Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các tác phẩm văn học viết về đề tài gia đình trong môn ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 26 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Xác định nội dung, các kĩ năng sống cơ bản và mục tiêu của
việc giáo dục kĩ năng sống trong từng đơn vị bài dạy.
2.3.2. Xác định phương pháp - kĩ thuật dạy học tích cực trong quá
trình giáo dục.
2.3.3. Xác định các bước giáo dục kĩ năng sống trong bài dạy
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
4


4
6
8
13
14
14
14

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Gia đình là tế bào của xã hội, là tổng thể các mối quan hệ, ứng xử, giá trị
nhân cách, tình cảm, đạo đức, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng, dân
tộc. Các nhà xã hội học đã coi gia đình là nơi đặt những viên gạch đầu tiên,
trường học đặc biệt đầu tiên trong việc hình thành nhân cách con người. Gia
đình không chỉ là cái nôi nuôi dưỡng con người mà còn là nơi vun đắp những
tâm hồn, tình cảm cao đẹp. Chính vì thế, trong rất nhiều thứ tình cảm của con
người, thì có lẽ tình cảm gia đình là thứ tình cảm đẹp đẽ, thiêng liêng, kì diệu
nhất. Tình cảm gia đình như những tia sáng kì diệu của cuộc đời. Tia sáng ấy
sưởi ấm cho tâm hồn mỗi người và “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được
chỗ nương thân chống lại những tai ương của số phận”. Vì vậy, gia đình có một
vai trò, ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cuộc đời mỗi con người.
Ngay từ khi còn nằm trong nôi, qua lời ru ngọt ngào của mẹ, mỗi đứa trẻ
đã được nghe những lời dạy bảo yêu thương “Công cha như núi Thái Sơn,


Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Lớn hơn một chút, bài học làm người
đầu tiên giáo dục con cháu cũng là bài học về cách ứng xử “kính trên, nhường
dưới”, “chị ngã, em nâng”, “môi hở, răng lạnh”, “lá lành đùm lá rách”, “bầu
ơi thương lấy bí cùng”. Những lời dạy ấy đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi con
người Việt Nam, góp phần hình thành bản sắc văn hóa dân tộc, đó là lòng nhân

hậu, thủy chung, sống có nghĩa có tình; sự chia sẻ đoàn kết gắn bó từ trong gia
đình đến cộng đồng, làng, nước...Mái ấm gia đình là yếu tố quan trọng giúp con
người có thêm ý chí và nghị lực vượt qua khó khăn thử thách, đi tới những thành
công.
Gia đình có ý nghĩa quan trọng như vậy, thế nhưng hiện nay, trong bối
cảnh hội nhập xu thế toàn cầu hóa, bên cạnh những tác động tích cực, ảnh hưởng
mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ
thông tin, báo chí, Internet... đã nảy sinh nhiều vấn đề nhức nhối, đặt ra những
thử thách đối với nền tảng gia đình Việt Nam. Đó là sự mai một phần nào giá trị
truyền thống của gia đình Việt Nam. Nhiều người trong lớp trẻ đã chạy theo lối
sống ích kỉ, thực dụng, đề cao giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần, không
coi trọng tình cảm gia đình - ngọn lửa để duy trì hạnh phúc. Đứng trước thực tế
như vậy tôi mạnh dạnh chia sẻ: “Kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh qua các tác phẩm văn học viết về đề tài gia đình trong môn Ngữ văn 9”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Là giáo viên dạy môn Ngữ văn, tôi thấy Ngữ văn có vai trò quan trọng
trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức con người. Ngoài nhiệm vụ hình thành
và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản
văn học và các văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có được những
hiểu biết về xã hội, văn hoá, lịch sử, đời sống nội tâm của con người. Với tính
chất giáo dục thẩm mĩ môn Ngữ văn còn giúp bồi dưỡng năng lực tư duy, làm
giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân cách. Yêu cầu
của đề tài này, nhằm mục đích giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, qua các tác
phẩm văn học viết về đề tài gia đình, hình thành và phát triển, hoàn thiện nhân
cách học sinh, giúp học sinh có những nhận thức đúng đắn về những giá trị trong
cuộc sống.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 9 qua các tác phẩm
văn học viết về đề tài gia đình trong môn Ngữ văn.
4. Phương pháp nghiên cứu.

Để nguyên cứu đề tài này, tôi sử dụng hệ thống các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Tổng hợp, phân loại, thực nghiệm.
- So sánh đối chiếu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.

2


Như chúng ta biết, Ngữ văn là một môn học có những khả năng đặc biệt
trong việc giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh. Chính vì thế, mục tiêu giáo dục
của môn Ngữ văn ở trường THCS được xác định là trang bị cho học sinh những
kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ thống về văn học và tiếng Việt; hình thành
và phát triển các năng lực ngữ văn, bao gồm: năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực
tiếp nhận văn học, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học và năng lực thực
hành ứng dụng. Mặt khác, môn Ngữ văn còn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng
Việt, đặc biệt các tác phẩm văn học còn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu văn học,
văn hóa; tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập,
tự cường; lí tưởng xã hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn...
Đặc biệt, trong những năm gần đây, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã
được nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đưa vào
giảng dạy cho học sinh trong các trường phổ thông dưới nhiều hình thức khác
nhau. Mục đích của việc đưa giáo dục kĩ năng sống làm nhằm chuyển hướng từ
chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em
học sinh. Cụ thể là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học
để cùng chung sống. Tức là nhằm giúp học sinh có hiểu biết và được rèn luyện
những hành vi có khả năng thích ứng với cuộc sống cũng như khả năng ứng phó
linh hoạt, tích cực với những thử thách trong cuộc sống hàng ngày.
Từ mục tiêu và nội dung môn Ngữ văn ta thấy đã chứa đựng những yếu tố của giáo

dục kĩ năng sống. Trên cơ sở đó, mục tiêu giáo dục kĩ năng sống được xác định như sau:
* Về kiến thức.
Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như
những giá trị tốt đẹp của nhân loại; góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung, khắc
sâu kiến thức đã học về quyền và trách nhiệm của bản thân, gia đình nhà trường
và xã hội về nghề nghiệp.
Nhận thức được sự cần thiết của kĩ năng sống giúp cho bản thân sống tự
tin và lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển thể chất và tinh thần của bản thân và người khác.
Nhận thức được những giá trị cốt lõi làm nền tảng cho các kĩ năng sống.
* Về kĩ năng.
Có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiêm, biết ứng xử linh hoạt, hiệu
quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hàng ngày.
Có suy nghĩ và hoạt động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn
trong cuộc sống.
Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác
trước những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống (tệ nạn xã
hội HIV/AIDS, bạo lưc, nạn xâm hại tinh thần, thể xác...); giúp học sinh phòng
ngừa những hành vi, nguy cơ có hại cho sự phát triển của cá nhân.
* Về thái độ.
Hứng thú và có nhu cầu được thể hiện các kĩ năng sống mà bản thân đã
rèn luyện được đồng thời biết động viên người khác cùng thực hiện kĩ năng sống
đó.
3


Hình thành và thay đổi hành vi, nhất là những hành vi liên quan đến lối
sống lành mạnh có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và cộng đồng.
Có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường
và xã hội; có ý thức nghề nghiệp.

Riêng đối với việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các tác phẩm
văn học viết về đề tài gia đình là nhằm mục đích ngoài việc hình thành cho học
sinh các kĩ năng được sử dụng trong cuộc sống mà còn giúp học sinh có được
những nhìn nhận, đánh giá, hiểu biết về gia đình, biết quý trọng, bảo vệ tình cảm
gia đình... Từ đó giáo dục các em về tình yêu quê hương đất nước, tinh thần vị
tha, tấm lòng nhân đạo, yêu thương giữa con người với con người.
2. 2. Thực trạng của vấn đề.
* Thực trạng về kỹ năng sống.
- Kỹ năng giao tiếp, ứng xử: Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ
năng cực kỳ quan trọng. Đó là một tập hợp những qui tắc, nghệ thuật, cách ứng
xử, đối đáp được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày, giúp mọi người
giao tiếp hiệu quả thuyết phục hơn khi giao tiếp. Để có được kỹ năng giao
tiếp tốt đòi hỏi người sử dụng phải thực hành thường xuyên, áp dụng vào mọi
hoàn cảnh mới có thể cải thiện tốt kỹ năng giao tiếp của mình.
- Kỹ năng giải quyết vấn đề: Giải quyết vấn đề là một kỹ năng rất cần
thiết trong học tập, làm việc và cuộc sống… Hàng ngày, chúng ta phải đối mặt
với rất nhiều vấn đề từ đơn giản tới phức tạp. Nếu có kỹ năng giải quyết vấn đề
tốt, cuộc sống sẽ thực sự hạnh phúc và vui vẻ trong mọi tình huống.
- Kỹ năng ứng phó với các tệ nạn xã hội: Việc trang bị kiến thức về kỹ
năng sống cho trẻ khi ứng phó với các tệ nạn xã hội, thường được áp dụng ngay
từ khi trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường, nhằm giúp trẻ lường trước được các tình
huống và có thể ứng phó một cách đơn giản. Chính vì vậy, nên rèn luyện kỹ
năng cho trẻ ngay từ những bước đi đầu tiên để trẻ có một vốn kiến thức và dễ
dàng hơn khi ứng phó với những tình huống bất lợi xảy ra với bản thân trong
tương lai.
- Kỹ năng chung sống ( tập thể): Kỹ năng sống là cách ứng xử tích cực,
cần thiết để có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh và hiệu quả. Giáo dục kỹ năng
sống có tác dụng nâng cao nhận thức, trang bị thái độ sống và hành vi tích cực,
lành mạnh cho thanh thiếu niên. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một hình thức
can thiệp sớm, có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa những hành vi lệch lạc

của trẻ em, thanh niên.
- Kỹ năng sống là cách ứng xử tích cực, cần thiết để có cuộc sống an toàn,
khỏe mạnh và hiệu quả. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO 2003), đó là kỹ năng
mang tính tâm lí xã hội, là các khả năng thích ứng và là hành vi tích cực cho
phép các cá nhân giải quyết có hiệu quả nhu cầu và thách thức trong cuộc sống
hàng ngày.
- Kỹ năng sống cần thiết cho mọi người, đặc biệt là trẻ vị thành niên và
thanh niên. Nó giúp cho những người trẻ tuổi thể hiện kiến thức, thái độ và các
4


giá trị, hành vi lành mạnh nhằm giảm thiểu các nguy cơ có hại cho sức khỏe và
cải thiện cuộc sống của mình, chẳng hạn, biết đặt mục tiêu cho cuộc sống, thể
hiện sự kiên định trước những cám dỗ không có lợi cho sức khỏe như sử dụng
ma túy.
- Từ thực trạng trên nên kết quả của việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh qua các tác phẩm văn học viết về đề tài gia đình năm học 2014- 2015 qua
bài kiểm tra đạt như sau:

Lớp
8A
8B
Tổng

Điểm
trung bình
(5->
6,75điểm)
%
SL

%
20,0 20
66,6
13,3 23
76,7
16,7 43
71,6

Tổng
số

Điểm giỏi
(9->10
điểm)

Điểm khá
(7->8,75
điểm)

Điểm yếu
(3->4,75
điểm)

30
30
60

SL
2
1

3

SL
6
4
10

SL
2
2
4

%
6,7
3,3
5,0

%
6,7
6,7
6,7

Điểm yếu
(dưới 3
điểm)
SL
0
0
0


%

Tỉ lệ học sinh TB và yếu khá cao trên: 60%
2. 3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Xác định nội dung, các kĩ năng sống cơ bản và mục tiêu của việc
giáo dục kĩ năng sống trong từng đơn vị bài dạy.
* Về nội dung giáo dục trong bài dạy.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 9 có nhiều tác phẩm viết về đề tài gia
đình như: Bếp lửa (Bằng Việt), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Khúc hát
ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm), Con cò (Chế Lan Viên),
Nói với con (Y Phương), Mây và sóng (Ta-go)...
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, trước tiên giáo viên cần phải xác
định nội dung giáo dục học sinh là gì? Vì cùng viết về đề tài gia đình nhưng mỗi tác
phẩm lại khai thác ở nhiều khía cạnh tình cảm, mỗi tình cảm lại bộc lộ, thể hiện ở
những cảnh ngộ, tình huống khác nhau. Cụ thể các nội dung như sau: Tình bà cháu
(Bếp lửa - Bằng Việt), Tình mẹ và ý nghĩa lời ru (Con cò - Chế Lan Viên, Khúc hát
ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm), Tình cha con (Chiếc lược
ngà - Nguyễn Quang Sáng), Tình mẫu tử (Mây và sóng - Ta-go)...Xác định được
vấn đề này thì giáo viên mới khai thác đúng hướng và giúp học sinh thấy được
những nét chung và nét riêng trong cách thể hiện tình cảm gia đình ở các tác phẩm
văn học. Qua đó học sinh dần thấu hiểu những giá trị về tình cảm gia đình trong
mỗi hoàn cảnh khác biệt.
Ví dụ, bài thơ Bếp lửa (Bằng Việt), tình cảm gia đình ở đây là tình bà cháu
được thể hiện trong hoàn cảnh cháu đã trưởng thành và ở xa bà. Hay truyện ngắn
Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), cũng viết về đề tài gia đình nhưng cụ thể
là tình cha con sâu nặng và cao đẹp. Tình cảm này lại bộc lộ trong hoàn cảnh éo le
5


của chiến tranh. Trong bài Mây và sóng (Ta-go), lại có cách khai thác tình cảm gia

đình trong tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt, tình yêu đó được thể hiện qua sự
tưởng tượng của em bé và trò chơi sáng tạo của em. Còn bài Nói với con (Y
Phương) khai thác tình cảm gia đình qua lời day của người cha nói với con về cội
nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, về sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của quê
hương mình...
Mặt khác, khi giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên cần xác định
đâu là nội dung chính, đâu là nội dung mở rộng, bởi một tác phẩm văn học khi
viết về một đề tài nhưng không nhất thiết chỉ bó hẹp ở trong đề tài đó mà còn mở
ra nhiều thông điệp, nhiếu ý nghĩa, giá trị khác nhau.
Ví dụ1: Tiết 71, 72: Chiếc lược ngà
- Nội dung chính là tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le
của chiến tranh.
- Nội dung mở rộng là nỗi đau chiến tranh và sức mạnh bất diệt của tình cảm
con người trong hoàn cảnh éo le đó.
Ví dụ2: Tiết 126: Mây và sóng.

- Nội dung chính là ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
- Nội dung mở rộng là sức mạnh của tình mẫu tử - chỗ dựa vững chắc đối với
cuộc đời mỗi con người, sức mạnh của tình yêu đó là cội nguồn của sự sáng tạo,
đặc biệt là cội nguồn hạnh phúc của con người.
* Về các kĩ năng sống cơ bản và mục tiêu của việc giáo dục kĩ năng sống
trong bài dạy.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua bài dạy thì gắn liền với việc xác
định nội dung, giáo viên cần phải xác định các kĩ năng sống cho học sinh qua bài dạy
đó. Mặt khác cũng cần xác định mục đích cụ thể của việc giáo dục là gì?
Bản thân tôi khi giáo dục kĩ năng sống cho các em qua các tác phẩm văn
học viết về đề tài gia đình đã xác định hai mục tiêu. Thứ nhất là mục tiêu chung,
thông qua việc giáo dục các kĩ năng sống, các em sẽ dần dần hình thành được cho
mình những kĩ năng có thể áp dụng trong cuộc sống. Thứ hai là mục tiêu riêng,
thông qua việc truyền đạt nội dung các tác phẩm viết về đề tài gia đình, các em sẽ

có được những kĩ năng để nhận thức giá trị của tình cảm gia đình, qua đó sẽ có
những hành vi, thái độ trân trọng, yêu quý những gì gắn bó thân thuộc nhất với
mình đó là ông bà, cha mẹ, anh chị em... và mở rộng ra là tình yêu quê hương, đất
nước.
Ví dụ1: Tiết 122: Nói với con.
* Nội dung cần truyền đạt cho học sinh là: Cảm nhận được tình cảm gia
đình ấm cúng, tình yêu quê hương thắm thiết, niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ,
bền bỉ của “người đồng mình” và mong mỏi của một người cha với con qua
cách diễn tả độc đáo của nhà thơ Y Phương.
* Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài như sau:
- Tự nhận thức: cội nguồn sâu sắc của cuộc sống chính là gia đình, quê
hương, dân tộc.
6


- Làm chủ bản thân: đặt mục tiêu về cách sống của bản thân qua lời tâm
tình của người cha.
- Suy nghĩ sáng tạo: đánh giá, bình luận về những lời tâm tư của người
cha, về vẻ đẹp của những hình ảnh thơ trong bài thơ.
* Mục tiêu: hình thành những kĩ năng sống cho học sinh như kĩ năng tự nhận
thức, kĩ năng tự làm chủ, kĩ năng tư duy sáng tạo. Đồng thời giáo dục các em về tình
yêu, lòng tự hào về cội nguồn chính là gia đình, quê hương, dân tộc. Xác định cho
mình mục đích, lí tưởng sống và hành động đúng đắn, cao đẹp.
Ví dụ2: Tiết 126: Mây và sóng.
* Nội dung cần truyền đạt cho học sinh là: Cảm nhận được một cách thấm
thía tình mẹ con thiêng liêng qua lời thủ thỉ chân tình của em bé với mẹ về
những cuộc đối thoại tưởng tượng giữa em bé với những người sống trên “mây
và sóng”
* Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài như sau:
- Tự nhận thức: giá trị của tình mẫu tử, tình cảm gia đình trong cuộc sống của

con người.
- Làm chủ bản thân: tự xác định được tình yêu thương vô bờ bến của gia đình,
từ đó rút ra bài học về tình yêu thương, trách nhiệm của con cái. Nhất là trong xã
hội ngày nay, con cái thường ít quan tâm đến cha mẹ vì nhu cầu của cá nhân.
- Suy nghĩ sáng tạo: đánh giá, bình luận về sức mạnh của tình mẫu tử trong
cuộc sống của con người khi đối mặt với những khó khăn, thử thách; cội nguồn của
sự sáng tạo, của hạnh phúc; về các hình ảnh thơ.
* Mục tiêu: hình thành những kĩ năng sống cho học sinh như kĩ năng tự
nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tư duy sáng tạo.
Đồng thời giáo dục các em về tình yêu, sự trân trọng tình mẫu tử, tình cảm gia
đình đối với cuộc sống con người
Nói tóm lại, việc xác định nội dung, các kĩ năng sống và mục tiêu của việc giáo
dục là bước đầu tiên quan trọng nhất mà mỗi giáo viên dạy cần phải nắm chắc.
2.3.2. Xác định phương pháp - kĩ thuật dạy học tích cực trong quá trình
giáo dục.
* Phương pháp - kĩ thuật dạy học phù hợp với kĩ năng sống được giáo dục.
Phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học rất phong phú và đa dạng. Điều
quan trọng nhất là phải lựa chọn làm sao cho hiệu quả và sử dụng linh hoạt. Bản
thân tôi trong quá trình dạy học thấy việc lựa chọn phương pháp - kĩ thuật dạy học
phụ thuộc nhiều vào mức độ nội dung truyền đạt, các kĩ năng sống cần giáo dục
và các bước tiến hành giáo dục. Đặc biệt việc áp dụng các phương pháp - kĩ thuật
phải thật sự phù hợp với các kĩ năng sống được giáo dục thì mới đạt hiệu quả.
Ví dụ: Tiết 122: Nói với con
Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục
Phương pháp - Kĩ thuật dạy học
- Tự nhận thức được cội nguồn sâu sắc - Thảo luận nhóm: trao đổi về những
của cuộc sống chính là gia đình, quê tâm tư chân thành, tha thiết của người
hương, dân tộc.
cha khi theo dõi những bước đi của con
- Làm chủ bản thân, đặt mục tiêu về mình, về những giá trị sâu sắc trong

7


cách sống của bản thân qua lời tâm tình
của người cha.
- Suy nghĩ sáng tạo: đánh giá, bình luận
về những lời tâm tư của người cha, về vẻ
đẹp của những hình ảnh thơ trong bài thơ.

cuộc sống và con đường phấn đấu của
mình.
- Động não: suy nghĩ, nêu những cảm
nhận, ấn tượng sâu đậm của bản thân về
giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Trong quá trình dạy học tôi đã xác định một vài trường hợp cụ thể như sau:
- Kĩ năng giao tiếp, thể hiện sự tự tin, lắng nghe tích cực / phương pháp - kĩ
thuật trình bày 1 phút, thảo luận nhóm, hỏi và trả lời...
- Kĩ năng nhận thức, xác định giá trị / phương pháp - kĩ thuật giải quyết vấn
đề, động não, thảo luận nhóm.
- Kĩ năng hợp tác, tìm kiếm sự hỗ trợ / Phương pháp thảo luận nhóm, cặp đôi chia sẻ.
* Phương pháp – kĩ thuật dạy học phù hợp với các bước của bài dạy và
được triển khai theo một tiến trình hợp lí .
- Để triển khai một bài giáo dục kĩ năng sống thì gồm có 4 bước: khám phá, kết
nối, thực hành – luyện tập, vận dụng. Mỗi bước sẽ có một vai trò mục tiêu và mức
độ
khó dễ và thời gian khác nhau. Vì vậy dựa vào mức độ của từng bước mà giáo viên
có thể áp dụng các phương pháp – kĩ thuật sao cho phù hợp. Ví dụ như sau:
- Ở bước khám phá: đây là bước nhằm kiểm tra kiến thức cũ, hiểu biết bước
đầu của học sinh đối với kiến thức trong bài mới, nên mức độ dễ và thời gian ít.

Mặt khác ở bước này học sinh đã được hướng dẫn chuẩn bị ở nhà nên tôi thường
áp dụng các phương pháp - kĩ thuật đòi hỏi thời gian ngắn, học sinh tư duy nhanh
như phương pháp – kĩ thuật động não, trình bày 1 phút, hỏi và trả lời...
Ví dụ: Tiết 112: Con cò. Để giải quyết những vấn đề sau:
- Hãy đọc các câu ca dao viết về hình ảnh con cò.
- Hình ảnh con cò thường tượng trưng cho đối tượng nào trong xã hội xưa?
- Hãy trình bày ngắn gọn những cảm nhận chung của em về hình ảnh con cò
trong ca dao Việt Nam.
Tôi đã sử dụng phương pháp – kĩ thuật hỏi và trả lời, động não, phát biểu,
trình bày một phút để học sinh nêu những hiểu biết và cảm nhận chung về hình
ảnh con cò trong ca dao Việt Nam.
Kết quả: hình thành cho học sinh kĩ năng tự nhận thức vấn đề, giao tiếp, sự tự tin.
- Ở bước vận dụng: Đây là bước cuối cùng trong một bài dạy giáo viên có thể
triển khai ở trên lớp và ở nhà. Ở trên lớp, bước này tôi thường dùng để củng cố nội
dung bài học. Nếu triển khai ở nhà thì giao bài tập cụ thể cho học sinh.
Ví dụ: Tiết 75, 76: Chiếc lược ngà
- Để củng cố nội dung bài học: Hãy nêu cảm nhận chung của em về nhân
vật ông Sáu, bé Thu trong tác phẩm.
+ Giáo viên có thể sử dụng phương pháp – kĩ thuật hỏi và trả lời, thảo luận
nhanh, trình bày 1 phút để học sinh trình bày những cảm nhận chung về nhân vật.
+ Kết quả: hình thành kĩ năng giao tiếp, sự tự tin, xác định đánh giá giá trị.

8


- Bài tập về nhà: Vết sẹo trên khuôn mặt ông Sáu gợi cho em những suy nghĩ
gì về nỗi đau chiến tranh gây ra? Hãy viết bài văn ngắn trình bày những suy
nghĩ của em về vấn đề này.
+ Để hoàn thành bài tập, học sinh vận dụng phương pháp – kĩ thuật động
não, làm việc cá nhân, viết sáng tạo để nêu những suy nghĩ, quan điểm của mình

về nỗi đau mà chiến tranh gây ra đối với cuộc của con người.
+ Kết quả: hình thành kĩ năng suy nghĩ sáng tạo, thể hiện sự cảm thông, tự
nhận thức, phê phán, ra quyết định, ...đối với nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho con
người.
b. Sử dụng phương pháp - kĩ thuật cũng cần phải triển khai theo một tiến
trình hợp lí. Tiến trình đó phụ thuộc phần nhiều vào năng lực hướng dẫn, tổ chức
của giáo viên và sự hiểu biết, tư duy của học sinh. Khi sử dụng các phương pháp
- kĩ thuật, thông thường giáo viên triển khai theo tiến trình sau: Nêu vấn đề (tức
là giao nhiệm vụ); Hướng dẫn khích lệ học sinh làm việc; Đưa ra các câu hỏi gợi
ý nếu cần; Học sinh trình bày ý kiến (kết quả); Nhận xét, phân loại ý kiến; Giáo
viên tổng kết vấn đề.
Ví dụ: Tiết 126: Mây và sóng. Để giải quyết vấn đề: Ngoài ca ngợi tình mẫu
tử bài thơ còn gợi cho ta suy ngẫm thêm điều gì nữa? Giáo viên có thể sử dụng
cùng một lúc nhiều phương pháp - kĩ thuật như động não, thảo luận nhóm, “khăn
trải bàn”… Ở vấn đề này tôi đã triển khai như sau:
- Giáo viên chia nhóm (4 học sinh) và phát giấy A0 cho mỗi nhóm.
- Giáo viên nêu vấn đề để các nhóm làm nhiệm vụ.
- Học sinh chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh chia thành 4.
- Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và nêu các ý kiến của mình vào phần cạnh “khăn
trải bàn” trước mặt mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm ra ý tưởng chung và viết vào
phần chính giữa “khăn trải bàn”.
- Học sinh trình bày kết quả của nhóm lên bảng.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung , tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
=> Học sinh đã đi đến những kết luận sau:
- Trong cuộc sống con người thường phải đối mặt với những cám dỗ, tình
mẫu tử là điểm tựa vững chắc để vượt qua những cám dỗ đó.
- Tình yêu là cội nguồn của sự sáng tạo (yêu mẹ em bé đã sáng tạo trò chơi).
- Hạnh phúc của con người không phải do ai ban tặng, cũng không hề xa
xôi, bí ẩn mà rất gần gũi và do chính con người tạo ra.
Kết quả: Thông qua phương pháp – kĩ thuật này giúp học sinh có được những kĩ

năng tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ. Từ đó tăng cường kĩ năng tự nhận thức
của bản thân về tình mẫu tử, về lối sống: biết trân trọng và gìn giữ tình cảm gia
đình.
Nói tóm lại, phương pháp, kĩ thuật dạy học là yếu tố quan trọng của quá trình
dạy học. Yếu tố này quyết định trực tiếp đến kết quả của quá trình giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh ở mỗi giáo viên. Nên khi chuẩn bị bài dạy giáo viên cần phải gia
công cẩn thận, tỉ mỉ và phải tiến hành thật sự linh hoạt, tự nhiên thì mới đạt kết quả.
2. 3.3. Xác định các bước giáo dục kĩ năng sống trong bài dạy.
9


Cũng giống một bài dạy học thông thường, một bài giáo giáo dục kĩ năng
sống thường được thực hiện theo 4 bước. Cụ thể là khám phá, kết nối, thực hànhluyện tập, vận dụng. Mỗi bước có một vai trò nhất định trong việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh. Bản thân tôi trong quá trình dạy học đã tiến hành như sau:
a. Bước khám phá.
* Mục đích của bước này là kích thích học sinh tự tìm hiểu xem các em đã biết gì
về những khái niệm, kĩ năng, kiến thức đã được học. Giúp giáo viên đánh giá, xác
định thực trạng (kiến thức, kĩ năng...) của học sinh trước khi giới thiệu vấn đề mới.
* Để đạt được mục đích của bước này tôi thường tiến hành như sau:
- Chia thành các bước nhỏ:
+ Chuẩn bị ở nhà: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới thông qua hệ thống
câu hỏi có liên quan đến bài học mới tiếp theo.
+ Kiểm tra bài cũ: Tôi sẽ kiểm tra kiến thức của học sinh đã chuẩn bị ở nhà.
Từ đó sẽ nắm được những hiểu biết ban đầu của các em về vấn đề đang được
hướng tới. (Kiểm tra theo hướng tích hợp).
+ Đặt vấn đề: giáo viên nhận xét, khái quát vấn đề và giới thiệu vào bài học
mới hoặc nêu nội dung và mục tiêu của giờ học sẽ được triển khai.
- Xác đinh phương pháp – kĩ thuật động não, trình bày 1 phút, hỏi và trả lời...
- Xác định mục tiêu: bước đầu định hướng cho học sinh hình thành những kĩ
năng như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giao tiếp, kĩ

năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
Ví dụ: Tiết 126: Mây và sóng
- Chuẩn bị ở nhà:
+ Liệt kê các tác phẩm văn học viết về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình
cảm của mẹ dành cho con.
+ Chuẩn bị đoạn văn ngắn nêu những cảm nhận của em về tình cảm gia đình
mà em đã được học.
- Kiểm tra bài cũ: Sử dụng kĩ thuật hỏi và trả lời, động não, trình bày 1 phút để học
sinh kể tên những tác phẩm đã được học viết về tình cảm gia đình và trình bày những
cảm nhận chung về tình cảm đó.
+ Hãy liệt kê các tác phẩm văn học em đã được học viết về tình cảm gia
đình. Em có những cảm nhận gì về tình cảm đó? (Học sinh kể tên các tác phẩn
và trình bày những cảm nhận chung của mình)
- Đặt vấn đề: Giáo viên đặt vấn đề và giới thiệu vào bài mới
Kết quả: giáo viên sẽ định hướng cho học sinh những kĩ năng như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức, xác định giá trị: học sinh nhận thức được giá trị tình
cảm gia đình đối với mỗi người; nhận thức được vấn đề giáo viên sẽ đặt ra trong
bài mới sẽ là vấn đề liên quan ở phần kiểm tra bài cũ.
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin, giao tiếp: học trình bày các vấn đề mình biết
trước lớp, trước thầy cô.
* Qua bước khám phá này, bước đầu tôi định hướng giúp học sinh tự hình
thành các kĩ năng sống cơ bản sau: Kĩ năng thể hiện sự tự tin, Kĩ năng tự nhận
thức, Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng ứng xử...
10


b. Bước kết nối.
* Mục đích của bước này là giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới
thông qua việc tạo cầu nối liên kết giữa cái đã biết và chưa biết. Cầu nối này sẽ
kết nối kinh nghiệm hiện có của học sinh với bài học mới.

* Trên thực tế bước kết nối này được thực hiện thông qua các hoạt động, nhiệm
vụ chính của mỗi tiết học. Lúc này mục tiêu lớn nhất là truyền đạt những đơn vị kiến
thức vào bài học. Tùy vào nội dung của mỗi bài mà giáo viên có cách giáo dục kĩ
năng sống với các phương pháp - kĩ thuật dạy học khác nhau.
Ở bước này, với đặc trưng của tiết dạy Văn phần truyền đạt kiến thức cho
học sinh thường chia làm 2 phần lớn (Tìm hiểu chung, Phân tích). Trong mỗi
phần lớn có rất nhiều các nội dung nhỏ. Vì vậy việc sử dụng các phương pháp kĩ thuật dạy học phải thật sự linh hoạt. Ví dụ:
- Ở phần: Tìm hiểu chung
Mục đích của phần này giúp học sinh nắm được những nét chính về tác giả,
tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác, đọc, tóm tắt nếu có, tìm hiểu chú thích, bố cục, hệ
thống nhân vật, phương thức biểu đạt..). Ngay phần này giáo viên có thể giáo
dục các kĩ năng sống cho học sinh.
Ví dụ: Tiết 75, 76: Chiếc lược ngà. Giáo viên sử dụng kĩ thuật làm việc cá
nhân, kĩ thuật hỏi và trả lời vào những vấn đề sau:
+ Nêu những nét chính về tác giả Nguyễn Quang Sáng.
+ Tác phẩm được sáng tác năm nào? Hoàn cảnh đất nước ta thời bấy giờ?
+ Hãy tóm tắt nội dung chính của tác phẩm.
Kết quả: Học sinh nắm được những nét chính về tác giả, hoàn cảnh sáng tác
của tác phẩm và hoàn cảnh chung của lịch sử nước ta năm 1966, nắm được nội
dung chính của truyện thông qua việc tóm tắt tác phẩm. Qua đó hình thành kĩ
năng giao tiếp, thể hiện sự tự tin cho học sinh.
- Giáo viên sử dụng kĩ thuật thảo luận chung, suy nghĩ, phát biểu vào vấn đề sau:
+ Cho biết tác phẩm viết về đề tài gì?
+ Hãy xác định tình huống truyện và cho biết tình huống nào bộc lộ tình cảm
của từng nhân vật nhất?
+ Hãy nêu phương thức biểu đạt chính. Em có suy nghĩ gì về việc sử dụng
ngôi kể và người kể chuyện trong tác phẩm?
Kết quả: Bước đầu học sinh xác định được đề tài chính của tác phẩm là tình
cảm gia đình, xác định được những tình huống truyện quan trọng trong việc bộc
lộ tình cảm của nhân vật, thấy được tác dụng của ngôi kể và vai trò của người kể

chuyện trong việc thể hiện nội dung tác phẩm. Qua đó hình thành kĩ năng nhận
thức, tìm kiếm sự hỗ trợ, suy nghĩ sáng tạo cho học sinh.
- Ở phần Phân tích
Mục đích ở phần này là cung cấp kiến thức chính và trọng tâm nhất cho học sinh.
Cụ thể là phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Giáo viên có thể sử dụng
nhiều phương pháp - kĩ thuật dạy học và hình thành nhiều kĩ năng sống cho học sinh.

11


Ví dụ: Tiết 126: Mây và sóng. Khi phân tích nội dung 3. Trò chơi của em bé.
Tôi đã sử dụng kĩ thuật động não, thảo luận nhóm, tranh luận để học sinh giải quyết
vấn đề sau: Ý nghĩa trong trò chơi của em bé với mẹ.
- Giáo viên đưa câu hỏi gợi ý:
+ Khước từ lời gọi mời của mây và sóng em bé đã nghĩ ra trò chơi giữa em và
mẹ. Hãy kể và tả lại trò chơi ấy. Từ đó em có nhận xét gì về trò chơi của em?
+ Trong đó những từ ngữ nào thể hiện được tình yêu giữa mẹ và em?
+ Vì sao em bé lại ví mình là mây, sóng còn mẹ là trăng và bến bờ? Các hình
ảnh thiên nhiên đó gợi cho em điều gì?
+ Đặc biệt từ các hình ảnh thiên nhiên và câu cuối: “Và không ai trên thế gian
này biết mẹ con ta ở chốn nào?” mang ý nghĩa gì?
- GV sử dụng kĩ thuật trình bày 1 phút yêu cầu học sinh nêu cảm nhận chung về
trò chơi của em bé. Và cho biết bài thơ ca ngợi điều gì?
Kết quả thảo luận:
+ Trò chơi của em bé và mẹ: con: mây – mẹ: trăng; con: sóng – mẹ: bến bờ
=> Rất hấp dẫn: có mẹ và em, có cả mây và sóng, trăng và bến bờ.
- Từ ngữ:
+ Ôm: sự trìu mến, yêu thương
+ Lăn, lăn..: sự thích thú, niềm sung sướng vô bờ của trẻ thơ khi được ùa
vào lòng mẹ.

- Hình ảnh thiên nhiên:
+ Trăng: sự dịu hiền của mẹ; Bờ: sự bao dung, tấm lòng rộng mở của người mẹ.
+ Mây và sóng: em bé thích vui chơi, nô đùa, chạy nhảy...
=> Trò chơi của em hoà quyện với thiên nhiên và thấm đẫm tình mẹ con.
( Mẹ là thế giới để con khám phá, niềm hạnh phúc ấy không có bến bờ và
nếu có, nó cũng bí ẩn như bến bờ đại dương. Em bé giống như con sóng ngụp
lặn trong tiếng cười, trong niềm vui bất tận)
=> Tình mẫu tử đã nâng lên kích cỡ vũ trụ và có mặt ở khắp mọi nơi, không
gì có thể chia cắt => Ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
Kết quả: Học sinh nắm được sự sáng tạo của em bé, cảm nhận được tình
yêu của em dành cho mẹ và mẹ dành cho em. Tình yêu đó không biên giới và
mãi vĩnh hằng trong trên thế gian. Qua đó hình thành cho học sinh những kĩ
năng như kĩ năng giao tiếp, tìm kiếm sự hỗ trợ, suy nghĩ sáng tạo, tự nhận thức
về giá trị và niềm hạnh phúc vô bờ của tình yêu.
- Nhờ bước kết nối này tôi vừa giúp các em hình thành, xâu chuỗi kiến thức
về nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm. Vừa có thể lồng ghép các bài học
về kĩ năng sống giúp các em hiểu được từ nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của mỗi tác
phẩm đã dạy cho em bài học gì trong cách ứng xử của cuộc sống.
c. Bước thực hành - luyện tập.
* Mục đích của bước này là tạo cơ hội cho người học thực hành vận dụng kiến
thức và kĩ năng mới vào một bối cảnh / hoàn cảnh / điều kiện có ý nghĩa. Định hướng
để học sinh thực hiện đúng cách. Điều chỉnh những hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch.

12


Khác với phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn có bài tập cụ thể ở phần
Thực hành – Luyện tập thì ở phân môn Văn phần Thực hành – Luyện tập thường
không có bài tập cụ thể, do đó giáo viên thường phải chuẩn bị thêm hệ thống câu
hỏi luyện tập trong bài dạy của mình nhằm mục đích củng cố, khắc ghi và mở

rộng thêm kiến thức cho học sinh.
* Ở bước này, học sinh có thể làm việc theo nhóm, cặp hoặc cá nhân để hoàn
thành nhiệm vụ. Tuỳ vào yêu cầu của mỗi bài tập mà giáo viên đưa ra phương pháp
dạy học tích cực sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bài tập dễ thì nâng cao
vai trò hoạt động của cá nhân; bài tập khó, khái quát thì yêu cầu học sinh hoạt động
theo nhóm/ tổ. Hoạt động này vừa huy động được tinh thần tập thể vừa giúp mỗi
thành viên hình thành các kĩ năng sống như: Kĩ năng hoạt động nhóm, kĩ năng đảm
nhận trách nhiệm, kĩ năng kiên định.
Cũng từ mục đích và quá trình thực hiện trên có thể triển khai ở bước
Thực hành - Luyện tập này một số phương pháp - kĩ thuật dạy học tích cực như
sau: Trình bày 1 phút, thảo luận nhóm, tranh luận, hoàn tất một nhiệm vụ, suy
nghĩ, cặp đôi chia sẻ...
Ví dụ: Tiết 75, 76: Chiếc lược ngà. Sau khi học xong tác phẩm, tôi đã dùng kĩ
thuật động não, suy nghĩ, trình bày một phút để tìm hiểu vấn đề sau: Suy nghĩ của em
về ý nghĩa hình ảnh chiếc lược ngà trong tác phẩm.
Từ việc trình bày của mình, học sinh sẽ cảm nhận được tình cảm cha con ông
Sáu, sức mạnh của tình cha con thể hiện thông qua chiếc lược ngà. Thông điệp mà
tác phẩm đưa đến cho người đọc là chiến tranh có thể huy diệt tất cả nhưng không
thể huy diệt được tình cảm của con người – cụ thể là tình cảm gia đình. Từ đó giáo
dục các em sự trân trọng tình cảm gia đình, phê phán lên án chiến tranh...
* Như vậy, qua bước thực hành - luyện tập giáo viên đã áp dụng được nhiều
phuơng pháp - kĩ thuật dạy học tích cực. Từ đó học sinh vừa có thể thực hành luyện tập để củng cố, khắc sâu các đơn vị kiến thức đã học, vừa có thể tự rèn
luyện, tự nhận thức ra một số kĩ năng sống cơ bản mà trước đây ít khi được đưa
vào phần này. Nhờ đó giúp học sinh liên hệ giải quyết những vấn đề còn tồn tại
của bản thân, của cuộc sống.
d. Bước vận dụng.
* Với đặc trưng của bài dạy Văn thì bước này thường không có trong sách
giáo khoa. Thế nhưng để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thì giáo viên cần
hướng dẫn học sinh thêm phần này. Thật ra ở bước này giáo viên thường làm hai
nhiệm cụ: Củng cố và giao nhiệm vụ làm bài tập ở nhà cho học sinh với mục

đích tạo cơ hội cho học sinh tích hợp mở rộng và vận dụng kiến thức, kĩ năng có
được vào các tình huống, bối cảnh mới.
Có nghĩa là sau khi hình thành kiến thức, kĩ năng mới học sinh được Thực
hành - Luyện tập trên lớp để khắc sâu kiến thức, kĩ năng ấy. Từ đó học sinh được
giáo viên hướng dẫn tự vận dụng để giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống
và có thể tích hợp với các tiết học Tập làm văn, Tiếng Việt. Hình thành, xâu
chuỗi kiến thức, kĩ năng theo một hệ thống. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự
giải quyết vấn đề, kĩ năng tự trình bày vấn đề.
13


* Trong quá thực hiện bước này giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng
dẫn, người đánh giá. Còn học sinh là người đóng vai trò người lập kế hoạch,
người sáng tạo, người giải quyết vấn đề, người trình bày, đánh giá. Trên cơ sở đó,
tôi áp dụng các phương pháp - kĩ thuật dạy học tích cực sau:
- Phần củng cố kiến thức: có thể áp dụng các phương pháp - kĩ thuật động
não, suy nghĩ, trình bày 1 phút, tranh luận để học sinh giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Tiết 75, 76: Chiếc lược ngà. Nhằm củng cố học sinh phần kiến thức về
tình cảm của nhân vật bé Thu, tôi đã đặt ra vấn đề sau: Theo em cá tính ương bướng,
cứng rắn của bé Thu có thống nhất với tình cảm của em dành cho người cha của
mình không? Để giải quyết vấn đề này tôi đã sử dụng các kĩ thuật động não, suy
nghĩ, trình bày 1 phút, tranh luận để học sinh giải quyết vấn đề.
Qua giải quyết vấn đề học sinh sẽ nhận ra sự thống nhất trong tính cách và
tình cảm của bé Thu dành cho người cha của mình, đó là một tình cảm mãnh liệt
và sâu sắc. Học sinh sẽ có được những kĩ năng giao tiếp, sự tự tin, giải quyết
vấn đề, ra quyết định…có nhận thức hơn về tình cảm của con cái đối với cha mẹ.
Phần bài tập ở nhà: Với đòi hỏi cao hơn ở học sinh trong việc tích hợp ba
phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn. Ở phần này có thể sử dụng phương pháp kĩ
thuật viết sáng tạo, làm việc cá nhân, động não...để yêu cầu học sinh hoàn thành
nhiệm vụ được giao.

Ví dụ: Sau khi học xong bài Nói với con, tôi yêu cầu học sinh làm nhiệm vụ
với vấn đề sau: Dựa vào lời dặn dò của người cha với con trong bài thơ, em sẽ
làm gì để xây dựng gia đình, quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.
Ở vấn đề này học sinh phải sử dụng phương pháp thảo luận nhóm hoặc làm
việc cá nhân, kĩ thuật động não, viết tích cực để nêu lên những việc làm, con
đường phấn đấu của mình để xây dựng, gia đình, quê hương, đất nước giàu đẹp.
Kết quả: thông qua giải quyết vấn đề học sinh có thể nhận thấy được trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với gia đình, quê hương, đất nước. Từ đó đặt mục
tiêu phấn đấu cho bản thân trong hiện tại và tương lai. Hình thành kĩ năng tự nhận
thức giá trị, tìm kiếm sự hỗ trợ, xử lí thông tin, giải quyết đề…
* Từ mục đích và quá trình thực hiện, có thể hình thành các kĩ năng cho học sinh
như: Kĩ năng tự nhận thức vấn đề, tự sáng tạo, hợp tác, làm việc theo nhóm.
3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với những kinh nghiệm đã áp dụng ở trên, trong quá trình giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh, tôi thấy đã đạt được những kết quả nhất định ở nhiều mặt:
- Đối với bản thân và đồng nghiệp: việc chuẩn bị bài dạy nhẹ nhàng hơn. Bên
cạnh đó quá trình triển khai một giờ dạy trên lớp cũng trở nên mềm mại, linh hoạt,
nhuần nhuyễn hơn trước, không chỉ ở phân môn Văn mà cả phân môn Tiếng Việt và
Tập làm văn. Từ đó, tôi đã rút ra cho mình bài học kinh nghiệm trong dạy học Ngữ
văn, đó là: Muốn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào mỗi tiết học, phải xác định
được các kĩ năng sống cần giáo dục, linh hoạt sử dụng những phương pháp - kĩ thuật
dạy học phù hợp, giúp học sinh hình thành những kĩ năng sống đúng đắn, chuẩn
mực.

14


- Đối với học sinh: Thông qua quá trình giáo dục kĩ năng sống, tôi thấy các em
đã có sự chuyển biến rõ rệt ở nhiều mặt như lời nói, việc làm, hành động và trong các
mối quan hệ với thầy cô, bạn bè. Các em đã tự biết điều chỉnh các hành vi của mình

cho phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp như: Tự giác giúp đỡ bạn khi bạn gặp
khó khăn, tự tin hơn trong các hoạt động tập thể, luôn đoàn kết yêu thương, giúp đỡ
nhau hơn, đặc biệt quan tâm, cảm thông với những bạn có hoàn cảnh đặc biệt tạo nên
một tập thể lớp vững mạnh. Đặc biệt các em còn có thể ứng xử với những tình huống
bất ngờ xảy ra mà không cần đến việc hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên...
Từ đó tôi thấy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm rất
cần thiết, quan trọng và hữu ích. Sự giáo dục đó không chỉ nằm ở bản thân một
môn học mà còn là ở sự giúp đỡ, kết hợp của nhiều yếu tố, nhiều môn học, nhiều
biện pháp khác nhau. Nếu có được sự kết hợp đó thì cái đích về giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh sẽ ngày càng cao hơn.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 9 qua các tác phẩm văn học
viết về đề tài gia đình năm học 2016 - 2017 qua bài kiểm tra mà tôi áp dụng kinh
nghiệm trên đã thu được kết quả như sau:
Bảng kết quả năm học 2016 - 2017.
Lớp
8A
8B
Tổng

Tổng
số
30
30
60

Điểm giỏi
(9->10
điểm)
SL
8

7
15

%
26,7
23,3
25,0

Điểm khá
(7->8,75
điểm)
SL
14
12
26

%
46,6
40,0
43,3

Điểm
trung bình
(5>6,75điểm)
SL
%
8
26,7
11
36,7

19
31,7

Điểm yếu
(3->4,75
điểm)
SL
0
0
0

%

Điểm
yếu
(dưới 3
điểm)
SL %
0
0
0

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Kỹ năng sống là yêu cầu rất cần thiết đối với mỗi người, đặc biệt là lứa tuổi
học sinh THCS, khi tâm sinh lý của các em đang ở giai đoạn phát triển, hoàn thiện.
Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là yêu cầu cấp thiết đặc biệt trong thời đại.
Như vậy, mục đích cao nhất của giáo dục kĩ năng sống là giúp người học
thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục kĩ năng sống thúc đẩy người học
thay đổi hay định hướng các giá trị thái độ và hành động. Trong phạm vi vấn đề này

chính là định hướng các giá trị về tình cảm gia đình. Thế nhưng để thay đổi hành vi,
thái độ và giá trị ở học sinh là một quá trình khó khăn. Do đó cần phải có sự kiên trì
chờ đợi của bản thân người giảng dạy. Chính vì vậy đây là nhiệm vụ mang tính
chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp của người giáo viên.
Trên đây là một vài kinh nghiệm tôi đã sử dụng trong việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 9 qua các tác phẩm văn học viết về đề tài gia đình trong môn
Ngữ văn. Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian, tư liệu và trình độ cho phép nên
15


trong quá trình rút ra kinh nghiệm cho mình, tôi đang còn gặp nhiều vướng mắc,
nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục tìm hiểu sâu hơn. Kính mong sự đóng góp chân
thành của các đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị.
* Với phòng giáo dục: Tổ chức nhiều hơn nữa các tiết dạy mẫu để cho giáo
viên được học hỏi đồng nghiệp. Tổ chức các chuyên đề về phương pháp dạy học
văn, mở các lớp học ngoại khoá để giáo viên có cơ hội trao đổi, học tập những kinh
nghiệm của nhau.
* Với nhà trường: Để cho giờ dạy sinh động, hiệu quả nhà trường cần có
phòng học bộ môn Ngữ văn riêng, có máy chiếu, đài, đĩa...để thuận lợi cho GV
sử dụng giáo án điện tử.
Tổ chức các buổi thảo luận, trao đổi của tổ, tham quan giao lưu giữa các
trường để nâng cao chất lượng giờ dạy.
* Với đồng nghiệp: CÇn thêng xuyªn trao ®æi kinh nghiÖm, d¹y
kỹ năng sống cho học sinh thông qua các tác phẩm văn học.
Hiện nay, không ít học sinh có xu hướng không thích học hoặc xem nhẹ
các môn học xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng. Phần đông các học sinh
không say mê, yêu thích học môn Ngữ văn mà chỉ say mê học những môn tự
nhiên (toán, lí, hoá,...) nhằm chạy theo nhu cầu thực tế của thời đại. Cũng chính
vì thế mà mỗi khi học văn, học sinh không tập trung, khiến cho việc tiếp thu

ngày càng khó khăn. Điều đó, lại càng đòi hỏi người giáo viên dạy Ngữ văn phải
sáng tạo, tìm ra những biện pháp, kỹ năng truyền thụ nội dung bài học đến với
học sinh một cách dễ hiểu nhất, hay phải tạo được giờ học thu hút, làm học sinh
thêm yêu thích học môn Ngữ văn. Để làm được việc này thì người giáo viên
phải có tâm huyết, nhiệt tình với nghề, phải tìm ra được điểm mạnh, điểm yếu
trong tiết học để kịp thời khắc phục những thiếu xót, rút kinh nghiệm cho bản
thân vào những tiết giảng dạy sau. Và một vài kinh nghiệm của tôi đưa ra ở trên
còn nhiều hạn chế, tôi rất mong được đồng nghiệp quan tâm, trao đổi để sáng
kiến của tôi được hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thọ Xuân, ngày 24 tháng 3 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm do tôi viết, không sao chép
nội dung của người khác!
Người viết

16


BÀI SOẠN MINH HOẠ
Tiết 126:

Văn bản:

MÂY VÀ SÓNG
(R.Ta-go)

I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT.
1. Kiến thức:

- Cảm nhận được ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử và những đặc sắc về nghệ
thuật trong việc sáng tạo những cuộc đối thoại tưởng tượng và xây dựng các hình
ảnh thiên nhiên của tác giả.
- Tình mẫu tử thiêng liêng qua lời thủ thỉ chân tình của em bé với mẹ về những
cuộc đối thoại tưởng tượng giữa em bé với những người sống trên “mây và sóng”.
- Những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ qua trí tưởng tượng bay bổng của tác
giả.
2. Kĩ năng:
- Đọc - hiểu một văn bản dịch thuộc thơ văn xuôi.
- Phân tích để thấy được ý nghĩa sâu sắc của bài thơ.
3. Thái độ:
- Có thái độ gần gũi, tôn trọng và biết ơn mẹ bằng những việc làm cụ thể trong
đời sống hàng ngày và trong học tập
II. CÁC KĨ NĂNG SỐNG CƠ BẢN ĐƯỢC GIÁO DỤC TRONG BÀI.
1. Tự nhận thức giá trị của tình mẫu tử, tình cảm gia đình trong cuộc sống của
con người.
2. Làm chủ bản thân: tự xác định được tình yêu thương vô bờ bến của mẹ và của
gia đình, từ đó rút ra bài học về tình yêu thương, trách nhiệm của con cái. Nhất là trong
xã hội ngày nay con cái thường ít quan tâm đến cha mẹ vì nhu cầu của cá nhân mình.

17


3. Suy nghĩ sáng tạo: đánh giá, bình luận về sức mạnh của tình mẫu tử trong
cuộc sống của con người khi đối mặt với những khó khăn, thử thách; cội nguồn của
sự sáng tạo, của hạnh phúc; về các hình ảnh thơ.
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP – KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC CÓ THỂ
SƯ DỤNG.
1. Thảo luận nhóm, trình bày 1 phút về trò chơi sáng tạo của em bé và cách thể hiện
tình mẫu tử qua các hình ảnh thiên nhiên.

2. Cặp đôi chia sẻ về cấu tạo của bài thơ.
3. Động não, kĩ thuật “khăn trải bàn” để bàn về giá trị của tình mẫu tử trong
cuộc sống của con người và các hình ảnh thơ trong bài.
4. Lập bản đồ tư duy về bài thơ.
IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC.
1. Giấy khổ to, bút màu nét to, tranh về tác giả.
2. Bản đồ tư duy vẽ mẫu phóng to.
V. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC.
1. Khám phá.
* Kiểm tra bài cũ: Giáo viên sử dụng kĩ thuật hỏi và trả lời, động não, trình bày
1 phút để học sinh kể tên những tác phẩm đã được học viết về tình cảm gia đình và
trình bày những cảm nhận chung về tình cảm đó.
- Hãy liệt kê các tác phẩm em đã được học viết về tình cảm gia đình. Em có
những cảm nhận gì về tình cảm đó? (Học sinh kể tên các tác phẩm và trình bày cảm
nhận chung của mình)
* Giáo viên đặt vấn đề: Có thể nói rằng tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm,
tình yêu thương của mẹ dành cho con là tình cảm đẹp đẽ, thiêng liêng. Đã có biết
bao bài thơ hay được khơi nguồn từ tình cảm tuyệt diệu ấy. Tình yêu đó đã được
nhà thơ Chế Lan Viên đúc kết thành một quy luật mang tính chất triết lí sâu sắc về
tình mẹ và ý nghĩa lời ru trong bài Con cò:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
Hay trong thơ của Nguyễn Duy với bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.
Thế nhưng ngoài tình yêu của mẹ dành cho con, chúng ta còn được bắt gặp một
tình cảm cũng thiêng liêng, kì diệu, hài hoà trong tình mẫu tử, đó là tình cảm của con
dành cho mẹ. Tình cảm thiêng liêng cao đẹp này đã được Ta –go, một nhà thơ lớn
của Ấn Độ thể hiện trong bài Mây và sóng. Tiết học này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
2. Kết nối.

Hoạt động của Giáo viên và Học sinh
Nội dung bài học
HĐ1. Hướng dẫn HS tìm hiểu chung I. TÌM HIỂU CHUNG.
về tác giả và tác phẩm.
1. Tác giả.
* GV sử dụng kĩ thuật hỏi và trả lời, - Ta-go sinh năm 1861 mất 1941
phát biểu để HS tìm hiểu về tác giả.
- Là nhà thơ hiện đại lớn nhất của Ấn
- Hãy nêu những nét chính về tác giả? Độ
18


(HS trình bày những nét chính về Ta-go) - 1913 ông được nhận giải thưởng Nô- Nêu đặc điểm của thơ Ta-go. (HS trình ben về văn học với tập Thơ Dâng
bày những nét chính về thơ Ta-go)
- Đặc điểm thơ:
+ Thể hiện tinh thần dân tộc, dân chủ
sâu sắc, tính thần nhân văn cao cả và
tính chất trữ tình triết lí nồng đượm
* GV bổ sung thêm những nét chính về + Sử dụng thành công những hình ảnh
cuộc đời nhà thơ Ta-go và giới thiệu thiên nhiên mang ý nghĩa tượng trưng,
chân dung nhà thơ.
những hình thức liên tưởng so sánh và
thủ pháp trùng điệp.
2. Tác phẩm.
- Hãy nêu xuất xứ của bài thơ. (HS trả a. Xuất xứ
lời)
- Bài thơ được in trong tập Si-su (Trẻ
thơ -1909), dịch sang tiếng Anh in trong
tập Trăng non (1915)
- GV Hướng dẫn HS kĩ thuật đọc diễn b. Đọc

cảm để HS đọc và cảm nhận bước đầu về
bài thơ: Đây là một bài thơ văn xuôi
(không có luật và vần), tuy nhiên bài
thơ vẫn có những âm điệu nhịp nhàng.
Khi đọc chúng ta cần phải thể hiện
được âm điệu nhịp nhàng này.
- Bài thơ là cuộc đối thoại của ai và ai?
(HS: là cuộc đối thoại của em bé với mẹ)
- Cuộc đối thoại này có gì đặc biệt?
(HS: Do em bé tưởng tượng ra)
- Dựa vào lời nói của em bé với mẹ c. Bố cục
hãy cho biết bài thơ được chia làm mấy - Bài thơ chia làm hai phần:
phần? Hãy xác định các phần.
+ Phần I: Từ đầu -> và mái nhà ta sẽ
- Em thấy hai phần này về cấu tạo có là bầu trời xanh thẳm
giống nhau không? (HS: Hai phần cơ + Phần II: còn lại
bản giống nhau)
* GV sử dụng kĩ thuật cặp đôi chia sẻ, - Không có phần thứ hai thì ý thơ không
động não, tranh luận để yêu cầu HS trọn vẹn và đầy đủ. Vì tình yêu của em
giải thích vấn đề: Nếu không có phần bé dành cho mẹ là tình yêu có thử thách.
thứ hai thì ý thơ có trọn vẹn và đầy Và phải trải qua nhiều thử thách thì tình
đủ không? Vì sao? (HS thảo, tranh yêu đó mới bền vững và trọn vẹn.
luận, trình bày và giải thích)
* GV tiếp tục sử dụng phương pháp- kĩ - Điểm giống: trình tự tường thuật
thuật thảo luận nhóm để HS tìm ra + Thuật lại lời rủ rê gọi mời
những điểm giống và khác nhau giữa + Thuật lại lời chối từ và lí do từ chối
hai phần. (HS thảo luận và trình bày kết + Thuật lại trò chơi sáng tạo của em bé
quả)
và mẹ.
19



* GV chuyển sang phần II.
HĐ2. Hướng dẫn HS phân tích bài
thơ.
* GV sử dụng kĩ thuật hỏi và trả lời,
phát biểu để HS tìm hiểu.
- Những người ở trên mây và sóng đã
gọi mời em bé những gì? (HS tìm hiểu
và trả lời)
* GV cho HS thảo luận nhanh và trình
bày về vấn đề sau: Lời gọi mời của
những người ở trên mây và sóng có
hấp dẫn không? Vì sao nó hấp dẫn?
(HS thảo luận và trình bày được: Lời
gọi mời của mây và sóng rất hấp dẫn vì
đã mở ra trước mắt em bé một thế giới
vô cùng kì ảo, lung linh sắc màu, đầy lôi
cuốn với lứa tuổi thích bay bổng, mơ
mộng của em. Đó là những cuộc ngao du
kì thú, được vui chơi ca hát với những
nàng tiên cá, những chú tiên đồng... em
bé như được bước vào thể giới thần
tiên).
- Chính vì vậy, em bé đã thế nào?
- Mây và sóng đã hướng dẫn em như
thế nào? (HS trả lời)
* GV cho HS thảo luận nhanh và trình
bày về vấn đề sau: Em có nhận xét gì
về cách để đến được với mây và

sóng? (HS thảo luận chung trình bày
được: Cách đến với mây và sóng cũng
rất hấp dẫn, kì diệu như trong cổ tích.
Chỉ một khoảng khắc, hoặc đưa tay lên
trời, hoặc nhắm mắt lại, điều kì diệu sẽ
diễn ra trong chớp mắt.
- Nhưng cuối cùng em bé có đến với
mây và sóng hay không?(HS: Không)
- Vì sao vậy? Chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp
* Giáo viên sử dụng kĩ thuật động não
cho HS thảo luận, tranh luận vấn đề

- Khác:
+Ý và lời
+ Cảnh vật thiên nhiên
+ Trò chơi
+ Phần 2 tình cảm da diết, rõ nét hơn.
II. PHÂN TÍCH
1. Lời gọi mời của những người ở trên
mây và sóng.
- Mây: chơi từ khi thức dậy đến chiều tà,
chơi với bình minh vàng, vầng trăng bạc
Sóng: ca hát từ sáng sớm đến hoàng hôn,
ngao du nơi này nơi nọ…
=> Rất hấp dẫn. Vì đã mở ra một thế giới
kì ảo, lung linh sắc màu, đầy lôi cuốn với
em.

- Hỏi cách đến với mây và sóng.
- Cách đến với mây và sóng: đưa tay lên

trời sẽ được nhấc bổng lên tận tầng mây;
nhắm nghiền mắt lại, sẽ được làn sóng
nâng đi. => rất hấp dẫn như trong cổ tích.

2. Lời chối từ của em bé.
- Bởi: Mẹ mình đang đợi ở nhà và
20


sau: Vì sao em bé lại chối từ lời gọi
mời của mây và sóng? Điều gì đã
khiến em chối từ? Qua lời chối từ đó
chúng ta cảm nhận được điều gì ở em
và mẹ? (HS thảo luận và trình bày suy
nghĩa của mình)
- Nếu cho rằng mây và sóng là những
cám dỗ thì điều gì đã khiến em bé khước
từ sự cám dỗ đó? (HS suy nghĩ và phát
biểu ý kiến)
* GV bình và chốt kiến thức: Hai lần
mây và sóng rủ rê, tương ứng với hai
lần níu kéo. Nhưng làm sao em có thể
rời xa cái không gian tuy nhỏ bé nhưng
quen thuộc và ấm áp gia đình có mẹ có
em mỗi sớm mỗi chiều. Cũng giống
như cánh diều dù có bay bổng đến đâu
cũng nương tựa vào sợi dây để giữ thế
thăng bằng. Con thuyền ngang dọc
giữa đại dương có la bàn để không lạc
hướng. Thì ra ước mơ dù có lãng mạn

đến vô cùng vẫn là ước mơ của con
người, không thể dời xa mảnh đất mà
con người gắn bó. Hình ảnh của người
mẹ là hình ảnh của quê hương, hình
ảnh bình dị và thiêng lỉêng cho con
người dù đi đến cùng trời cuối đất. Đây
chính là tính nhân văn của bài thơ.
- Khước từ mây và sóng, em bé đã làm
gì? Chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần tiếp.
* GV sử dụng kĩ thuật động não, thảo
luận nhóm, tranh luận để HS giải quyết
vấn đề sau: Ý nghĩa trong trò chơi của
em bé.
* GV đưa câu hỏi gợi ý:
- Khước từ lời gọi mời của mây và sóng
em bé đã nghĩ ra trò chơi giữa em và mẹ.
Hãy kể và tả lại trò chơi ấy. Từ đó em có
nhận xét gì?
- Những từ ngữ nào thể hiện được tình
yêu của mẹ và em?

Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà
-> em đã cảm nhận được tình yêu mẹ
dành cho em
- Làm sao có thể rời mẹ mà đến
được...?-> Tình yêu của em dành cho
mẹ.
=> Mẹ rất yêu em, em thấu hiểu và rất
yêu mẹ, nên em không thể rời xa mẹ.
=> Tình cảm hai chiều thiết tha, cảm

động => Tình yêu đã giúp em chiến
thắng sự cám dỗ (giá trị nhân văn của
bài thơ)

3. Trò chơi của em bé.

- Con: mây - mẹ: trăng
Con: sóng - mẹ : bến bờ
=> Rất hấp dẫn: có mẹ và em, có cả mây
và sóng, trăng và bến bờ.
- Từ ngữ:
+ Ôm: sự trìu mến, yêu thương
21


- Vì sao em bé lại ví mình là mây, sóng
còn mẹ là trăng và bến bờ? Các hình ảnh
thiên nhiên đó gợi cho em điều gì?

- Đặc biệt từ các hình ảnh thiên nhiên đó
và câu cuối: “Và không ai trên thế gian
này biết mẹ con ta ở chốn nào?” mang ý
nghĩa gì?
* GV sử dụng kĩ thuật trình bày 1 phút
nêu cảm nhận chung về trò chơi của em
bé. (HS trình bày cảm nhận của mình)
- Bài thơ ca ngợi điều gì?
(HS thảo luận và trình bày cảm nhận)

+ Lăn, lăn.. : sự thích thú, niềm sung

sướng vô bờ của trẻ thơ khi được ùa
vào lòng mẹ.
- Hình ảnh thiên nhiên:
+ Trăng: sự dịu hiền của mẹ
+ Bờ: sự bao dung, tấm lòng rộng mở
của người mẹ.
+ Mây và sóng: em bé thích vui chơi,
chạy nhảy
=> Trò chơi của em hoà quyện với
thiên nhiên và thấm đẫm tình mẹ con.
( Mẹ là thế giới để con khám phá, niềm
hạnh phúc ấy không có bến bờ và nếu
có, nó cũng bí ẩn như bến bờ đại
dương. Em bé giống như con sóng
ngụp lặn trong tiếng cười, trong niềm
vui bất tận)
=> Tình mẫu tử đã nâng lên kích cỡ vũ
trụ và có mặt ở khắp mọi nơi, không gì
có thể chia cắt => Tình mẫu tử thiêng
liêng, bất diệt.

3. Luyện tập:
* GV cho HS sử dụng kĩ thuật “khăn trải bàn”, thảo luận nhóm, động não...giải
quyết vấn đề sau:
+ Ngoài ca ngợi tình mẫu tử bài thơ còn gợi cho ta suy ngẫm thêm điều gì
nữa?
+ Liên hệ bản thân, rút ra những điều cần học tập về tình cảm gia đình, về
cách ứng xử với người thân trong gia đình.
* Giáo viên khuyến khích HS suy nghĩ, thảo luận trình bày ý kiến về tình mẫu tử
và cách ứng xử của bản thân đối với tình cảm gia đình vào giấy A0. Từ đó tăng

cường kĩ năng tự nhận thức của bản thân về tình mẫu tử, về lối sống: biết trân trọng
và gìn giữ tình cảm gia đình.
* GV nhận xét, đánh giá và bổ sung trả lời của HS và đưa ra kết luận:
- Trong cuộc sống con người thường phải đối mặt với những cảm dỗ, tình mẫu
tử là điểm tựa vững chắc để vượt qua những cảm dỗ đó.
- Tình yêu là cội nguồn của sự sáng tạo (yêu mẹ em bé đã sáng tạo trò chơi và
thực tế cuộc sống cũng đã chứng minh điều đó).
- Hạnh phúc của con người không phải do ai ban tặng, cũng không hề xa xôi,
bí ẩn mà rất gần gũi và do chính con người tạo ra.
* GV yêu cầu HS nêu giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng hình ảnh thiên nhiên giàu ý nghĩa tượng trưng.
22


+ Cấu tạo hai phần giống và khác nhau, hình thức đối thoại lồng trong lời kể của em
bé.
- Nội dung: Ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
* GV cho HS tổng kết lại bài học thông qua phần Ghi nhớ trong SGK.
4. Vận dụng:
* Củng cố bài học: GV sử dụng Bản đồ tư duy (có ở trang sau) vẽ bài thơ Mây
và sóng để HS khái quát lại toàn bài thơ. Qua đó HS nắm chắc thêm về nội dung
của bài
* Bài tập về nhà: HS suy nghĩ, viết cá nhân nêu những cảm nhận về giá trị tình
cảm gia đình qua bài thơ Mây và sóng (GV kiểm tra kết quả vào tiết sau).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngữ văn 9 tập 1 ( NXB Giáo Dục - 2009).
2. Ngữ văn 9 tập 2 ( NXB Giáo Dục - 2009).
3. Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập 1 ( NXB Giáo Dục - 2003).

4. Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập 2 ( NXB Giáo Dục - 2003).
5. Giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THCS ( NXB Giáo Dục
Việt Nam - 2010).

23


24



×