SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIỎI LÀM TỐT BÀI VĂN
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Người thực hiện : Nguyễn Thị Huyền
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường THCS Nhữ Bá Sỹ
Thị trấn Bút Sơn
SKKN thuộc môn : Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
II. NỘI DUNG :
3
1. Cơ sở lí luận
3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
12
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
13
1. Kết luận
13
2. Kiến nghị
13
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Nó có tầm quan trọng
rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhận thức cho học sinh. Đây cũng là
môn học góp phần hình thành nhân cách cho các em. Vì vậy khi dạy học môn Ngữ
văn là chúng ta đang trang bị cho học sinh những kiến thức, kĩ năng sống làm hành
trang để học lên những bậc học cao hơn hoặc bước vào đời. Đó cũng chính là chiếc
chìa khóa mở cánh cửa tương lai cho các em. Trong dạy học môn Ngữ văn, công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết nhằm phát
hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng lực, năng khiếu thực sự về bộ môn Văn.
Quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi Văn phải tiến hành song song 2 nhiệm vụ: Bồi
dưỡng kiến thức và hướng dẫn học sinh bộc lộ năng lực, thể hiện quan điểm, ý kiến
về các tác phẩm văn học và các vấn đề trong đời sống xã hội.
Nghị luận xã hội là kiểu bài đưa học sinh về gần hơn với cuộc sống, đồng thời
đòi hỏi ở người học khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Kiểu bài này khiến
người viết phát huy năng lực bản thân từ tư duy, suy nghĩ, huy động vốn hiểu biết
đến năng lực trình bày một vấn đề xã hội nào đó sao cho giàu sức thuyết phục.
Chúng ta biết rằng nếu thiếu năng lực thuyết phục thì khó thành đạt trong cuộc sống.
Đây là thực tế cũng là yêu cầu khá cao, các em học sinh giỏi vừa thích thú song cũng
gặp không ít khó khăn khi giải quyết những đề bài, những vấn đề của cuộc sống xã
hội cụ thể. Hiện nay, trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Văn, việc hướng dẫn
học sinh viết tốt bài văn nghị luận xã hội cũng không phải là một công việc dễ dàng.
Các tài liệu tham khảo thì nhiều nhưng chỉ mang tính định hướng chung chung, nặng
về lí thuyết, một số đồng nghiệp thì cảm thấy lúng túng, gặp khó khăn thật sự trong
việc bồi dưỡng cho các em học sinh giỏi viết bài văn nghị luận xã hội.
Kĩ năng viết của học sinh trong trường THCS thể hiện được tính cách và nội
tâm suy nghĩ của mỗi tâm hồn các em. Từ cảm nhận, thấu hiểu để rồi mỗi bài văn là
trải nghiệm, bày tỏ, thái độ với chính mình, với cuộc sống. Nhiều em thực sự yêu
môn Ngữ văn, đã có những bài viết hay, độc đáo, sáng tạo, đi vào lòng người. Song
vẫn còn một số em gặp khó khăn trong việc kỹ năng viết, diễn đạt, trình bày nói
chung và làm bài văn nghị luận xã hội nói riêng.
Trong thời gian qua, cụ thể là trong năm học 2016 – 2017, bản thân tôi được
phân công trực tiếp tập huấn đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 cấp tỉnh.
Với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp, sự nỗ lực của bản thân và những trải nghiệm
thực tế trong việc rèn luyện để học sinh có thể viết được bài văn nghị luận xã hội đạt
hiệu quả. Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm “ Hướng dẫn học
sinh giỏi viết tốt bài văn nghị luận xã hội” nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc
bồi dưỡng học sinh giỏi văn nói chung, làm bài văn nghị luận xã hội nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra hướng giải quyết một số vấn đề về lí thuyết và thực hành qua thực tế
giảng dạy về dạy kiểu bài nghị luận xã hội nói chung và cho công tác dạy học sinh
giỏi nói riêng, từ đó nêu lên một số kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi
về kiểu bài này. Thực chất mục đích cơ bản của sáng kiến kinh nghiệm là hướng dẫn
đối tượng học sinh giỏi lớp 8, lớp 9 làm tốt bài văn nghị luận xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Khi tiến hành đề tài tôi đã dựa trên tình hình giảng dạy và học tập thực tế của
giáo viên và học sinh trong các đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp Huyện, cấp
Tỉnh của lớp 8, lớp 9 huyện Hoằng Hóa. Từ đó, đưa ra những cách thức, phương
pháp về vấn đề hướng dẫn cho đối tượng học sinh giỏi làm tốt bài văn nghị luận xã
hội, góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi văn của huyện nhà.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tra cứu tài liệu
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp tổng hợp
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn ở trường THCS.
Văn nghị luận mục đích chính là dùng lý lẽ và chứng cứ để làm sáng tỏ vấn
đề được đưa ra bàn bạc nhằm thuyết phục người đọc, người nghe[2]. Bằng cách
nào để đạt được mục đích đó? Điều này suy đến cùng tùy thuộc vào từng người
viết, nội dung và hoàn cảnh, đối tượng cần thuyết phục. Hình như chúng ta chưa
chú ý đến quan hệ giữa người viết và người nghe, người đọc. Cùng một nội dung
nhưng hai người viết khác nhau sẽ phải có hai cách viết khác nhau. Tuy vậy, để xây
dựng một bài văn nghị luận, người viết nào cũng cần phải vận dụng một số thao tác
nhất định
1.2. Nghị luận xã hội.
Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Đề tài
của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức đa dạng, phong phú. Nó gồm tất cả
những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc
tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên, môi trường, vấn đề hội
nhập, toàn cầu hoá… Như vậy có thể hiểu nghị luận xã hội là thể văn hướng tới
phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người
trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực
đến con người và những mối quan hệ giữa con người trong xã hội[1].
Nghị luận xã hội trong nhà trường trung học cơ sở xoay quanh các vấn đề về
tư tưởng, đạo đức, lối sống gần gũi với tuổi trẻ, bày tỏ ý kiến, suy nghĩ về một hiện
tượng tốt hoặc xấu trong đời sống xã hội. Trong các bài văn nghị luận xã hội ở nhà
trường, học sinh cần phát biểu những suy nghĩ nghiêm túc, chín chắn của mình về
một vấn đề có ý nghĩa xã hội đặt ra cho mình, lứa tuổi mình, không thể phát biểu
tùy tiện. Bài văn nghị luận xã hội trước hết đòi hỏi người viết phải bày tỏ được tư
tưởng của mình. Tư tưởng trong bài nghị luận xã hội phải là tư tưởng phù hợp đạo
lí, lẽ phải, thể hiện trách nhiệm của người viết đối với đất nước, gia đình, xã hội,
con người. Tư tưởng trong bài nghị luận xã hội phải thể hiện nhiệt tình xây dựng,
vun đắp cho xã hội ngày một tốt đẹp, lên án, phê phán các hành vi trái đạo đức, trái
lẽ phải, có hại cho đất nước, xã hội và con người. Tư tưởng trong bài văn nghị luận
phải là tư tưởng có cơ sở khách quan, góp phần làm sáng tỏ một vấn đề có ý nghĩa
thực tế. Tư tưởng trong bài văn nghị luận phải là tư tưởng chân thật, tự nhiên của
học sinh, không phải là tư tưởng sao chép trong tài liệu, với những lời văn sáo
rỗng, cũ mòn.
1.3. Yêu cầu của một bài văn nghị luận xã hội.
Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung: tập trung hướng tới luận đề đề bài,
viết không tản mạn, có ý thức triển khai thành những luận điểm chặt chẽ, nhất
quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục.
Đảm bảo về kiến thức mang màu sắc chính trị xã hội: những hiểu biết về
chính trị, pháp luật, những kiến thức cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo
đức, tâm trị - xã hội, những tin tức thời sự cập nhật.
Đảm bảo mục đích, tư tưởng đúng đắn: phải xuất phát từ một lập trường tư
tưởng tiến bộ, cao đẹp, vì con người, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội,.. để bàn
bạc, phân tích, khen chê và đề xuất ý kiến.
Để làm tốt bài nghị luận xã hội về căn bản có hai yêu cầu và cũng là điều
kiện: Kiến thức và kĩ năng. Bởi lẽ, có kiến thức mà không có kĩ năng thì làm sao
lập luận vấn đề cho sáng rõ, ngược lại có kĩ năng mà kiến thức không đủ đáp ứng
thì bài làm sẽ hời hợt, thiếu sâu sắc, ít thuyết phục. Làm văn nghị luận xã hội rất
cần tư duy khoa học, lôgic, lập luận, phản biện, thêm nữa học sinh rất cần thể hiện
niềm say mê qua tích lũy kiến thức. Đối với học sinh giỏi văn tích lũy kiến thức
văn học là việc làm thường xuyên nhưng việc tích lũy, bồi đắp kiến thức cuộc sống,
những hiểu biết xã hội còn bị xem nhẹ. Vì vậy, hướng dẫn của người thầy là hết sức
quan trọng.
Vấn đề tích lũy kiến thức, các lĩnh vực xã hội làm đề tài cho bài văn nghị
luận xã hội rất đa dạng, nên kiến thức phục vụ cho bài làm của học sinh là rất
phong phú. nhưng điều quan trọng là các em phải có ý thức quan sát, tìm hiểu, ghi
chép, để vận dụng (giáo viên cần hướng dẫn để học sinh biết để ý, để tâm những
vấn đề của đời sống, xã hội). Giáo viên định hướng cho các em huy động kiến thức
từ các nguồn: Kiến thức từ sách vở: chủ yếu từ báo chí, các loại sách tham khảo
về các lĩnh vực của cuộc sống từ văn học, lịch sử, khoa học, tôn giáo, sách về
gương người tốt việc tốt …" Hạt giống tâm hồn", "Hạt giống hạnh phúc", "Suy
nghĩ của những người trẻ",….điều quan trọng cùng các em tìm và lựa chọn sách
cần thiết để học, biết cách đọc, hệ thống hóa kiến thức.
Kiến thức từ đời sống: Hiểu biết, tích lũy hoặc từ đời sống hàng ngày của
bản thân người viết, yêu cầu các em có thói quen quan sát cuộc sống, những hoạt
động, sự việc, những vấn đề từ cuộc sống xung quanh quan trọng hơn là biết suy
nghĩ, suy xét những gì mình nghe được, quan sát được. Trên cơ sở đó, biết lựa
chọn, nắm bắt lấy bản chất vấn đề. Kiến thức từ trải nghiệm bản thân, đây sẽ là ví
dụ minh họa sinh động, có sức thuyết phục nếu nó được vận dụng vào bài văn một
cách tự nhiên, chân thành.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.Về giáo viên.
Trong thực tế giảng dạy, hiện nay giáo viên đã dành nhiều thời gian, tâm
huyết bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn. Nhiều thầy cô đã thực sự say mê,
gắn bó với công việc thầm lặng mà ý nghĩa. Tuy nhiên, trong việc ôn luyện cho học
sinh giỏi, một số giáo viên còn lúng túng trong việc dạy kiểu bài nghị luận xã hội vì
phạm vi rất rộng, không có giới hạn, quy định khung cụ thể . Trong các đề thi học
sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, vấn đề nghị luận rất phong phú, đa dạng, thường là
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống xã hội, thậm chí mang tính
thời sự. Vì thế đối với giáo viên, dạy học sinh giỏi thì càng dạy lại càng thấy nhiều
vấn đề mới lạ, chưa tìm được phương pháp tối ưu nhất khi hướng dẫn học sinh. Do
đó học sinh chưa thật sự yêu thích bộ môn Văn.
2.2. Về học sinh
Hiện nay học sinh khi viết bài văn nghị luận xã hội còn gặp nhiều lúng túng
trong các khâu: tìm hiểu đề, xác vấn đề nghị luận, không xác định được yêu cầu
của đề bài, bí trong cách dùng từ, diễn đạt, khó khăn trong việc tìm dẫn chứng,
thiếu những kiến thức thực tế. Nhiều bài viết khô khan, trừu tượng, mang tính khẩu
hiệu, lập luận chưa chặt chẽ. Trong thực tế khi chấm bài của các em học sinh giỏi,
bản thân tôi cảm nhận được chất văn, chất độc đáo, cái riêng rất ít ỏi. Các em viết
bài văn đấy nhưng thực ra chỉ là truyền đạt lại một cách trung thành bài dạy của cô
giáo mà thiếu đi cái ý kiến, cái nhận xét, đánh giá, thái độ của bản thân với vấn đề
mà đề bài nêu ra. Thế nhưng có những em thực sự có được bài viết sâu sắc, ý nghĩ
mới mẻ của riêng bản thân, lập luận chặt chẽ, sắc sảo (Em Lê Quỳnh Trang Trường THCS Hoằng Châu;
Lê Thị Vân - THCS Hoằng Trinh; Lê Thu Trang -
Trường THCS Nhữ Bá Sỹ)
Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh
giỏi viết tốt bài văn nghị luận xã hội”. Bản thân đã vận dụng phương pháp này để
trực tiếp tập huấn cho các em học sinh giỏi đội tuyển môn Ngữ văn lớp 9 dự thi cấp
tỉnh trong năm học 2016 - 2017vừa qua.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Với những yêu cầu ngày càng cao của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi,
người giáo viên phải không học hỏi, trau dồi để nâng cao chất lượng dạy và học.Từ
những yêu cầu trên, bản thân tôi xác định một vài giải pháp nhằm giúp các em học
sinh giỏi làm tốt bài văn nghị luận xã hội, góp phần nâng cao chất lượng đội tuyển
học sinh giỏi môn Ngữ văn. Các giải pháp mang tính chất thực tế giảng dạy trực
tiếp, dựa trên những lí thuyết cơ bản và sự giúp đỡ của đồng nghiệp trong tổ
chuyên môn, chuyên viên của phòng giáo dục.
3.1. Phân biệt các kiểu bài nghị luận xã hội:
Học sinh phải nắm vững và phân biệt được ba kiểu bài nghị luận xã hội trong
chương trình Ngữ văn THCS:
Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí: là bàn về một vấn đề thuộc về
lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống,…có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của
con người[3]. . Các vấn đề tiêu biểu thường gặp là:
- Nhận thức: Lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập,…
- Tâm hồn, tính cách, đức tính: Lòng yêu nước, yêu quê hương, lòng nhân ái,
tính trung thực, tính dũng cảm, tính khiêm tốn,…
- Quan hệ gia đình: Tình mẫu tử, tình anh em.
- Quan hệ xã hội: Tình nghĩa đồng bào, tình thầy trò, tình bạn.
Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống: là bàn về một sự việc,
hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy
nghĩ[3]. Các đề tài để bàn bạc gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ nhận
biết xã hội của học sinh như: tấm gương người tốt, việc tốt, thói hư tật xấu, an toàn
giao thông, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, …
Nghị luận về một vấn đề xã hội được phản ánh trong tác phẩm văn học:
Đây là dạng đề tổng hợp, đòi hỏi học sinh kiến thức về cả hai mảng văn học
và
đời sống xã hội, cũng đòi hỏi cả kĩ năng phân tích văn học và kĩ năng phân tích,
đánh giá các vấn đề xã hội. Nghĩa là có thể kiểm tra được người viết về cả kiến
thức văn học và kiến thức đời sống. Đề thường xuất phát từ một vấn đề xã hội giàu
ý nghĩa có trong một tác phẩm văn học để yêu cầu học sinh bàn bạc rộng ra về vấn
đề xã hội đó. Vấn đề xã hội được bàn bạc có thể rút ra từ tác phẩm văn học đã học
trong chương trình nhưng cũng có thể từ một câu chuyện hoàn toàn mới lạ, chưa
được học (thường là một câu chuyện ngắn gọn, giàu ý nghĩa)[1].
3.2. Những yêu cầu cụ thể để làm tốt một bài văn nghị luận xã hội
a. Cấu trúc của bài văn nghị luận xã hội:
Mô hình này trong thực tế giảng dạy cho học sinh giỏi tôi đã vận dụng luyện
cho các em. Một bài nghị luận xã hội dù dung lượng không dài cũng vẫn phải đảm
bảo cấu trúc của một bài làm văn, nghĩa là vẫn phải có mở bài, thân bài và kết luận.
Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm mà đề ra yêu cầu. Phần thân bài,
phải triển khai tiếp các luận điểm đã được nêu ra ở phần một, và cuối cùng, phần
kết luận, người viết phải đưa ra tổng kết của cá nhân mình về vấn đề đã nêu. Bài
học được rút ra cho cá nhân người viết. Tóm lại, với một bài nghị luận xã hội, bố
cục chung của bài làm nên lần lượt triển khai theo các bước sau đây:
Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận
Thân bài: Giải thích vấn đề, bàn luận và mở rộng vấn đề nghị luận
Kết bài: Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân, cho mọi người.
b. Tích lũy kiến thức:
Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen đọc sách báo, theo dõi các câu
chuyện, một số chương trình trên truyền hình, báo, đài và ghi chép lại những câu
nói hay, có ý nghĩa giáo dục cao, những nhân vật tiêu biêu, những tấm gương về
nghị lực, về tình yêu thương, về lòng tốt,…Đây được xem là bước đầu tiên để học
sinh giỏi có hứng thú sưu tầm và tích lũy kiến thức thực tế đời sống. Để làm tốt bài
văn nghị luận xã hội. viết nghị luận hay và sắc sảo là một quá trình rèn luyện và
trau dồi, tích luỹ mới có thể đạt đến. Muốn vậy người viết cần tích lũy cho mình
những hiểu biết xã hội (những tri thức không nằm trong sách vở nhà trường), phải
biết quan sát, tìm hiểu học hỏi và suy ngẫm về các vấn đề của đời sống, đặc biệt là
những vấn đề liên quan đến lớp trẻ, những vấn đề nhức nhối mà cả xã hội đang
quan tâm. Thực chất nó không nằm ngoài các vấn đề thuộc phạm trù : đạo đức, các
mối quan hệ, ứng xử, quan niệm về giá trị, nhân cách, lí tưởng tuổi trẻ… Nếu có
hiểu biết sâu về những phạm trù này thì khi bàn luận sẽ rất dễ dàng. Nghĩa là nếu
có hiểu biết sâu sắc, vốn sống phong phú ( nhớ nhiều những câu danh ngôn, triết lí,
câu chuyện ngụ ngôn, bài học từ cuộc sống đời thường, phim ảnh … để vận dụng
thì bài làm sẽ có sức thuyết phục cao). Một điều quan trọng nữa của nghị luận xã
hội là người viết có thể hiểu biết chưa sâu, chưa chín về vấn đề đang nghị luận,
điều này là khó tránh khỏi nhưng khi viết nghị luận phải chân thực, viết bằng chính
suy nghĩ, cảm xúc của mình, thể hiện được cái “tôi” của mình chứ không vay
mượn, nói hộ ai. Nghĩa là làm sao để người đọc khi đọc bài viết nhận thấy người
làm bài là một công dân có suy nghĩ độc lập, đã có sự trưởng thành nhất định về
nhận thức, tư duy…
Trong 10 em học sinh đội tuyển văn, mỗi em đều có một thói quen tốt là tích
lũy kiến thức và cập nhật những thông tin mới mẻ về xã hội.
c. Tìm dẫn chứng:
Một trong những thành công của bài văn nghị luận xã hội là tìm dẫn chứng .
Dẫn chứng để minh hoạ cho vấn đề nghị luận (dẫn chứng có thể lấy ở nhiều lĩnh
vực: sách vở, đời sống…nhưng dù lấy ở đâu cũng cần đảm bảo yêu cầu : tiêu biểu,
độc đáo và toàn diện). Đây cũng là một khâu rất quan trọng để bài văn nghị luận xã
hội mang đúng đặc trưng của nó. Thiếu dẫn chứng bài văn chỉ mang tính lí thuyết
suông, thiếu tính thuyết phục. Thông thường giáo viên chỉ quen lấy một số dẫn
chứng đã trở thành xưa cũ, mang tính lối mòn như: Bác Hồ, Nguyễn Ngọc Kí. Điều
đó khiến bài văn có phần tẻ nhạt, không có dấu ấn riêng của học sinh giỏi. Trong
quá trình trực tiếp giảng dạy, tôi đã yêu cầu học sinh phải tìm hiểu các dẫn chứng
tiêu biểu trên mạng in-tơ-nét, trên một số chương trình của truyền hình như: Việc tử
tế, Điều ước thứ bảy, Hôm nay ai đến, Quà tặng cuộc sống…Qua đó các em đã biết
được nhiều tấm gương sáng về nghị lực, ý chí; nhiều mảnh đời, con người đáng
được được trân trọng, đáng được quan tâm và ngợi ca. Từ đó mà các em có những
tình cảm, cảm xúc về cuộc đời, con người và rút ra được những bài học cho bản
thân.
Ví dụ: Các em đã tự tìm được các dẫn chứng rất thuyết phục về những người
nổi tiếng hoặc những danh nhân trong nước và thế giới qua các sách báo, sử sách.
Các em cũng tìm được những dẫn chứng thực tế đời thường như: về tình mẫu tử
thiêng liêng(Thiếu úy công an Hà Tĩnh Đậu Thị Huyền Trâm); dẫn chứng về nghị
lực sống không chịu đầu hàng số phận(diễn giả Ních vujich, cô gái trẻ Võ Thị Ngọc
Nữ ở Đà Nẵng bị ung thư nhưng vẫn đam mê nghệ thuật múa),…
Từ chỗ tìm được dẫn chứng, giáo viên hướng dẫn học sinh cách trình bày
dẫn chứng trong bài làm: không được kể lể dài dòng, tránh sa vào kể chuyện, hoặc
phân tích lan man, làm loãng bài làm mà chỉ nêu lên những dẫn chứng điển hình,
tiêu biểu, có giá trị. Sau đó khái quát và nâng cao, mở rộng vấn đề nghị luận.
3. 3. Các thao tác thường áp dụng khi viết bài :
Các dạng bài nghị luận xã hội đều vận dụng chung các thao tác lập luận là
giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận. Ba thao tác cơ bản
nhất là giải thích, chứng minh, bình luận.
a. Thao tác giải thích:
Làm rõ vấn đề được nêu ra ở đề bài. Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng là một
câu trích dẫn khá nổi tiếng nào đó hoặc một ý tưởng do người ra đề đề xuất, nguoif
viết viết cần lần lượt giải nghĩa, làm rõ ý nghĩa của vấn đề theo cách đi từ khái
niệm đến các vế câu và cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi vấn đề
được diễn đạt theo kiểu ẩn dụ bóng bẩy thì phải giải thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng của từ ngữ. Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống. người viết cần cho biết đó
là hiện tượng gì, hiện tượng đó biểu hiện ra sao, dưới các hình thức nào (miêu tả,
nhận diện) … Làm tốt bước giải nghĩa này sẽ hiểu đứng vấn đề, xác định đúng vấn
đề ( hoặc mức đọ) cần giải thích để chọn lý lẽ cần thiết.
b. Thao tác chứng minh:
Nhằm mục đích tạo sự tin tưởng cho bài viết, người viết cần đưa ra được
những dẫn chứng và lí lẽ thuyết phục. Xác định chính xác điều cần chứng minh,
phạm vi cần chứng minh. Lựa chọn những dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để
minh họa nhằm làm sáng tỏ điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh
c. Thao tác bình luận:
Dùng lí lẽ và dẫn chứng (chủ yếu là lí lẽ) để khẳng định giá trị của vấn đề
hoặc hiện tượng (giá trị đúng hoặc sai). Làm tốt phần này chính là đã bước đầu
đánh giá được vấn đề (hiện tượng) cần bình luận. Bàn rộng và nhìn vấn đề ( hiện
tượng) cần bình luận dưới nhiều góc độ (thậm chí từ góc độ ngược lại, mặt trái của
vấn đề còn gọi là phản đề) để có cái nhìn đầy đủ hơn. Khẳng định tác dụng, ý nghĩa
của vấn đề trong cuộc sống hiện tại.
d. Thao tác rút ra bài học nhận thức và hành động:
Đây chính là điểm khác biệt của bài văn nghị luận xã hội với nghị luận văn
học. Sau khi giải thích, chứng minh, bình luận, học sinh phải tự mình rút ra được
bài học cho bản thân và mọi người từ vấn đề nghị luận. Từ đó các em có những suy
nghĩ, hành động đúng trong giao tiếp cũng như trong cuộc sống.
3.4. Hướng dẫn viết đoạn văn mở bài và kết bài hay:
a. Đoạn văn mở bài:
Mục đích của mở bài ai cũng biết rõ là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình sẽ
viết, sẽ trao đổi bàn bạc trong bài. Vì thế khi viết mở bài, thực chất là trả lời câu
hỏi: Em định viết, định bàn bạc vấn đề gì? Trả lời thẳng vào câu hỏi ấy người ta gọi
là mở đề trực tiếp (còn gọi là trực khởi). Nêu vấn đề sẽ bàn trong bài, sau khi dẫn ra
một ý khác có liên quan gần gũi với vấn đề, gọi là mở bài gián tiếp (còn gọi là lung
khởi)[4]. Với các em học sinh giỏi rèn luyện cách viết mở bài gián tiếp là cách viết
độc đáo, tạo sự mới mẻ trong bài viết của mình. Một mở bài hay cần phải đảm bào
các yêu cầu: ngắn gọn, đầy đủ và độc đáo nhằm tạo được ấn tượng đầu tiên cho
người đọc. Với bài văn nghị luận xã hội, tôi yêu cầu các em viết mở bài phải mang
màu sắc riêng, nên mở bài bằng những nhận định, hoặc những câu châm ngôn, ngạn
ngữ, hoặc một câu thơ, lời một bài hát nào đó có nội dung gần gũi. Từ đó mà đi vào
giới thiệu vấn đề nghị luận một cách tự nhiên, không gò ép. Với cách hướng dẫn,
luyện cho các em cách viết mở bài như thế, một số học sinh trong đội tuyển đã tự viết
được những mở bài của riêng mình.
b. Đoạn văn kết bài:
Một kết bài hay cũng phải ngắn gọn, độc đáo và thú vị. Nhưng trước hết phải
đúng, đúng nhưng phải sáng tạo, gây được ấn tượng và để lại dư vị trong người
đọc[4]. Kết bài hay vừa phải đóng lại, chốt lại, vừa phải mở ra, nâng cao và cứ ngân
nga mãi trong lòng người.
Trong quá trình luyện cho học sinh tôi yêu cầu học sinh trong đội tuyển khi
nháp mở bài thì viết luôn kết bài (nếu không viết đoạn văn thì học sinh có thể vạch ra
các ý chính sẽ làm trong phần kết bài). Bởi vì thực tế học sinh dành hết thời gian cho
việc viết mở bài, thân bài, đến hết giờ vội vàng viết một kết luận sơ sài, vài câu cho có
kết. Đến thời điểm đó trải qua 150 phút làm bài, các em sẽ mệt mỏi nên không thể có
được suy nghĩ kết bài hay. Khi đã có một số ý chuẩn bị trước, lúc đó học sinh chỉ việc
triển khai thành đoạn văn.
Các em học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi Ngữ văn của huyện Hoằng Hóa
trong năm học vừa qua đã rèn luyện theo phương pháp này. Nhiều em đã vận dụng và
thực sự cảm thấy có hiệu quả trong quá trình làm bài của mình.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Với sáng kiến này, tôi đã vận dụng thực hiện trong quá trình giảng dạy bồi
dưỡng học sinh giỏi của huyện Hoằng Hóa dự thi cấp tỉnh. Thực tế cho thấy kĩ năng
viết văn nghị luận xã hội của các em đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Một số em đã có
những bài viết với cách diễn đạt lưu loát, diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ, có sức thuyết
phục, dẫn chứng tiêu biểu, có những suy nghĩ, ý tưởng độc đáo (Em Lê Quỳnh Trang-
THCS Hoằng Châu, Lê Thị Vân - THCS Hoằng Trinh, Nguyễn Thu Trang - THCS
Nhữ Bá Sỹ - Thị trấn Bút Sơn, Lê Thị Trang – THCS Hoằng Hợp )
Trong năm học 2016 – 2017, thành tích bồi dưỡng học sinh giỏi của huyện
Hoằng Hóa đã đứng ở vị trí thứ nhất toàn tỉnh. Thành tích của đội tuyển học sinh giỏi
Ngữ văn của huyện nhà đã thực sự được giữ vững và đạt được thành tích xuất sắc,
đáng ghi nhận. Đồng đội môn Ngữ văn xếp thứ nhất với 9 giải, trong đó 02 giải Nhất;
02 giải Nhì; 03 giải Ba và 02 giải Khuyến khích.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến này vào thực tế giảng dạy và
trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn, tôi nhận thấy đã thực sự có hiệu
quả. Để có sáng kiến “Hướng dẫn học sinh giỏi làm tốt bài văn nghị luận xã hội” là cả
một quá trình dày công, kiên trì của giáo viên, không thể nôn nóng, vội vàng, luyện
cho các em mỗi ngày có thêm tư duy và kĩ năng viết văn. Bởi vì điều đó sẽ đem đến
cho các em một niềm thích thú đặc biệt có thể gọi là hạnh phúc của sự sáng tạo.
Việc dạy học môn Ngữ văn đặc biệt phương pháp dạy học sinh giỏi thực sự là
nỗi niềm trăn trở của không ít thầy cô giáo. Tuy nhiên, ngoài việc bồi dưỡng kiến thức
cho các em thì yếu tố kĩ năng viết một bài văn nghị luận xã hội hay là một phương
pháp mà học sinh của chúng ta đang còn “non” và “thiếu”.
Thiết nghĩ, mỗi thầy cô cần dành nhiều thời gian, tâm huyết của mình cho công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn nhiều hơn nữa. Đó là công việc mà ở đó
niềm vui và nỗi buồn luôn đan xen. Nhưng văn chương có tiếng nói riêng của tâm hồn
và lay động mỗi trái tim chúng ta, để rồi ngày mỗi ngày vẫn yêu, vẫn say với từng tác
phẩm, từng bài văn của các em học sinh.
2. Kiến nghị:
Trong các năm qua Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã tổ
chức được nhiều chuyên đề về đổi mới phương pháp, đặc biệt là công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi. Tại chuyên đề hội thảo đó chúng tôi đã được lắng nghe, trao đổi những
kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi. Điều đó, thực sự có ý nghĩa và bổ ích.
Năm học 2016-2017 và các năm tiếp theo đề nghị Phòng Giáo dục và Đào tạo
tiếp tục tổ chức các chuyên đề, hội thảo về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cho tất cả
các giáo viên. Để rồi từ đó đội ngũ giáo viên sẽ có thêm kinh nghiệm sâu hơn, bền
vững hơn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện
Nguyễn Thị Huyền
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học nghị luận xã hội – NXB giáo dục Việt Nam (Đỗ Ngọc Thống chủ
biên).
2. Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Trung học cơ sở Quyển 1 – NXB Giáo dục(Đỗ
Ngọc Thống).
3. Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Trung học cơ sở Quyển 5 – NXB Giáo dục(Đỗ
Ngọc Thống).
4. Muốn viết được bài văn hay- NXB Giáo dục (Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên).
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
TT
Tên đề tài SKKN
1 Hướng dẫn học sinh lớp 7 làm tốt
bài văn nghị luận chứng minh
2 Vẻ đẹp của các yếu tố tưởng
tượng, kì ảo trong truyện truyền
thuyết - Ngữ văn 6 (Tập I)
3 Vận dụng kiến thức liên môn
trong dạy học văn bản nhật dụng
Ngữ văn 8 THCS
Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
Phòng
GD&ĐT
Hoằng Hóa
Phòng
GD&ĐT
Hoằng Hóa
Phòng
GD&ĐT
Hoằng Hóa
Kết quả
đánh giá Năm học
xếp loại đánh giá
(A, B,
xếp loại
hoặc C)
Loại C
Năm học
2009 –
2010
Loại B
Năm học
2010 –
2011
Loại B
Năm học
2015 –
2016