Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.72 KB, 19 trang )

Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
PHỤ LỤC

Trang
1. MỞ ĐẦU

1

2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN

2

2.1. Cơ sở lí luận.

2

2.2. Cơ sở thực tiễn.

3

2.3. Tiến trình nghiên cứu.

3

2.4. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến

3

2.5. Các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức
dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu


5

2.6. Kết quả nghiên cứu đạt được.

15

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI

17

3.1. Bài học kinh nghiệm.

17

3.2. Kiến nghị đề xuất

17

Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

0


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là môn học góp phần đắc lực để thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ
Việt Nam. Việc dạy học Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học nhằm mục đích “ Tạo
cho học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao
tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt nhà trường rèn luyện cho các em có

năng lực tư duy, giáo dục các em có những tư tưởng tình cảm lành mạnh, trong
sáng”. Từ đó các em biết yêu thiên nhiên và con người Việt Nam…
Môn Tiếng Việt dạy ở trường tiểu học được chia thành nhiều phân môn như:
Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn, mỗi phân môn
đều có một mục đích và nhiệm vụ riêng của nó song đều có một điểm chung là hình
thành và phát triển bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp
cho học sinh. Riêng phân môn Luyện từ và câu có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy
học Tiếng Việt. Đây là một phân môn mang tính chất thực hành. Việc dạy Luyện từ và
câu ở bậc tiểu học có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện cho học sinh
năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống
hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phân
môn Luyện từ và câu lớp 4, từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, thông
qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để
nghiên cứu sâu hơn về các bài tập Luyện từ và câu ở lớp 4, nhằm tìm ra được
phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình
giảng dạy
Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả
nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức dạy một số dạng
bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu tình hình học phân môn Luyện từ và câu, thực hành xác định
phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Đề xuất một số biện
pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh và giáo viên dạy khối lớp 4.
1.3. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu,
học hỏi tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận .
2. Phương pháp phân tích tổng hợp.
3. Phương pháp điều tra.

4. Phương pháp thực nghiệm
5. Phương pháp đàm thoại.
6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.

Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

1


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận.

Môn Tiếng Việt trong chương trình bậc tiểu học nhằm hình thành và phát
triển giúp học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học
tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có
cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn tiếng việt (nghe, đọc, nói,
viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp
học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt
phân môn luyện từ và câu có một nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản
và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết) kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ
thể là:
1-Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ
giản về từ và câu.
2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu
3-Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng nói và viết thành câu,
có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một
điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt
các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất.

Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng
ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác
dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn
thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới
được. Các môn học ỏ Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn
diện học sinh. Luyện từ và câu là một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong
môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang
bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học
khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có
thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành
ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong
các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn
trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

2


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
2.2. Cơ sở thực tiễn.
Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra
cho Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi
đã gặp phải không ít những khó khăn. Từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải
cách đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập
Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu
kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu
tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức.
Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ
và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi.

Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi
cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các
khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội
dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh
rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh. Để
tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt, có hiệu quả nhất
cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
2.3. Tiến trình nghiên cứu.
- Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và hiểu tình trạng giải quyết
làm các bài tập Luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4.
- Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn.
- Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng
số liệu thống kê.
2.4. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
2.4.1. Đối với chương trình sách giáo khoa.
Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi
tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Việc xác định
phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định
yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt
để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
2.4.2. Đối với giáo viên.
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học
sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản
về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần
được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

3



Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn
học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy
thực trạng của giáo viên như sau:
- Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn
học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm
lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
- Giáo viên ít có thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu để khai thác kiến
thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn
đến học sinh ngại học phân môn này.
- Giáo viên hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho
học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
- Thực tế trong quá trình dạy học, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới
phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Nhưng kết quả giảng
dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
2.4.3. Đối với học sinh.
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân
môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này.
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc
nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn
nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ
sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi
chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không
đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ
động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.

Tôi đã tiến hành dự giờ và khảo sát học sinh:
Kết quả dự giờ 4 tiết của 2 giáo viên dạy lớp:
- Đạt giờ Giỏi: Không
- Đạt giờ Khá: 01 tiết
- Đạt giờ TB: 03 tiết
- Không đạt yêu cầu: Không
Kết quả khảo sát học sinh:
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

4


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
“Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng
cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”.
Qua khảo sát học sinh, kết quả khảo sát như sau:
Lớp

Sĩ số

4A
4B
Tổng

31
30
61

Điểm 9 - 10


SL
3
2
5

TL
10%
7%
8%

Điểm 7 - 8

SL
5
5
10

TL
16%
17%
16%

Điểm 5 - 6

SL
12
10
22


TL
39%
33%
36%

Điểm dưới 5

SL
11
13
24

TL
35%
43%
40%

Điều đáng nói ở đây là có tới 24 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong
quá trình làm bài học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ.
Qua dự giờ và khảo sát chất lượng tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do
nguyên nhân cả hai phía; Người dạy và người học. Do vậy rất cần phải trau dồi
kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục
thực trạng trên để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh
vào hoạt động học.
2.4.4. Sơ lược một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình.
+ Phân tích cấu tạo của tiếng.
+ Tìm các từ ngữ nói về chủ đề.
+ Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao.
+ Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp.
+ Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được

+ Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó.
+ Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn.
+ Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó.
+ Viết thêm trạng ngữ cho câu...
2.5. Các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy một
số dạng bài tập Luyện từ và câu
2.5.1. Phương pháp nghiên cứu.
Với đặc trưng của phân môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa
yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của
giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến
thức, kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã
nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp,
trước hết phải hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước sau.
1. Đọc thật kỹ đề bài. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan
hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

5


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
2. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
3. Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp
rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm
bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là
bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh.
Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức
riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với
các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.

Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm nội dung
các chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp.
- Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được:
Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm, các yếu tố hán việt; rèn
luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm ; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng
thành ngữ tục ngữ.
- Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ từng học sinh được
tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong
thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh
cần tìm hiểu được:
Để tạo từ phức.
1. Các tiếng có nghĩa ghép lại với nhau tạo ra nghĩa mới.
2. Những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó
là từ láy.
- Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ
giản về danh từ, động từ, tính từ gắn với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm vào các từ chỉ mức độ (rất, hay, quá, lắm) vào trước hoặc sau tính từ.
+ Có sự so sánh.
Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng
các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
1. Yêu cầu, mong muốn...
2. Sự khẳng định, phủ định
3. Thái độ khen, chê.
- Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong
giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

6



Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Câu hỏi:
1. Cần xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi.
2. Tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Câu khiến:
1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự
2. Muốn cho lời yêu cầu, đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp
và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp...
3. Có thể dùng câu hỏi để nêu yêu cầu đề nghị.
2.5.2. Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh làm một số dạng bài tập “Luyện
từ và câu”.
Các kĩ năng trong phân môn “Luyện từ và câu” được rèn luyện thông qua
nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên.
a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng hướng dẫn mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu
cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại
diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp.
Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...
Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên
chốt lại ý kiến đúng.
Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập.
b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ - dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.

- Ngoan
- Tươi
- Tốt
Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm
trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều
từ, từ quá trình học sinh học, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay,
thẳng, thật).
Từ
Từ láy
Từ ghép
Ngoan
Ngoan ngoãn
Ngoan hiền, ...
Xinh
Xinh xinh
Xinh tươi, xinh đẹp...
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

7


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Tốt
Tôn tốt
Tốt đẹp, tốt nết...
Cùng yêu cầu của bài đã cho, học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo
viên cho học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
Giáo viên chốt:
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.

Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu,
vần hoặc cả âm đầu và vần giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng
có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác
định từ ghép và từ láy.
Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Trời mưa, quần áo, nhà cửa...
+ Từ láy: Loang loáng, cần cù, ngoan ngoãn...
c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống
giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
Ví dụ1: Viết các khu di tích lịch sử mà em biết, gắn với nhân vật lịch sử và
xác định là danh từ chung hay danh từ riêng? Vì sao?
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên địa danh và tên nhân
vật lịch sử. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường
hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung.
Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Để học sinh áp dụng vào
bài của mình.
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
Vua Mi-đát thử bẻ một cành sồi, cành đó liền biến thành vàng. Vua ngắt
một quả táo, quả táo cũng thành vàng nốt. Tưởng không có ai trên đời sung
sướng hơn thế nữa.
Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận
nêu trước lớp.
Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác.
Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được
gạch chân trong các câu sau:
- Tờ giấy này rất trắng.
- Tờ giấy nầy trắng hơn.
- Tờ giấy này trắng nhất.

Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

8


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh
Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học
sinh ; các em đã hiểu.
Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của các từ gạch chân
cụ thể : Tờ giấy trắng như thế nào ? (rất trắng, trắng hơn, trắng nhất ) Lần lượt
học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não):
rất trắng.
trắng hơn.
trắng nhất.
Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.
d. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học
sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
1. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho
học sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...
Giáo viên hướng dẫn mẫu:

+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
+ Bày tỏ ý kiến - yêu mến, gắn bó như thế nào?
+ Nói lên niềm vui - vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.
Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?
a) Cho mượn cái bút!
b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!
c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không?
Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự
lịch sự trong giao tiếp.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực
hành lời yêu cầu lịch sự.
2. Câu hỏi:
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

9


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể:
Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ
hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các
bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi,
cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi - Đám trẻ tiếp
lời bàn tán sôi nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:

- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải
xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học
sinh so sánh.
Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay cụ đánh mất cái gì?
Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ
không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất
phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế
nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ
(chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc
sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm
phiền lòng người khác.
Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã hướng dẫn
các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.
Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống
như trong bài tập trên ở ngoài thực tế.
1. Câu khiến
Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm:
- Chuyển các câu kể thành câu khiến.
- Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

10


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

- Đặt câu khiến theo yêu cầu có : “nên” trước động từ ; “đi” sau động từ;
“xin” trước chủ ngữ; “phải” sau chủ ngữ
- Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên.
Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến
- Anh đi làm.
- Mẹ ở nhà.
- Em chăm chỉ.
- Chị phấn đấu đạt giải nhất.
Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu:
- Anh đi làm!
- Anh phải đi làm!
- Anh hãy đi làm!
Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cụm từ“đi”,
“phải”,“hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng - nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời
yêu cầu.
- Anh đi làm!
(yêu cầu nhẹ nhàng)
- Anh phải đi làm! ( yêu cầu bắt buộc)
- Anh hãy đi làm! ( yêu cầu mang tính ra lệnh)
Sau đó tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ),
mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét.
Chốt lại: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm
các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ... và cuối câu dùng dấu chấm
than (!).
Cùng phương pháp tổ chức này cho học sinh làm ví dụ 2.
Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây:
a. Câu khiến có hãy ở trước động từ.
b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ.
c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ.
Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến.

a. Bạn hãy làm bài tập đi!
b. Mong các em làm bài tập thật tốt!
4. Câu cảm: (câu cảm thán)
Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng,
thán phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói.
Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm,
thật...Khi viết câu cảm, cuối câu thường có dấu chấm than (!).
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

11


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau:
a. Trong lớp có một bạn học rất giỏi luôn được tuyên dương. Hãy đặt câu
cảm để bày tỏ sự thán phục.
b. Vào nghỉ, có một bạn cũ từ lâu bỗng nhiên tới chơi. Hãy đặt câu cảm để
bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng.
Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình
huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung.
a. Ôi, bạn giỏi quá!
b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!
Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu
cảm nhận để các bạn nhận xét.
Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộc lộ cảm xúc gì?
a. Ôi, bạn Thanh đến kìa!
b. Ồ, bạn Thanh thông minh quá!
c. Trời, thật là kinh khủng!
Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân:
- B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.

- B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu.
- B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm.
đ. Mở rộng, khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu.
Dạng bài tập:
- Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu:
a................, em giúp một em bé bị ngã.
b................, em rất tích cực tham gia các hoạt động của lớp.
c................., hoa đã nở.
Đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm
ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh tiếp thu chậm): Em giúp
em bé ở đâu?
Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học
sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản.
Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

12


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống:
a).............., thôn em vừa xây nhà văn hóa.
b).............., cả lớp quyết tâm học giỏi.
c)..............., mọi người tích cực tham gia dọn vệ sinh đường làng.

Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đến việc hiểu:
- Mục đích của xây nhà văn hóa để làm gì?
- Quyết tâm học gỏi để dành được gì?
- dọn vệ sinh đường làng có lợi gì?
Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập:
Tìm trạng ngữ chỉ phương tiện trong các câu sau
- Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài
đầy đủ.
- Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã
sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng.
Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ
“bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì?
Nên bài này tôi cho học sinh dùng bút chì gạch chân dưới trạng ngữ chỉ
phương tiện và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì.
Như vậy mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng
bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập
Luyện từ và câu của học sinh lớp 4 nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi thấy
cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh tiếp thu nhanh
thì thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh tiếp thu bình thường và tiếp thu chậm
chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận.
Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí - nghị lực.
Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực vượt qua nhiều
thử thách, đạt được thành công.
- Với học sinh tiếp thu nhanh tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau
đó viết ngay vào nháp.
- Với học sinh tiếp thu chậm tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ
thuộc chủ đề ý chí - nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết .
Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc
nâng cao chất lượng học sinh tiếp thu nhanh để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng
đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy.

Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

13


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
* Tổ chức dạy thực nghiệm.
Sau khi nghiên cứu tổng hợp phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập
Luyện từ và câu, và tiến hành áp dụng tổ chức dạy thực nghiệm cho học sinh lớp 4.
Qua quá trình triển khai thời gian đầu một điều tôi cũng rất quan tâm đó là
việc trình bày bài của học sinh.
Bản thân trực tiếp dạy và thấy có hiệu quả tôi đã triển khai cho các giáo viên
khối 4 thông qua buổi sinh hoạt chuyên môn. Ban đầu giáo viên còn bỡ ngỡ nhưng qua
dự giờ góp ý xây dựng cụ thể từng dạng bài tập từng hệ thống câu hỏi gợi mở , dần dần
các đồng chí giáo viên khối 4 đã hướng dẫn học sinh có hiệu quả rõ rệt
Trải qua một học kỳ ôn tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên
cứu tôi và các giáo viên dạy khối 4 đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến
của giáo viên và học sinh sau khi vận dụng các Phương pháp tổ chức dạy một số
dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Kết quả dự giờ và kiểm tra học sinh:
* Kết quả dự giờ 4 tiết của 2 giáo viên dạy lớp 4:
- Đạt giờ Giỏi: 3 tiết
- Đạt giờ Khá: 01 tiết
- Đạt giờ TB: Không
- Không đạt yêu cầu: Không
* Kết quả khảo sát học sinh:
Đề bài:
Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau:
1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền”
2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như

thế” có mấy động từ, tính từ?
a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì?
a. Dùng đề hỏi.
b. Dùng để yêu cầu, đề nghị.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

14


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
c. Dùng thay lời chào.
4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ
phận nào là chủ ngữ?
a. Thanh
b. Sự yên lặng
c. Sự yên lặng làm Thanh.
Qua khảo sát học sinh, kết quả khảo sát như sau:
Lớp

Sĩ số

4A
4B
Tổng


31
30
61

Điểm 9 - 10

SL
11
9
20

TL
35%
30%
32%

Điểm 7 - 8

SL
12
11
23

TL
39%
37%
38%

Điểm 5 - 6


SL
8
10
18

TL
26%
33%
30%

Điểm dưới 5

SL
0
0
0

TL
0
0
0

Điều này chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập
Luyện từ và câu là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của
học sinh. Cùng với việc nghiên cứu của mình, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm
lớp, phổ biến kinh nghiệm tổ chức phương pháp dạy học tốt cho học sinh xác
định rõ yêu cầu của bài, tổ chức cho các em được hoạt động có hiệu quả, học sinh
được hướng dẫn thực hành phù hợp với nội dung từng bài. Dần dần các em đã
hình thành được thói quen làm việc có kế hoạch, linh hoạt với từng dạng bài.

Với kết quả thu được ở việc tổ chức cho giáo viên dạy thực nghiệm trên lớp
đối chứng tôi càng vững vàng tin tưởng vào việc vận dụng phương pháp tổ chức
dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 có hiệu quả.
2.6. Kết quả nghiên cứu đạt được.
Triển khai thực hiện đề tài này, tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau:
Đối với giáo viên các đồng chí không còn lúng túng trong việc lựa chọn
phương pháp để hướng dẫn học sinh với từng dạng bài tập.
Giáo viên đã chủ động và biết lựa chọn hệ thống câu hỏi để gợi mở hướng
dẫn cho học sinh ở từng bài cụ thể và biết vận dụng các hình thức dạy học phù
hợp với từng đối tượng, từng lớp.
- Đối với học sinh được hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm
nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một
cách có hiệu quả.
- Học sinh biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập
một cách chủ động. Học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối
chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

15


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
- Học sinh đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của
bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài. Có ý thức rèn cách trình bày
sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói
quen kiểm tra, soát lại bài của mình.
- Qua việc dự giờ của giáo viên, theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ
kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận
môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu
thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình.


Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

16


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
3. KẾT LUẬN , KIẾN NGHI
3.1. Bài học kinh nghiệm.
Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học
sinh nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh
hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết
nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài,
từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người
giáo viên cần chú ý:
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải kiên trì
trong thời gian nhất định. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của
mình để điều chỉnh sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được
hứng thú học tập cho các em.
- Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức
vừa dạy. Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm
học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc giảm tải.
- Giáo viên phải không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để trong
giảng dạy, giáo viên không áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là
quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm
tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư
duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình.
Tạo cho học sinh có niềm vui, có hứng thú trong học tập. Giáo viên luôn luôn
giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh.
- Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo

nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm
vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý
điểm sau:
+ Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.
+ Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau.
Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh
theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để
phát huy tốt hiệu quả giờ dạy.
- Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp
đúng chính tả cho học sinh.
3.2. Kiến nghị đề xuất
Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn
đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh, muốn vậy:
Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

17


Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
1. Đối với giáo viên: Không ngừng tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp,
từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh.
+ Nắm chắc nội dung chương trình, hiểu rõ yêu cầu của từng dạng bài tập,
dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với
mỗi dạng bài.
+ Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi.
+ Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có
trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi
giúp đỡ học sinh.
2. Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện
cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức.

+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại
sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.
+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều
thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
+ Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình giảng
dạy. Tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên và đã có hiệu quả nhất định và đây là
kinh nghiệm của cá nhân. Trong quá trình viết sáng kiến chắc chắn còn những khiếm
khuyết, tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp và đồng nghiệp
để sáng kiến của tôi sát thực tế hơn và có giá trị trong dạy học .
Tôi xin chân thành cám ơn!
Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tác giả

Xác nhận của nhà trường
PHT

Lê Đức Tuấn

Lê Trọng Thu

Tác giả: Lê Trọng Thu -Hiệu trưởng -Trường TH Phú Yên - Thọ Xuân - Năm học : 2016 -2017

18



×