trưởng, hai nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền "thả thơ" trước.
- Mỗi em trong nhóm cầm 1 tờ phiếu (giữ kín). Giáo viên hô "bắt
đầu"nhóm được thả thơ trước cử 1 người thả ra một tờ phiếu cho một bạn nhóm
kia. Bạn nhận được phiếu phải đọc thuộc cả khổ thơ (hoặc câu thơ lục bát) có từ
ghi trên phiếu. Nếu đọc đúng được tặng một lá cờ.
- Giáo viên tính số cờ của nhóm đọc thuộc thơ. Đổi nhóm chơi tương tự
như trên. Giáo viên tính điểm nhóm thứ 2.
- Kết thúc trò chơi: Giáo viên tuyên dương nhóm đọc tốt, giành được hiều
cờ nhất.
+ Đọc thơ truyền điện:
* Chuẩn bị: Thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc - Học thuộc lòng; Hoặc tiết
ôn tập HTL. Học sinh 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau.
* Tiến hành:
- Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi. hai nhóm
bắt thăm (hoặc oẳn tù tì) để giành quyền đọc trước.
- Đại diện nhóm đọc trước là (A) đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi chỉ
định thật nhanh "truyền điện" một bạn bất kỳ nhóm (B). Bạn được chỉ định đọc
10


tiếp khổ thơ thứ 2 của bài. Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn nhóm (A) đọc
tiếp khổ thơ thứ 3… Cứ như vậy cho đến hết bài.
Ví dụ: Bài "Bầm ơi" (lớp 5)
HS A: Đọc khổ thơ 1; HS B: Đọc khổ thơ 2; HS C: Đọc khổ thơ 3
Tiếp tục như vậy cho đến hết bài. Trường hợp học sinh được "truyền điện"
chưa thuộc, các bạn đối diện sẽ hô từ 1đến 5, nếu không đọc được phải đứng yên
tại chỗ bị "điện giật". Lúc đó HS A chỉ tiếp HS B…Nhóm nào có nhiều người
phải đứng bị "điện giật" là nhóm thua cuộc.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.

Sau 4 tháng dạy thực nghiệm ở lớp 5A trường Tiểu học Đông Lĩnh B, tôi
tiến hành kiểm tra khả năng đọc của các em, kết quả thu được như sau:
Lớp
5A

Sĩ số
SL
19

Đọc chưa đạt
SL
%
1
5,3

Đọc đúng, rõ ràng
SL
%
9
47,3

Đọc diễn cảm
SL
%
8
47,4

Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một
số biện pháp nên trên vào việc hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng trong
các giờ Tập đọc đã hạn chế rất nhiều những lỗi mà các em gặp phải.

Mặt khác, các em cũng đã khá tự tin và mạnh dạn khi đọc bài trước lớp,
trước các bạn. Các em đã hào hứng hơn và thấy vui hơn khi được gọi lên đọc
bài. Chẳng những vậy một số em tỏ ra có khả năng đọc tốt, các em đã khá tự tin
khi đọc phân vai và thể hiện các giọng đọc một cách linh hoạt. Có những em đọc
diễn cảm kết hợp với cử chỉ, điệu bộ phù hợp. Các em không còn đỏ bừng mặt
khi đứng dậy đọc bài. Thay vào đó, các em đã tích cực giơ tay xung phong đọc
phân vai, đặc biệt là khi đọc trích đoạn kịch Lòng dân. Các em không còn
ngượng nghịu, e dè như trước nữa. Tiết học Tập đọc luôn được các em chờ đợi
đầy hào hứng. Tiết học cũng vì thế mà sôi nổi hơn, hiệu quả hơn và cũng sinh
động hơn. Sau những tiết dự giờ, ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp đều
đánh giá khả năng đọc của học sinh lớp 5A có nhiều tiến bộ. Mọi giáo viên trong
nhà trường đều ghi nhận sự tiến bộ rõ rệt của các em. Đó là niềm vui và sự khích
lệ của cả cô và trò chúng tôi trong suốt thời gian qua.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn Tập đọc mà
nội dung trọng tâm là rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5. Tôi thấy
rằng đây là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của học
sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ động
tự giác sáng tạo, tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình
dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học
sinh lớp 5.
Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi rút ra một số lưu ý cho bản
thân: Để giờ dạy Tập đọc đạt kết quả cao, giáo viên cần áp dụng linh hoạt các
11


biện pháp trong phần luyện đọc đúng. Tuỳ từng bài giáo viên chọn các biện pháp
phù hợp. Muốn vậy người giáo viên cần thực hiện tốt những công việc sau:
- Chuẩn bị bài (đọc trước bài tập đọc, xác định câu dài cần hướng dẫn

nghỉ hơi, luyện đọc diễn cảm) trước khi lên lớp, dự đoán được tình huống có thể
xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để giải quyết tình huống đó.
- Chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học như: tranh để giới
thiệu bài và sử dụng trong phần giải nghĩa từ. Một số bài hát có liên quan đến
bài tập đọc, ví dụ bài Hạt gạo làng ta, chuẩn bị đạo cụ để HS tham gia đóng
vai... Bên cạnh đó điều không thể thiếu đối với giáo viên tiểu học là lòng nhiệt
tình, sự tận tâm với nghề, đức tính chịu khó, kiên trì.
3.2. Kiến nghị.
Qua đây, tôi mong các cấp quản lí chuyên môn tạo mọi điều kiện, khuyến
khích giáo viên chủ động trong việc khai thác nội dung, sáng tạo và xây dựng
các kiểu bài tập phù hợp để giúp học sinh tham gia học một cách tích cực và chủ
động. Nhà trường tạo điều kiện và trang bị về cơ sở vật chất như tài liệu liệu về
Nghiên cứu Tiếng Việt, từ điển Tiếng Việt, đặc biệt là trang bị cho lớp bộ máy
chiếu, tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến nội dung dạy Tập đọc ở lớp 5 để giáo
viên thuận lợi và đỡ mất nhiều thời gian, công sức trong việc chuẩn bị đồ dùng
dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi rút ra trong quá trình
luyện đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trong các tiết Tập đọc. Tôi rất mong được
sự quan tâm, góp ý chân tình của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TP. Thanh Hóa, ngày 15 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thu Hà


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Tiếng Việt 5 - NXB Giáo dục
2. Sách Giáo Viên Tiếng Việt 5 - NXB Giáo dục
3. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - PTS Lê Phương Nga,
Nguyễn Trí

13



×