Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG dạy học LỊCH sử THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 34 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong thời gian qua, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đề cập
và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, quản lý giáo dục, giáo viên
trực tiếp giảng dạy. Nhìn chung đều khẳng định, đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là rất quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục.
Với quan điểm đó, trong những năm qua đã dấy lên một cuộc vận động đổi
mới phương pháp dạy học trong hệ thống giáo dục nói chung và các trường phổ
thông nói riêng. Đồng thời nhiều đợt tập huấn, hội thảo đổi mới phương pháp
dạy học đã được tổ chức ở những cấp độ khác nhau, nhằm nâng cao năng lực sư
phạm cho giáo viên. Từ đó đã có nhiều phương pháp mới đã được giáo viên ứng
dụng trong việc dạy học và đã dấy lên một phong trào thi đua dạy học, trao đổi
kinh nghiệm chuyên môn trong đội ngũ giáo viên ở các trường học. Những hoạt
động trên đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian
qua.
Với tình hình chung, đổi mới phương pháp giảng dạy của bộ môn Lịch sử
cũng đã được sự quan tâm đúng mức. Nhiều phương pháp mới theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh đã được sử dụng, đặc biệt là ứng dụng CNTT
trong dạy học.
Cũng phải thấy rằng, việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử là
sự kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn của cả hệ thống phương pháp, mỗi phương
pháp đều có vai trò nhất định riêng. Trong đó phương pháp khai thác kênh hình
trong sách giáo khoa Lịch sử phục vụ cho giảng dạy, góp phần tích cực đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay, bởi lẽ:
Kênh hình trong sách giáo khoa không những minh hoạ, làm cơ sở cho
việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học
sinh, vì một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để bỏ ngỏ,
yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ... để tìm tòi,
khám phá những kiến thức mới, cần thiết liên quan đến nội dung bài học. Ngoài
ra việc khai thác tốt kênh hình sẽ tạo nên một không gian sinh động trong giờ


học, giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức và học sinh sẽ nhớ kĩ, hiểu sâu
hơn những kiến thức đã học. Bên cạnh đó, còn góp phần phát triển kĩ năng quan
sát, phân tích, nhận xét, đánh giá và tư duy ngôn ngữ cho học sinh...
Tuy nhiên, làm thế nào để khai thác tốt, nhằm phát huy đúng vị trí, vai trò
của kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử thì kĩ năng khai thác kênh hình của
giáo viên đóng vai trò quyết định. Vì vậy nắm được những kĩ năng cơ bản để
khai thác kênh hình sách giáo khoa phục vụ cho việc giảng dạy là sự cần thiết về
chuyên môn của giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng hiện nay.
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học
Lịch sử nói riêng, bản thân tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: Khai thác
kênh hình trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực của học sinh ở
trườngTHCS.
1


Với việc nghiên cứu đề tài này, giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học
hiệu quả hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức
của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
1.2. Mục tiêu của đề tài.
Mục tiêu, nhiệm vụ mà đề tài này hướng đến chính là khơi dậy khả năng
tư duy, sáng tạo của học sinh, thông qua các kênh hình về các bản đồ, sơ đồ, về
các nhân vật lịch sử cũng như về các sự kiện lịch sử của Việt Nam và thế giới,
học sinh được khắc sâu và ghi nhớ những nội dung của bài học. Từ đó các em có
những hiểu biết nhất định về lịch sử của nhân loại, lịch sử của thế giới, thêm yêu
quý và tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc, tôn thờ và ngưỡng mộ
những danh nhân thế giới nói chung và danh nhân Việt Nam nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 9 của trường Lê Đình
Kiên trong năm học 2016 – 2017 và giữa học kỳ II năm học 2017-2018.
Với phương pháp này nhiều năm qua tôi đã, đang và sẽ được áp dụng vào

quá trình giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS Lê Đình Kiên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tiến hành thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ về “ Phương pháp dạy học Lịch
sử”.
- Nghiên cứu các loại sách tham khảo, sách giáo khoa Lịch sử lớp 6, 7, 8,
9; tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng và các nguồn thông tin khác.
- Sưu tầm thêm các bản đồ, lược đồ, các tranh ảnh liên quan đến nội dung
của đề tài.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Thao giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình
giảng dạy.
- Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học.
- Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh.
1.5. Những điểm mới
Đề tài đã sử dụng những kênh hình trong sách giáo khoa để áp dụng vào
dạy bài học Lịch sử, giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học
sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học.
Có thể dạy theo hình thức liên môn, đang được coi là một quan niệm dạy
học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất
lượng giáo dục.

2


2. PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Bộ môn Lịch sử với những đặc trưng riêng của nó có vai trò và tác động to

lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Tuy nhiên ngày nay việc học sinh
không thích học cũng như tìm hiểu về lịch sử dân tộc ngày càng nhiều. Nhiều
em cho rằng đây là một môn học thuộc lòng mất nhiều thời gian lại khô khan,
nhàm chán. Thiếu hiểu biết lịch sử là điều vô cùng nguy hiểm khi văn hóa Việt
Nam, con người Việt Nam hội nhập với văn hóa và con người của nhiều dân tộc
trên thế giới.
Vậy tại sao học sinh lại thiếu hiểu biết và không thích học Lịch sử? Cũng
có nhiều nguyên nhân. Song không thể phủ nhận nguyên nhân xuất phát từ việc
dạy và học Lịch sử của chúng ta từ trước đến nay còn nặng về cung cấp kiến
thức gây ra tình trạng quá tải cho học sinh.
Do đặc điểm của việc nhận thức Lịch sử là không trực tiếp quan sát sự
kiện, nhân vật quá khứ nên việc tạo biểu tượng là một yêu cầu quan trọng trong
dạy học bộ môn. Biểu tượng lịch sử là hình ảnh chân thực của quá khứ về hiện
thực quá khứ được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển
hình nhất.
Việc khai thác kênh hình trong sách giáo khoa là một biện pháp quan
trọng để nâng cao chất lượng dạy học, tuy nhiên nó chưa được quan tâm một
cách đầy đủ.
Chúng ta mới chỉ quan tâm đến kênh chữ nhiều hơn mà không nhận thấy
kênh hình không những là nguồn kiến thức quan trọng mà nó còn là phương tiện
trực quan có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Trong
các buổi bồi dưỡng thay sách giáo viên mới chỉ được giải thích về kênh chữ, nội
dung, phương pháp mà chưa được bồi dưỡng cụ thể về kênh hình. Có nhiều
kênh hình mới mà giáo viên chưa thật nắm rõ về xuất xứ cũng như nội dung của
nó.
Nhiều giáo viên còn ngại sử dụng kênh hình do sợ mất thời gian hoặc nếu
có sử dụng thì chỉ mạng tính chất minh họa cho bài giảng nên chưa phát huy
được hết hiệu quả của nó.
Vậy với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch
sử, bằng thực tiễn giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp cũng như tự

nghiên cứu tài liệu, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến chủ quan về việc sử
dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử ở bậc THCS.
2.2. Thực trạng trước khi viết sáng kiến
2.2.1. Thuận lợi, khó khăn.
* Thuận lợi:
Trong những năm học vừa qua phòng Giáo dục huyện Yên Định đã
thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi phương pháp giảng dạy, học tập, rút
kinh nghiệm trong công tác chuyên môn với giáo viên cùng bộ môn trong toàn
huyện.
Bản thân luôn tích cực tìm kiếm những thông tin bổ ích có liên quan đến
nội dung bài dạy như tranh ảnh, tư liệu, phim tài liệu, truyện kể về lịch sử...Đều
3


cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực
quan, phương pháp nêu tình huống và giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp
thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh trong tường thuật, miêu tả, kể
chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử hoặc dạy học qua sơ đồ tư duy...
Nhìn chung học sinh đều tích cực hào hứng muốn được tự mình khám
phá nội dung của bản đồ, lược đồ, muốn được nêu ý nghĩa hoặc phân tích nội
dung các bức tranh nên đã đưa lại hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến
thức thông qua các kênh hình trong sách giáo khoa và những kênh hình mà giáo
viên sưu tầm được.
* Khó khăn:
Ở trường THCS Lê Đình Kiên, một số học sinh còn lười học và chưa có
sự say mê môn học Lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân
vật lịch sử...còn yếu. Nhiều em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà
chỉ đọc nguyên xi trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được diễn biến sự việc mà
không lí giải được vì sao nó lại diễn ra như thế hay sự kiện đó nói lên điều gì.

Bởi vậy, bản thân các em nên có một phương pháp học tích cực để chiếm lĩnh
kiến thức từ bài giảng của giáo viên.
Mặt khác, một bộ phận không nhỏ trong giáo viên, cha mẹ học sinh và
học sinh còn nhận thức không đúng về vai trò của bộ môn cho đó là môn phụ đã
ảnh hưởng đến việc học tập bộ môn.
Qua giảng dạy trong năm học vừa qua cho thấy : Vẫn còn một số giáo viên
chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết
dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy
nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương pháp dạy
học “thầy nói, trò nghe ”, thuyết trình một chiều... Do đó nhiều học sinh chưa
nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi
thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn ...
Một số tiết học giáo viên chỉ huy động một số học sinh khá, giỏi trình bày
lược đồ, bản đồ và khám phá tranh ảnh mà chưa giành cho đối tượng học sinh
yếu kém. Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được
tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và
các em cảm thấy chán nản môn học.
Nhìn chung thời gian qua, ít nhiều giáo viên đã khai thác kênh hình sách
giáo khoa để đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều phương tiện khác nhau
và phương pháp khác nhau... Do đó, kết quả đạt được ở những mức độ không
đồng đều. Thực tế như sau:
- Không ít giáo viên hiểu chưa hết nội dung, ý nghĩa của các kênh hình,
nên chưa vận dụng đúng đắn vào trong bài giảng, vì vậy hiệu quả bài giảng
không cao.
- Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị ý nghĩa của kênh hình nhưng
lại ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính chất hình thức, minh
hoạ cho bài giảng.
4



- Có giáo viên lại sưu tầm nhiều hình ảnh sinh động, có nội dung liên
quan đến kênh hình trong sách giáo khoa, nhưng chỉ mang tính giới thiệu, chứ
chưa mang tính chất khai thác để nâng cao chất lượng dạy học.
Kết quả điều tra tôi nhận thấy đa số học sinh đều thích được tìm hiểu
khám phá các kênh hình, nhưng chỉ có một số em là trình bày được một cách
rành rọt, lưu loát, một số em thì có thể hiểu nội dung nhưng không đủ tự tin để
xung phong trình bày, số còn lại thì không hiểu gì hoặc không nắm được nội
dung kênh hình và cũng không biết trình bày ý kiến của mình. Do vậy kết quả
điều tra những học sinh biết phân tích ý nghĩa của kênh hình cũng không cao, cụ
thể đầu năm học 2015 -2016; 2016-2017 đã thực hiện ở lớp 9 như sau:
Kết quả cụ thể như sau:
- Trước khi áp dụng SKKN:
Bảng số 1: Kết quả điểm kiểm tra 1 tiết sau tiết ôn tập, năm học 20152016 và Cuối học kỳ I năm học 2016 – 2017:

Lớp
9

Năm học
2015-2016
2016-2017


số
76
82

Điểm dưới
Điểm TB
TB
SL

%
SL
%
0
0
10
13
0
0
6
7

Điểm Khá

Điểm Giỏi

SL
30
32

SL
36
44

%
40
39

%
47

54

Bảng số 2: Bảng kết quả khảo sát mức độ tích cực, chủ động học tập môn Lịch
sử của học sinh trường THCS Lê Đình Kiên qua các tiết ôn tập:

Năm học
2015-2016
2016-2017

Tổng
số
76
82

Rất tích
cực
SL
%
30
39
40
49

Tích cực
SL
40
38

%
53

46

Bình thường
SL
6
4

%
8
5

Không tích
cực
SL
%
0
0
0
0

Sở dĩ có tình hình trên, phần lớn là do sự hạn chế của giáo viên về kĩ năng
khai thác kênh hình. Từ đó,nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng
cao chất lượng dạy và học của của bộ môn, bản thân tôi đã thấy được điều đó và
cố gắng đưa ra các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là: tích cực sưu tầm
tranh ảnh tư liệu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng và
luôn tìm tòi những phương pháp để khai thác kênh hình một cách hiệu quả nhất.
2.2.2. Đối với giáo viên và học sinh
+ Về phía giáo viên:
Tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau
và thông qua hoạt động đọc bản đồ, phân tích nội dung tranh ảnh, cho các em

5


sưu tầm các hình ảnh có liên quan... trong giờ học những em yếu kém được hoạt
động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các em học sinh khá
giỏi, học sinh trung bình sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của
sự kiện, hiện tượng lịch sử...
Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một
cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, máy
chiếu, vi deo...và ứng dụng thành thạo công nghệ thông tin phù hợp trong dạy
học Lịch sử.
+Về phía học sinh:
Đa số học sinh hứng thú nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi
mà giáo viên đặt ra, các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, khi học các em luôn chú
ý để nắm chắc bài hơn. Và đặc biệt nhiều em thích được lên bảng trình bày trên
lược đồ, bản đồ, thích được khám phá nội dung tranh ảnh để hiểu được nội dung
bài học.
Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ
bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo
khoa. Các em đã mạnh dạn hăng hái xung phong lên bảng và sẵn sàng ghi nhớ
các sự kiện, nhân vật, đây là những hoạt động hiệu quả trong việc lĩnh hội kiến
thức.
* Hạn chế:
Một số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ
phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, không
sưu tầm tài liệu và các tranh ảnh có liên quan, trên lớp các em thiếu tập trung
suy nghĩ. Cho nên việc phân tích và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật
lịch sử...còn rất hạn chế.
2.2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
Sách giáo khoa Lịch sử được trình bày đẹp hơn, dễ nhìn, đồng thời có lưu

ý đến việc đảm bảo kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn. Hơn nữa, sách giáo
khoa còn đảm bảo tính liên môn sao cho các môn học hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt
sách giáo khoa Lịch sử có nội dung song hành giữa Lịch sử Việt Nam và Lịch sử
thế giới.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử thì
giáo viên không ngừng học hỏi, tìm tòi , tìm ra những cái mới phù hợp và sáng
tạo để khai thác kênh hình hiệu quả và đó là nguồn kiến thức cho học sinh
nghiên cứu và khám phá kiến thức mới, nó cũng là cơ sở để tạo biểu tượng lịch
sử.
Với sự đổi mới này thì học sinh thông qua việc làm việc với tranh ảnh, sơ
đồ, lược đồ, bản đồ…để phát hiện kiến thức liên quan đến nội dung bài học mà
học sinh cần nắm được.
Tuy nhiên kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử hiện nay vẫn còn quá ít
so với mức độ kiến thức cần đạt của bài và màu sắc chỉ là trắng đen, khá mờ
nhạt, không có nhiều hình ảnh nổi bật và ảnh màu như các sách giáo khoa Địa
lý, Sinh học hay Vật lý…
6


2.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
Chúng ta đều nhận thấy rằng điểm thi môn Lịch sử của học sinh phổ
thông trung học và thi tuyển vào các trường cao đẳng đại học trong thời gian
vừa qua quá thấp, đây là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả xã hội và những người làm
giáo dục. Có nhiều ý kiến đổ lỗi do chương trình, sách giáo khoa Lịch sử chưa
được hoàn chỉnh. Sách còn đề cập tới quá nhiều vấn đề nhưng thời gian trong
một tiết học 45 phút không đủ để truyền tải...Và những kiến thức trong sách giáo
khoa, sách chuẩn kiến thức kỹ năng được xem là phần cứng của giáo trình, giáo
viên không được tùy tiện sửa đổi, điều này cũng khiến giáo viên thụ động khi
lên lớp.
Một trong những nguyên nhân của việc dạy và học Lịch sử kém hiệu quả

nữa là học sinh không ham mê môn học này là do việc học của học sinh lâu nay
là học chay và dạy chay. Chỉ đơn cử như việc cho học sinh xem phim tài liệu về
lịch sử cũng là rất hạn chế chứ chưa nói đến việc đi thực tế tại các địa danh lịch
sử. Lên lớp giáo viên cũng khuyến khích học sinh đối thoại, nhưng tư liệu tham
khảo thì lại quá thiếu, thế nên dù muốn, học sinh cũng khó có thể tìm đọc và
thảo luận theo yêu cầu của giáo viên. Bên cạnh đó, nhiều học sinh và phụ huynh
vẫn coi Lịch sử là môn phụ nên rất xem thường.
Để có nhiều kênh hình phù hợp với nội dung bài học thì đòi hỏi người
giáo viên và cả các em học sinh phải dày công tìm kiếm, sưu tầm, chắt lọc và xử
lý các hình ảnh có được, đó là điều không hề đơn giản và không phải ai cũng có
thể làm được vì cuộc sống còn bộn bề lo toan. Có nhiều yếu tố tác động từ bên
ngoài, có nhiều điều chi phối khiến cho người giáo viên không có nhiều thời
gian để đầu tư cho bài giảng.
2.3. Giải pháp, biện pháp.
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Nhiều năm qua bức xúc trước vấn đề học sinh không hiểu gì về lịch sử
nhân loại cũng như lịch sử dân tộc mình và đặc biệt những năm gần đây tình
trạng học sinh thi vào các trường đại học tỉ lệ điểm thấp ở bộ môn Lịch sử là rất
nhiều. Điều này không chỉ riêng tôi mà rất rất nhiều giáo viên nói chung và giáo
viên bộ môn Lịch sử nói riêng, các cấp quản lí phải lưu tâm và suy nghĩ. Do đó
tôi đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân để góp phần mình vào sự nghiệp
chung. Việc vận dụng các phương pháp, kỹ năng khai thác kênh hình vào giảng
dạy Lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã
được tham khảo ý kiến là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho
học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học Lịch sử, tìm hiểu Lịch
sử, nhận thức Lịch sử đang có chiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của
nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh
mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng
như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang
là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn

Lịch sử nói riêng.
Các kênh hình về bản đồ lịch sử, về nhân vật lịch sử với ưu thế của nó: rõ
ràng, sinh động, dễ nhớ, dễ ấn tượng, dễ đi vào lòng người… sẽ là một thế mạnh
7


trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp
phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống tổ tiên, với các lãnh tụ,
các danh nhân cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương
máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà cũng như lịch sử văn minh
nhân loại.
2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
2.3.2.1 Kỹ năng khai thác kênh hình:
Để đạt hiệu quả cao khi khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử
nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, giáo viên nên yêu cầu học sinh quan sát và
tìm hểu thông tin liên quan đến kênh hình của bài học mới ở nhà. Đồng thời phải
có kế hoạch cụ thể công việc của thầy và trò trong quá trình làm việc trên lớp.
Trước hết để khai thác tốt kênh hình trong SGK phục vụ cho việc giảng
dạy bộ môn lịch sử, bằng những kinh nghiệm thực tế, xin trình bày một số kĩ
năng cơ bản sau:
Thứ 1: Nắm được phương pháp cơ bản khai thác các loại kênh hình
Về cơ bản, hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử hiện nay, gồm
có hai loại chính sau:
Loại 1: Lược đồ, biểu đồ.
Loại 2: Hình ảnh lịch sử.
Trong loại hình ảnh lịch sử lại có hai nhóm chính:
Nhóm1: Hình ảnh minh họa tình hình quân sự, kinh tế, văn hoá, chính trị,
khoa học kĩ thuật...
Nhóm 2: Hình ảnh về nhân vật lịch sử.
Do mỗi loại kênh hình thể hiện một nội dung khác nhau, nên phương

pháp khai thác cũng khác nhau và phải phù hợp, cụ thể là:
- Loại lược đồ, biểu đồ: Phương pháp là khai thác từng bước những vấn
đề lịch sử đặt ra để đi đến hoàn thiện.
- Nhóm hình ảnh minh hoạ: Phương pháp là khai những chi tiết của hình
ảnh để đi đến đến hoàn thiện.
- Nhóm hình ảnh nhân vật lịch sử. Phương pháp là tìm hiểu hoạt động của
nhân vật lịch sử để đi đến hoàn thiện.
Thứ 2: Phải nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình.
Việc nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình đóng một vai trò rất quan
trọng, giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ chức khai thác kênh
hình trên lớp.
Để nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình, bên cạnh những tài liệu như
các loại sách tham khảo, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách chuẩn kiến thức kỹ
năng... thì Internet đang trở thành công cụ đắc lực và được phổ biến trong việc
khai thác thông tin, tìm tài liệu hiệu quả nhất. Hầu hết cách kênh hình và những
thông tin liên quan đều đã có trên một số trang Web của Internet, nên việc tìm
thông tin trên Internet, có nhiều lợi ích, như:
- Hình ảnh màu, sắc nét và sinh động hơn hình ảnh trong sách giáo khoa.
- Thông tin phong phú và có những đánh giá về vấn đề lịch sử mang tính hiện
đại, phù hợp với quan điểm hiện nay hơn.
8


- Tiết kiệm được thời gian tìm kiếm thông tin...
Thứ 3: Xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình.
Việc xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình, là nhằm
tránh sự chệch hướng trong quá trình khai thác và để đạt hiệu quả cao nhất sau
khi khai thác.
Thứ 4: Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm.
Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những

phát huy được tính tích cực, phát triển khả năng tư duy của học sinh; mà còn
giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu...
2.3.2.2. Nguyên tắc khai thác kênh hình:
Giáo viên đứng lớp cần phải có sự chuẩn bị chu đáo cẩn thận, nghiên cứu
kỹ trước nội dung các kênh hình trước khi lên lớp. Chuẩn bị lời nói ngắn gọn,
súc tích, dễ hiểu và gây hứng thú cho học sinh. Chính yêu cầu đó sẽ giúp người
giáo viên nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong các giờ lên lớp.
Ngoài ra các giờ sử dụng kênh hình trong dạy học giáo viên chủ yếu đóng
vai trò hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh phải tự quan sát nghiên cứu để rút ra
kiến thức. Giáo viên phải khắc phục khó khăn sưu tầm các tài liệu có liên quan
đến kênh hình, trao đổi chuyên môn tổ, cụm chuyên môn để có cách sử dụng
kênh hình trong sách giáo khoa một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó học sinh học sinh phải tự giác tìm hiểu kênh hình dưới sự
hướng dẫn gợi mở của giáo viên, tiếp nhận kiến thức một cách chủ động.
Để nâng cao hiệu qủa sử dụng kênh hình cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là: Sử dụng đúng mục đích. Trong quá trình dạy học giáo viên phải
đề ra được đúng mục đích dạy học, tiến trình các hoạt động lên lớp. Hoạt động
của giáo viên cũng như việc sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa quy định
mục đích học tập của học sinh. Mục đích của mỗi bài chính là học sinh lĩnh hội
được tri thức, hình thành và phát triển kỹ năng, nhân cách. Mỗi một loại kênh
hình trong sách giáo khoa có một chức năng riêng nên chúng phải được nghiên
cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học.
VD: Kênh hình được trình bày để minh họa cho bài giảng thì việc sử dụng
chúng cũng chỉ dừng lại ở việc minh họa cho bài giảng nhằm làm cho nội dung
bài giảng sinh động, phong phú, hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng
trong việc củng cố hay trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Với những kênh hình là nguồn cung cấp thông tin kiến thức thì giáo viên phải
gợi mở, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với kênh hình để tìm ra kiến thức
và lĩnh hội tri thức đó.
Hai là: Sử dụng đúng lúc. Nghĩa là kênh hình lúc nào cũng phải được sử

dụng hợp lý nhất, trong trình bày kiến thức mới hay là củng cố kiến thức đã học
hoặc ra bài tập về nhà. Tóm lại cần được đưa ra khi học sinh cần được minh họa,
cần tìm hiểu nhất về nội dung bài học, tránh đưa ra đồng loạt phân tán sự chú ý
của học sinh.
Ba là: Sử dụng đúng mức độ, cường độ. Tùy vào từng nội dung, mục
đích sử dụng mà giáo viên đưa ra những yêu cầu khác nhau đối với học sinh.
Trong giờ giảng bài mới nếu điều kiện thời gian không cho phép thì giáo viên
9


chỉ tập trung giới thiệu, thuyết minh một số hình vẽ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh
điển hình nhất ( nếu bài nhiều tranh ảnh ). Với những hình ảnh khác giáo viên
chỉ dừng lại ở việc cho học sinh quan sát sơ lược để học sinh nắm được những
biểu tượng ban đầu mà thôi. Hoặc với những kênh hình để minh họa cho bài
giảng giáo viên không nên cho học sinh đứng lên thuyết trình về kênh hình đó vì
điều đó vượt quá sức của học sinh, giáo viên có thể giao cho học sinh tìm hiểu
thêm ở nhà. Hơn nữa cần phải bố trí thời gian ở những kênh hình một cách hợp
lý mà không bỏ qua phần cơ bản là kênh chữ.
Bốn là: Kết hợp sử dụng kênh hình sách giáo khoa với các đồ dùng
được trang bị. Như bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh phóng to, các tài liệu thành văn có
liên quan. Với những kênh hình khó quan sát, mờ hoặc chưa cụ thể, giáo viên có
thể phóng to, sưu tầm ảnh màu trên Internet hoặc cụ thể hóa để các em dễ nhận
biết và tiếp thu hơn.
Năm là: Nội dung thuyết minh kênh hình phải sinh động, hấp dẫn, kết
hợp với những lời nói truyền cảm thì mới có sức thuyết phục cao đối với học
sinh.
Sáu là: Phương pháp thường hay sử dụng để khai thác kênh hình
trong sách giáo khoa lịch sử là. Hướng dẫn học sinh quan sát ( từ tổng thể đến
chi tiết ), kết hợp miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi
mở của giáo viên để học sinh tự rút ra được ý nghĩa của kênh hình đó. Giáo viên

có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, cá nhân hoặc toàn lớp…
Hiệu quả sử dụng kênh hình còn phụ thuộc vào sự ham muốn của học
sinh, giáo viên phải là người đưa ra tình huống có vấn đề để kích thích sự hiểu
biết của học sinh, khơi dậy niềm đam mê của học sinh đối với môn học.
2.3.2.3. Ứng dụng cụ thể:
Với những kĩ năng cơ bản và các nguyên tắc nêu trên, dưới đây là một số
ứng dụng cụ thể:
Hình 1: Khu di tích thánh địa Mĩ Sơn (Quảng Nam)
(Lớp 6, Bài 24: Nước Cham-pa từ thế kỷ II đến thế kỷ X)

* Mục đích cần hướng đến
10


Một di tích lịch sử và văn hoá tiêu biểu của Cham-pa, một di sản văn hoá
thế giới.
* Kiến thức cơ bản để khai thác.
Thánh địa Mĩ Sơn thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, cách Đà Nẵng
70 km về phía tây - nam. Năm 1898, một người Pháp tên M.C Pa-ris đã phát
hiện khu đền tháp Mĩ Sơn nằm kín trong một thung lũng hẹp, giữa những khu
rừng rậm.
Mĩ Sơn là một quần thể với hơn 70 đền tháp, được xây dựng liên tục trong
suốt 1000 năm. Khởi công từ thế kỉ IV bởi vị vua Bha-dra-var-man và kết thúc
vào đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Sim-ha-var-man III ( vua Chế Mân), để thờ
thần và các vị vua quá cố. Đền tháp được xây bằng gạch, còn tượng được tạc
bằng đá. Hầu hết các công trình kiến trúc và điêu khắc ở đây đều mang ảnh
hưởng của văn hoá Ấn Độ giáo. Do thời gian, thời tiết và sự tàn phá của chiến
tranh, hiện Mĩ Sơn chỉ còn lại khoảng gần 20 đền tháp. Dù vậy với những gì còn
lại tại Mĩ Sơn cũng như những hiện vật được lưu giữ tại bảo tàng Cham-pa tại
Đà Nẵng, bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh...cũng đủ làm cho chúng ta

vô cùng thán phục về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và trang trí của người
Cham-pa cổ xưa.
Thánh địa Mĩ Sơn xứng đáng là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặt trưng
nhất về di sản văn hoá vật thể của người Chăm-pa. Với tầm vóc đó, tháng 121999 UNESCO đã công nhận Thánh địa Mĩ Sơn là di sản văn hoá thế giới.
* Câu hỏi sử dụng
Câu 1: Sau khi quan sát các chi tiết thánh địa Mĩ Sơn; Em có nhận xét gì
về hình dáng kiến trúc, chất liệu xây dựng, số lượng công trình...?
Câu 2: Ngoài ra, em còn biết gì thêm về thánh địa Mĩ Sơn?
Câu 3: Qua tìm hiểu, thánh địa Mĩ Sơn nói lên điều gì?
Hình 2: Lược đồ những cuộc phát kiến địa lý
(Bài 2, Lớp 7: Sự suy vong của chế độ phong kiến và sự hình thành chủ
nghĩa tư bản ở châu Âu)

* Mục đích cần hướng đến
11


Cống hiến lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
cho văn minh thế giới ở thế kỷ XV-XVI.
* Kiến thức cơ bản để khai thác.
Vào thế kỉ XV thương nhân và những nhà hàng hải châu Âu hiểu biết về
thế giới còn rất hạn chế. Họ chỉ quen thuộc đường biển quanh châu Âu và Địa
Trung Hải, còn phương Đông nhất là Ấn Độ đối với họ không chỉ là xứ sở giàu
hương liệu, gia vị, tơ lụa mà còn là một vùng đất giàu không thể tưởng tượng
được về vàng, phương Đông được tô vẽ thành một thế giới thần tiên trong Nghìn
lẻ một đêm (cuốn truyện của người Ả rập) và cuốn Những truyện kì lạ (du kí của
Mác-cô Pô-lô, người Ý).
Thế kỉ XV con đường mua bán từ châu Âu sang phương Đông bằng
đường bộ (Tây Á) và đường thủy (Địa Trung Hải) bị thổ dân Ap-ga-ni-xtan,
người Thổ và người Ả rập độc chiếm. Vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tìm

con đường thương mại giữa phương Đông và châu Âu.
Vào thời điểm đó khoa học kĩ thuật có những bước tiến quan trọng. Các
nhà hàng hải hiểu biết nhiều về đại dương, có quan niệm đúng đắn về hình dạng
Trái Đất. Người ta đã vẽ được nhiều bản đồ, hải đồ ghi rõ những vùng đất, các
hòn đảo có dân cư. Máy đo góc thiên văn, sử dụng la bàn được sử dụng trong
việc định hướng giữa đại dương bao la. Kĩ thuật đóng tàu phát triển...Đây chính
là tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí.
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước tiên phong trong các cuộc
thám hiểm, khám phá ra những vùng đất mới. Trong đó Hoàng tử Hen ri (13931460) con trai quốc vương Bồ Đào Nha, được xem là danh nhân thứ nhất. Tuy
nhiên những cuộc thám hiểm của người Bồ Đào Nha cho đến những năm 70 của
thế kỉ XV cũng mới chỉ đến Vịnh Ghi-nê của châu Phi.
Trên đây là một số ví dụ cụ thể về việc khai thác kênh hình như thế nào để
đạt hiệu quả tốt nhất, do phụ trách giảng dạy môn Lịch sử ở khối lớp 8 nên phần
lớn những ví dụ mà tôi đưa ra chủ yếu nằm trong chương trình lớp 8. Trong
khuôn khổ giới hạn của một đề tài, tôi chỉ đưa ra một vài ví dụ minh họa cho
phần phân tích ở trên. Nhưng nếu giáo viên nắm chắc các kỹ năng và các
nguyên tắc như đã nêu trong đề tài và chịu khó tìm hiểu các tư liệu lịch sử thì
chắc chắn khi gặp bất kỳ một kênh hình nào về Lịch sử thì đều có thể phân tích
tốt để làm rõ thêm nội dung của bài học.
2.3.3.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
Mỗi bài lịch sử có thể có hoặc không có kênh hình trong sách giáo khoa,
nhưng rõ ràng là mỗi kênh hình đều chứa đựng rất nhiều nội dung sâu sắc mà
qua việc phân tích kênh hình đó thì nội dung của bài học đã được làm rõ nhiều
vấn đề, như vậy là không thể phủ nhận vài trò của kênh hình trong sách giáo
khoa lịch sử. Vì vậy với những bài học không có kênh hình trong sách thì giáo
viên nên chủ động tìm kiếm những hình ảnh, lược đồ có liên quan đến nội dung
bài học để phân tích và minh họa làm cho tiết học Lịch sử thêm sinh động, hấp
dẫn. Những kênh hình nhỏ tuy đơn giản nhưng ý nghĩa lại vô cùng lớn. Song cái
lớn nhất mà người thầy đạt được đó là lôi cuốn học sinh học môn Lịch sử, tránh
12



nhàm chán, tránh tâm lý nặng nề, làm cho học sinh yêu thích môn học Lịch sử
hơn.
Nhưng muốn đạt được điều đó, người giáo viên phải lập kế hoạch dạy học
một cách chu đáo, làm sao vừa đạt được nội dung kiến thức bài học, vừa lồng
ghép được những câu chuyện bằng hình ảnh. Hơn nữa người giáo viên phải rèn
luyện kỹ năng khai thác kênh hình một cách hấp dẫn, đây là năng lực sư phạm
cần thiết của người giáo viên lịch sử.
Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn Lịch sử
giáo viên cần phải nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu
phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt để có
được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm thu hút
học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động
để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
2.3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.3.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
Bản thân tôi đang đảm nhận việc giảng dạy môn Lịch sử ở khối lớp
9 và bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử huyện cấp tỉnh, đã từng giảng dạy ở tất cả
các khối lớp ở nhiều trường, nhiều đối tượng học sinh khác nhau, trong quá trình
giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học
sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Và sau mỗi tiết dạy có sử
dụng kênh hình tôi lại rút ra được kinh nghiệm cho bản thân để những tiết học
sau tôi sẽ phân tích hay hơn, hấp dẫn hơn, nội dung bài học càng được in đậm
hơn. Và tất nhiên việc khai thác nội dung kênh hình không phải bao giờ cũng
thực hiện một chiều tức là chỉ có giáo viên trình bày cho học sinh nghe mà
người giáo viên phải biết khơi gợi để học sinh tự phát hiện thông tin, tự trình
bày theo ý hiểu của mình. Qua đó còn rèn luyện được tính mạnh dạn, tự tin và
khả năng thuyết trình trước tập thể trong mọi hoạt động của học sinh.

Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong thời gian qua và chất
lượng học sinh đã được cải thiện rõ rệt:
- Sau khi áp dụng SKKN trong giảng dạy các tiết ôn tập ở năm học 20162017 và học kì I năm học 2017- 2018 thì kết quả như sau:
Bảng 3. Kết quả điểm kiểm tra 1 tiết sau tiết ôn tập, Cuối năm học 20162017 và học kì I và giữa HKII năm học 2017 – 2018:

Lớp
9
9

Năm học
2016-2017
2017- 2018


số
82
94

Điểm dưới
Điểm TB
TB
SL
%
SL
%
0
0
0
0
0

0
0
0

Điểm Khá

Điểm Giỏi

SL
34
24

SL
48
70

%
41
26

%
59
74
13


Bảng 4. Kết quả khảo sát mức độ tích cực, chủ động học tập môn Lịch sử
của học sinh lớp 9 trường THCS Lê Đình Kiên qua các tiết ôn tập:
Năm học


Tổng
số

Rất tích
cực

Tích cực

Bình thường

Không tích
cực

SL

%

SL

%

SL

SL

2016 - 2017

82

45


55

37

45

0

2017- 2018

94

74

79

20

21

0

%
0

%

0
0


0
0

0

Qua so sánh bảng thống kê điểm kiểm tra 1 tiết của học sinh lớp 9 trường
Lê Đình Kiên qua các năm học 2015-2016, 2016-2017, học kì I và giữa học kỳ
II năm học 2017-2018, tôi thấy hiệu quả học tập của học sinh lớp 9 trong các
năm học 2016-2017, và học kì I và giữa Học kì II năm học 2017-2018 được
nâng lên rõ rệt. Cụ thể như sau: tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi đã cao. Điều đó
chứng tỏ rằng việc sử dụng tốt kênh hình trong sách giáo khoa và kết hợp các
phương pháp giảng dạy khác trong các tiết ôn tập lịch sử là có hiệu quả và hết
sức cần thiết. Học sinh nắm kiến thức tốt hơn, nhiều học sinh nhớ bài được ngay
tại lớp. Đồng thời qua so sánh bảng mức độ tích cực, chủ động học tập của học
sinh các năm học 2015-2016, 2016-2017, học kì I và giữa học kỳ II năm học
2017-2018, tôi nhận thấy rằng số học sinh tích cực biết trình bày tốt các kênh
hình mà giáo viên đưa ra, chủ động trong các hoạt động học tập đã tăng lên rõ
rệt, từ đó làm tăng tính sáng tạo và hứng thú học tập cho học sinh.
Đặc biệt, cũng phương pháp này tôi đã vận dụng vào trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi, đã góp phần đưa chất lượng mũi nhọn bồi dưỡng học sinh
giỏi lịch sử tỉnh những năm qua luôn đạt kết quả tốt:
- Năm học 2014- 2015: có 1 hs đạt giải nhất cấp huyện và 8 hs giỏi cấp
tỉnh .
- Năm học 2015-2016: Trong năm học qua đồng đội học sinh giỏi huyện môn
lịch sử do tôi phụ trách có 2 em đi thi, có 1 học sinh đat giải KK. Đồng đội học
sinh giỏi cấp tỉnh đứng thứ nhất tỉnh, trong đó tôi có 1 giải nhất,1 giải nhì, 3
giải ba, 4 giải KK.
- Năm 2016- 2017: Đồng đội học sinh giỏi cấp tỉnh đứng thứ 10 tỉnh, trong
đó tôi có1 giải nhì, 2 giải ba, 2 giải KK.

- Năm học 2017-2018: Trong năm học qua đồng đội học sinh giỏi huyện
môn lịch sử do tôi phụ trách có 3 em đi thi, có 1 học sinh đat giải ba và 2 em đạt
giải KK. Đồng đội học sinh giỏi cấp tỉnh đứng thứ 7 tỉnh với 3 em giải nhì, 1em
giải ba.
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc khai thác kênh hình trong dạy học
là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn Lịch sử. Nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ
đem lại hiệu quả cao, đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi mới
phương pháp dạy học, làm cho kết quả học tập bộ môn không ngừng được nâng
cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng
đắn.
14


Tôi đã áp dụng biện pháp này ở rất nhiều bài, rất nhiều khối lớp khác
nhau, kết quả đạt được là rất khả quan, các em rất chăm chú khi tôi phân tích, rất
muốn được tham gia cùng tìm hiểu, rất hăng say suy nghĩ phát biểu khi tôi đưa
ra những câu hỏi về các sự kiện, các vấn đề lịch sử. Đặc biệt là những tiết học có
sử dụng nhiều hình ảnh và các đồ dùng trực quan nhờ sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin trong thời gian gần đây khiến học sinh rất phấn khởi thích thú và nắm
được bài rất nhanh.
2.3.4.2. Đối với bản thân.
Khi sử dụng hợp lý các kênh hình trong các tiết dạy học lớp 9 kết hợp với
các phương pháp dạy học khác, bản thân thấy tự tin khi đứng lớp, truyền đạt và
khắc sâu được các kiến thức lịch sử cho học sinh.
2.3.4.3. Đối với đồng nghiệp.
Đây cũng là một cách thức tổ chức dạy học đạt kết quả tốt được đồng
nghiệp ủng hộ và áp dụng trong các tiết dạy của mình.
2.3.4.4. Đối với nhà trường.
Việc đổi mới phương pháp dạy học trong đó có phương pháp sử dụng bản đồ
tư duy làm cho chất lượng giảng dạy bộ môn được nâng lên rõ rệt. Từ đó góp

phần nâng cao chất lượng đại trà của nhà trường, cũng như trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh.

15


3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận
Dạy học nói chung, dạy học lịch sử ở trường THCS nói riêng là một quá
trình. Đó là một quá trình nhận thức đặc thù, trong đó giáo viên tổ chức, dẫn dắt
học sinh một cách có mục đích, có kế hoạch để học sinh nắm vững những tri
thức cơ bản, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực nhận thức, bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức, hình thành nhân cách.
Với tinh thần đó, người thầy đóng vai trò quyết định tạo nên chất lượng
giáo dục. Đặc biệt với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay nhằm phục vụ cho quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi người thầy không những
có đạo đức trong sáng, tâm huyết với nghề nghiệp, mà còn phải có một trình độ
chuyên môn vững vàng. Để đạt được yêu cầu trên, đòi hỏi người thầy không
ngừng rèn luyện về mọi mặt, trong đó nâng cao trình độ chuyên môn là vấn đề
rất quan trọng.
Để nâng cao trình độ chuyên môn, người thầy không ngừng tự học để
hoàn thiện mọi kĩ năng sư phạm. Trong tình hình hiện nay, với những thành tựu
của khoa học - công nghệ, đặt biệt CNTT được ứng dụng ngày càng rộng rãi
trong mọi lĩnh vực và ứng dụng CNTT để nâng cao chất lượng giáo dục là một
vấn đề thiết yếu.
Với giáo viên Lịch sử, việc kết hợp kĩ năng khai thác kênh hình sách giáo
khoa với ứng dụng CNTT phục vụ cho giảng dạy, sẽ góp phần tích cực đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục. Thực hiện tốt, không những hoàn thiện những kĩ năng
sư phạm, nâng cao được trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy
tính tích cực của học sinh trong quá trình học bộ môn.

Qua kết quả giảng dạy đã đạt được tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và
áp dụng đề tài vào quá trình giảng dạy để nâng cao chất lượng bộ môn và chất
lượng giáo dục trong trường học.
3.2. Kiến nghị
Việc ứng dụng đề tài này, đặc biệt là việc khai thác kênh hình trong dạy
học Lịch sử đòi hỏi các trường học phải đầu tư nhiều về trang thiết bị như phòng
học đảm bảo tiêu chuẩn, hệ thống máy tính có kết nối Internet, máy chiếu…để
làm sao tiết học nào cũng có thể sử dụng máy móc làm phương tiện dạy học.
Về phía giáo viên phải chịu khó học hỏi, nắm bắt công nghệ thông tin,
phải trang bị máy tính để chuẩn bị bài ở nhà và đặc biệt phải sưu tầm nhiều
lược đồ, sơ đồ và nhiều tài liệu, hình ảnh có liên quan từ các sách báo và
mạng Internet để đưa vào bài giảng.
Thanh Hóa , ngày 15 tháng 4 năm 2018
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Lê Thị Lan Anh
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách chuẩn kiến thức kỹ năng, chương trình giảm tải.
2. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 6,7,8,9
3. Cuốn “Những tri thức Lịch sử bạn cần biết”- Tác giả Đặng Thanh Tịnh
( Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ).
4. Phương pháp dạy học lịch sử của Giáo sư Phan Ngọc Liên
5. Phương pháp dạy học Lịch sử - Năm 2001.
(Nhà xuất bản Giáo dục)

6. Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, tập 2–
(Nhà xuất bản giáo dục – Tác giả Trương Hữu Quýnh)
7. Lịch sử thế giới Hiện đại ( Nhà xuất bản giáo dục- Tác giả Nguyễn Anh Thái)
8. Một số tư liệu, hình ảnh sưu tầm từ mạng Internet.
9. Một số tài liệu tham khảo khác.

17


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài
Trang 1
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Trang 2
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Trang 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trang 2
1.5. Những điểm mới.
Trang 2
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lý luận
Trang 3
2.2. Thực trạng
Trang 3
2.2.1. Thuận lợi, khó khăn
Trang 3
2.2.2. Thành công, hạn chế
Trang 5

2.2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
Trang 6
2.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Trang 6
2.3. Giải pháp, biện pháp
Trang 7
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Trang 7
2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Trang 8
2.3.3.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Trang 8
2.3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trang 13
3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận
Trang 16
3.2. Kiến nghị
Trang 16

18


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH

TRƯỜNG THCS LÊ ĐÌNH KIÊN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
Ở TRƯỜNG THCS"

Họ và tên: Lê Thị Lan Anh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Lê Đình Kiên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử

PHỤ LỤC

YÊN ĐỊNH, NĂM 2018

19


Dưới đây là một số hình ảnh mà tôi đã sưu tầm được để làm rõ hơn về hành trình
của các nhà thám hiểm mà hình ảnh trong sách giáo khoa không có.

Hành trình thám hiểm của Đi-a-xơ
* Năm 1487 B.Di-a-xơ (1450-1550) là hiệp sĩ “Hoàng gia” đã tiến hành
cuộc thám hiểm xuống vùng biển phía nam châu Phi, bị bão thổi bật xuống phía
nam và bất ngờ đi tới mũi cực nam châu Phi, điểm đó ông đặt tên là mũi Bão tố,
sau gọi là mũi Hảo vọng. Các hoa tiêu người Hồi giáo đã sẵn sàng dẫn đường
cho ông sang Ấn Độ, nhưng các thuỷ thủ của ông nổi loạn, buộc ông phải quay
trở lại Bồ Đào Nha, từ bỏ cái vinh dự là người châu Âu đầu tiên mở đường tới
Ấn Độ.
Dù vậy Ông vẫn khẳng định có thể đi đến Ấn Độ bằng đường biển, và
cuộc thám hiểm của ông đã chuẩn bị mọi điều kiện cho các cuộc thám hiểm về
sau của Bồ Đào Nha.


20


Hành trình thám hiểm của Cô-lôm-bô
* Tháng 8-1492 C. Cô-lôm-bô (1451-1506) đã dẫn đầu đoàn thuỷ thủ 90
người với 3 chiếc tàu rời cảng Pa-lốt (Tây Ban Nha) đi về hướng Tây. Sau hai
tháng lênh đênh trên Đại Tây Dương, ông đã đến một số đảo thuộc vùng biển
Ca-ri-bê ( châu Mĩ ), nhưng ông tưởng đây là miền “Đông Ấn Độ”.
Quay trở về Tây Ban Nha ông được phong chức Thượng tướng hải quân,
tổng đốc Ấn Độ. Cô-lôm-bô được coi là người đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ,
nhưng do tưởng lầm là Ấn Độ nên châu Mĩ ngày nay không mang tên ông mà
mang tên một nhà thám hiểm khác.

21


Cô-lôm-bô tuyên bố chủ quyền thế giới mới

Hành trình thám hiểm của Va-xcô đ Ga-ma
* Tháng 7-1497 Va-xcô đơ Ga-ma (1469-1524), chỉ huy đoàn thuyền
Bồ Đào Nha rời cảng Lix-bon, đi xa bờ châu Phi để tránh những dòng nghịch
lưu, bão táp thổi họ đến bờ B-ra-xin, họ tưởng đó là một hòn đảo, đoàn tàu
chuyển hướng về phía Đông và đến được mũi Hảo vọng. Sau đó, đoàn thám
hiểm đi lên phía bắc, tháng 5-1498 đến Ca-li-cut, bờ biển Tây Nam Ấn Độ.
Nhưng người Ấn Độ không cho người Bồ Đào Nha mua bán và cuộc hội kiến
đầu tiên giữa người châu Âu và người Ấn Độ đã phải kết thúc bằng một cuộc
xung đột vũ trang.
Trên đường trở về, người Bồ Đào Nha đã cướp sạch thuyền bè và giết
người Ấn Độ mà họ gặp, đoàn thám hiểm trở về mang theo một số lượng lớn
vàng bạc, châu báu, tơ lụa, gia vị, đá qúi, ngà voi… trị giá gấp 60 lần tiền dùng

cho cuộc viễn chinh, và Va-xcô Đơ-ga-ma được phong làm Phó vương Ấn Độ.

22


Hành trình thám hiểm của Ma-gien-lan
* Ph. Ma-gien-lan (1480-1521) là người đầu tiên thực hiện chuyến đi
vòng quanh thế giới từ 1519 đến 1522. Đoàn thám hiểm của ông gồm 5 chiếc
tàu với 265 thuỷ thủ đi vòng qua cực nam của Nam Mĩ (sau này được gọi là eo
biển Ma-gien-lan) tiến vào đại dương, ông đặt tên là Thái Bình Dương, tại Philíp-Pin, ông bị thiệt mạng trong lúc giao tranh với người thổ dân, cuối cùng đoàn
thám hiểm chỉ còn 1 thuyền và 18 thuỷ thủ đã về đến bờ biển Tây Ban Nha.
Chiến công của Ma-gien-lan đã vượt lên tất cả mọi chiến công. Ông đã biến
những gì mà biết bao thế hệ trước coi như giấc mơ đã trở thành hiện thực.
Trên cơ sở những cuộc thám hiểm đó, hiểu biết của con người được mở
rộng. Khẳng định trái đất là hình cầu, đồng thời con người còn biết những con
đường mới, những vùng đất mới và các dân tộc mới trên thế giới. Đây chính là ý
nghĩa lớn nhất của các cuộc phát kiến về địa lí, đồng thời đó cũng là cống hiến
lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cho văn minh nhân
loại ở thế kỷ XV-XVI.
* Câu hỏi sử dụng
Câu 1: Vào thế kỉ XV thương nhân và những nhà hàng hải châu Âu hiểu
biết như thế nào về đường biển thế giới và phương Đông?
Câu 2: Vì sao họ phải tìm đường sang phương Đông và điều kiện để thực
hiện các cuộc hành trình là gì?
Câu 3: Các cuộc hành trình đã diễn ra như thế nào và đạt được kết quả gì?
Câu 4: Em có nhận xét gì về cuộc hành trình của Ma-gien-lan?
Câu 5: Cống hiến lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha cho văn minh thế giới ở TK XV-XVI là gì?
Qua phần trình bày của giáo viên có sự kết hợp các loại kênh hình ( cả
lược đồ và tranh ảnh minh họa ) ở trên cùng với phần thuyết minh và kể chuyện

chắc chắn học sinh rất thích thú, nắm được bài chắc hơn, trả lời được các câu hỏi
mà giáo viên đưa ra và đó chính là hiệu quả của việc khai thác kênh hình đúng
cách.
23


Hình 3: Tượng đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần Thuỷ Hoàng
(Lớp 7, Bài 4: Trung Quốc thời phong kiến)

* Mục đích cần hướng đến
Tìm hiểu tính chính diện và phản diện qua kênh hình về thời Tần Thuỷ
Hoàng.
* Kiến thức cơ bản để khai thác.
Tần Thuỷ Hoàng hiệu Doanh Chính, là quốc vương nước Tần thời Chiến
quốc. Năm 221 TCN, ông đã thống nhất 7 nước lập ra vương triều phong kiến
trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc.
Năm 246 TCN, Tần Thủy Hoàng đã cho xây dựng lăng mộ cho mình, ở
phía Đông Bắc núi Ly Sơn thuộc Tây An. Công trình kéo dài suốt 36 năm với sự
tham gia thi công của hàng chục vạn người (theo sử sách ghi chép lại, 70 vạn
người để xây dựng lăng mộ và cung A Phòng cho Tần Thủy Hoàng). Điều này
cho thấy rằng qui mô là rất lớn. Ngoài ngôi mộ khổng lồ trên mặt đất, còn có
một cung điện dưới lòng đất. Sau khi hoàn thành công việc những người tham
gia thi công đều đã bị giết để bảo toàn bí mật.
Khu lăng mộ này được mệnh danh là kỳ quan thứ 8 của thế giới và là một
trong những phát hiện quan trọng nhất của ngành khảo cổ đương đại. Năm 1974
các nhà khảo cổ học của Trung Quốc bắt đầu khai quật khu lăng mộ. Tuy nhiên
đến nay chỉ mới khai quật được một phần, chủ yếu là các hầm mộ binh mã,
(cách hầm mộ Tần Thủy Hoàng 1.500m về phia Đông), còn hầm mộ chính của
Tần Thủy Hoàng vẫn chưa khai quật.
Trong việc khai quật 4 hầm mộ binh mã (trong đó có 1 hầm mộ chưa làm

xong), với 3 hầm mộ người ta đã phát hiện hơn 8.000 tượng lính, 130 xe ngựa,
500 ngựa, rất nhiều vàng bạc, châu báu và nhiều vô kể binh khí bằng đồng xanh
như kiếm, giáo, mác, mũi tên...Nét nổi bật là những tượng lính đều làm bằng
24


thủ công với phương pháp nặn tượng nên nét mặt rất phong phú, sinh động và
giống người thật.
Những gì đã được khai quật trong khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng phần nào
cho ta thấy được sức mạnh quân sự của nhà Tần thời Chiến quốc, đồng thời qua
đó nó còn phản ảnh sự tàn bạo của Tần Thủy Hoàng. Mặc khác nó còn thể hiện
sự sáng tạo cao về nghệ thuật của nghệ nhân Trung Quốc và trình độ kĩ thuật
làm gốm, luyện kim đứng đầu thế giới của Trung Quốc thời bấy giờ.
* Câu hỏi sử dụng
Câu 1: Sau khi quan sát tượng đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần
Thuỷ Hoàng; Em có nhận xét gì về số lượng, hàng lối, hình dáng, nét mặt của
các tượng?...
Câu 2: Số lượng, hàng lối, hình dáng, nét mặt của các tượng nói lên điều
gì?
Hình 4: Chân dung nhà bác học Niu-tơn
(Lớp 8, Bài 7: Sự phát triển của kỹ thuật, khoa học và nghệ thuật thế kỷ XVIII XIX)
* Mục đích cần hướng đến
Tìm hiểu những tiến bộ về khoa học tự nhiên ở thế kỷ XVIII - XIX, đặc
biệt là những đóng góp của nhà bác học Niu-tơn đối với nhân loại.
* Kiến thức cơ bản để khai thác.
Trong những thành tựu về khoa học tự nhiên ở thế kỷ XVIII – XIX thì
tiêu biểu nhất là những đóng góp của nhà bác học Niu-tơn.

Chân dung nhà Bác học Niu-tơn
Giáo viên giới thiệu đôi nét về nhà bác học Niu-tơn (1642 - 1727): Nhà

vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý
25


×